Yếu tố ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận: Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam

Bài báo trình bày nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến Quản trị lợi nhuận

dồn tích và Quản trị lợi nhuận thực tế của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt

Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 06 trong số 08 yếu tố ảnh hưởng đến Quản

trị lợi nhuận dồn tích và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5%, 10%; có 02 yếu tố có

ảnh hưởng đến Quản trị lợi nhuận thực tế; 05 yếu tố (BCTC hợp nhất, Chủ tịch

HĐQT kiêm Tổng Giám đốc, Hiệu quả hoạt động kinh doanh, Đòn bẩy tài chính,

Phát hành cổ phiếu) có ảnh hưởng thuận chiều đến AEM1, ngược lại yếu tố Quy

mô và chất lượng kiểm toán có quan hệ ngược chiều với AEM1. Kết quả nghiên

cứu này đã cung cấp thêm bằng chứng về Quản trị lợi nhuận khi xem xét theo

khía cạnh Quản trị lợi nhuận dồn tích và Quản trị lợi nhuận thực tế, đồng thời gợi

mở việc áp dụng các mô hình Quản trị lợi nhuận khi thực hiện các nghiên cứu

trong tương lai đối với doanh nghiệp niêm yết trong nước và quốc tế.

pdf 8 trang kimcuc 16200
Bạn đang xem tài liệu "Yếu tố ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận: Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Yếu tố ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận: Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam

Yếu tố ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận: Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 60
KINH TẾ
YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN: NGHIÊN CỨU 
TRƯỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM 
FACTORS AFFECTING EARNINGS MANAGEMENT: CASE STUDY OF LISTED FIRMS IN VIETNAM 
Hoàng Thị Việt Hà1*, Đặng Ngọc Hùng1 
TÓM TẮT 
Bài báo trình bày nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến Quản trị lợi nhuận 
dồn tích và Quản trị lợi nhuận thực tế của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt 
Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 06 trong số 08 yếu tố ảnh hưởng đến Quản 
trị lợi nhuận dồn tích và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5%, 10%; có 02 yếu tố có 
ảnh hưởng đến Quản trị lợi nhuận thực tế; 05 yếu tố (BCTC hợp nhất, Chủ tịch 
HĐQT kiêm Tổng Giám đốc, Hiệu quả hoạt động kinh doanh, Đòn bẩy tài chính, 
Phát hành cổ phiếu) có ảnh hưởng thuận chiều đến AEM1, ngược lại yếu tố Quy 
mô và chất lượng kiểm toán có quan hệ ngược chiều với AEM1. Kết quả nghiên 
cứu này đã cung cấp thêm bằng chứng về Quản trị lợi nhuận khi xem xét theo 
khía cạnh Quản trị lợi nhuận dồn tích và Quản trị lợi nhuận thực tế, đồng thời gợi 
mở việc áp dụng các mô hình Quản trị lợi nhuận khi thực hiện các nghiên cứu 
trong tương lai đối với doanh nghiệp niêm yết trong nước và quốc tế. 
Từ khóa: EM; AEM; REM 
ABSTRACT 
The paper examines the factors that influence accruals based earnings 
management (AEM) and real earnings manipulation (REM) of enterprises in 
Vietnam. Results showed that six out of eight factors had effect on AEM and 
were statistically significant at 1%, 5% and 10%, respectively. There were two 
factors that affected REM. Five of them had positive impact on AEM1 (i.e 
financial statement, the chairman of the board of directors cum general director, 
business performance, financial leverage and share issuance). In contrast, size 
and quality of audit had negative one AEM1. This finding provides further 
evidence of EM in terms of AEM and REM, and suggests the use of EM models for 
future studies on Enterprises in Vietnam and other countries in the world. 
Keywords: earnings management; accruals based earnings management; 
real earnings manipulation 
1Khoa Kế toán-Kiểm toán, Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*E-mail: hoangthivietha@gmail.com 
Ngày nhận bài: 16/01/2018 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 10/04/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 15/06/2018 
CHỮ VIẾT TẮT 
AEM: Accruals Based Earnings Management (Quản trị lợi nhuận dồn tích) 
BCTC: Báo cáo tài chính 
DNNY: Doanh nghiệp niêm yết 
EM: Earnings Management (Quản trị lợi nhuận) 
HĐQT: Hội đồng quản trị 
REM: Real Earnings Manipulation (Quản trị lợi nhuận thực tế) 
1. GIỚI THIỆU 
Một trong những yếu tố quan trọng thu hút sự quan 
tâm của các nhà đầu tư đó là chỉ tiêu lợi nhuận, qua đó 
đánh giá hiệu quả kinh doanh và triển vọng tăng trưởng 
của doanh nghiệp. Nhà đầu tư thường có xu hướng đầu tư 
vào các doanh nghiệp có hiệu quả kinh tế và triển vọng 
tăng trưởng cao. Chính vì vậy, các doanh nghiệp, đặc biệt là 
DNNY thường có xu hướng thổi phồng kết quả kinh doanh 
trong những giai đoạn quan trọng. Có nhiều lý do khiến 
nhà quản trị doanh nghiệp luôn tìm mọi cách có thể để 
chuyển dịch lợi nhuận giữa các năm thông qua EM. Nhận 
biết được các yếu tố có ảnh hưởng đến EM của nhà quản trị 
và kỹ thuật điều chỉnh như thế nào sẽ giúp các đối tượng sử 
dụng thông tin, đặc biệt là nhà đầu tư có được nguồn 
thông tin chính xác để đưa ra quyết định đúng đắn là vấn 
đề có ý nghĩa lớn. 
Theo Gunny (2005), Dechow và Skinner (2000), Cohen 
và Zarowin (2010), EM được chia thành hai loại cơ bản: EM 
thông qua biến kế toán dồn tích AEM và EM thông qua sự 
dàn xếp các giao dịch thực tế REM. Trên thế giới, đã có 
nhiều nghiên cứu thực nghiệm nhằm kiểm tra mức độ phù 
hợp của mô hình EM, xem xét, đưa ra các mô hình để nhận 
diện và đo lường EM của nhà quản lý. Tuy nhiên, những mô 
hình này có phù hợp khi áp dụng tại thị trường chứng 
khoán Việt Nam? Các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam 
có kết quả không đồng nhất và mới chỉ dừng lại nghiên cứu 
dữ liệu với đặc trưng là dữ liệu chéo (cho một năm hoặc 
cho nhiều năm) mà chưa xem xét các yếu tố ảnh hưởng 
đến EM, vậy những yếu tố nào ảnh hưởng đến AEM và 
REM? Để trả lời câu hỏi này, nghiên cứu được thực hiện 
nhằm xem xét mức độ phù hợp của mô hình nhận diện 
hành vi AEM và REM phổ biến trên thế giới, đồng thời xác 
định các yếu tố, mức độ và chiều ảnh hưởng của từng yếu 
tố đến EM của các DNNY trên thị trường chứng khoán Việt 
Nam theo AEM và REM. Qua đó, nhà đầu tư, cổ đông và 
người có nhu cầu sử dụng thông tin BCTC của các DNNY sẽ 
có cái nhìn tổng quát hơn khi đưa ra các quyết định. Từ kết 
quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm 
hạn chế hành vi EM theo khía cạnh AEM và REM, góp phần 
nâng cao chất lượng thông tin BCTC của các DNNY. 
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU 
Mô hình AEM 
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh trên báo cáo lưu 
chuyển tiền tệ được lập theo cơ sở tiền, không thể điều 
chỉnh được, vì vậy muốn điều chỉnh lợi nhuận, nhà quản trị 
phải điều chỉnh các biến kế toán dồn tích. Theo các nhà 
nghiên cứu, các biến kế toán dồn tích (Accruals) gồm hai 
phần: phần không thể điều chỉnh (NDA) và phần có thể 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 61
điều chỉnh từ nhà quản trị (DA). Để đo lường phần DA, phải 
xác định phần biến NDA, bởi biến này liên quan đến hoạt 
động bình thường của doanh nghiệp. Tóm lại, để nhận 
diện có hay không hành vi AEM của các nhà quản trị, cần 
xác định phần biến kế toán không thể điều chỉnh (NDA). 
Mô hình của Dechow và cộng sự (1995), là một biến thể 
từ mô hình của Jones (1991), được cải biến bằng cách điều 
chỉnh sự thay đổi của doanh thu bằng sự thay đổi của 
khoản nợ phải thu. Mô hình được phát triển nhằm giảm sự 
sai số của mô hình trong việc xác định biến dồn tích bất 
thường khi nhà quản lý chi phối doanh thu (phương trình 1). 
(1) 
Trong đó,  = Phải thu khách hàng t – Phải thu 
khách hàng t - 1. 
Kothari và cộng sự (2005), cho rằng thông thường động 
lực thực hiện AEM là do sự xuất hiện một sự kiện nào đó, vì 
thế mối quan hệ giữa dồn tích và hiệu quả hoạt động của 
doanh nghiệp trước sự kiện này rất cao. Hơn nữa, mô hình 
của Jones (1991), Dechow và cộng sự (1995), tỏ ra không 
chính xác trong trường hợp doanh nghiệp có sự tăng 
trưởng quá lớn. Vì thế, Kothari và cộng sự (2005), đã bổ 
sung thêm biến ROA vào mô hình của Dechow và cộng sự 
(1995), (phương trình 2). 
(2) 
Mô hình REM 
Cách tiếp cận để nhận diện hành vi EM nói chung và 
REM nói riêng là thông qua các mô hình ước tính 
(Estimation Models). Theo Cupertino và cộng sự (2015), mô 
hình ước tính là các mô hình hồi quy được xây dựng để đo 
lường mức thông thường trong các hoạt động sản xuất 
kinh doanh của doanh nghiệp. Phần dư của các phép hồi 
quy trên sẽ được xem là “bất thường” và là các biến đại 
diện cho REM. Nói cách khác, chênh lệch giữa giá trị quan 
sát và giá trị ước tính sẽ phản ánh mức độ thực hiện hành vi 
REM của nhà quản trị. Dựa vào nghiên cứu về quan hệ giữa 
lợi nhuận và dòng tiền của Dechow và cộng sự (1998), 
Roychowdhury (2006), đã xây dựng mô hình nhận diện ba 
hành vi REM phổ biến thông qua các mô hình ước tính về 
dòng tiền hoạt động, chi phí sản xuất và chi phí tùy ý 
(phương trình 3). 
(3) 
Trong đó, CFOit là dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh 
doanh phát sinh của doanh nghiệp i năm t,  là 
chênh lệch doanh thu của doanh nghiệp I giữa năm t và 
năm t-1. 
(4) 
 (5) 
(6) 
Trong đó, PRODit là chi phí sản xuất phát sinh trong năm 
doanh nghiệp i năm t; COGSit là giá vốn hàng bán trong kỳ 
doanh nghiệp i năm t; INVit là biến động giá trị hàng tồn 
kho của doanh nghiệp i năm t (Roychowdhury, 2006). 
(7) 
(8) 
Trong đó, DISEXPit là chi phí tùy ý (bao gồm chi phí 
nghiên cứu và phát triển và chi phí bán hàng, quản lý 
doanh nghiệp) của doanh nghiệp i phát sinh trong năm t; 
Ait-1 là tổng tài sản năm của doanh nghiệp i năm t-1; Salesit-1 
là doanh thu phát sinh trong năm doanh nghiệp i năm t-1 
(Roychowdhury, 2006). 
Sau khi tính toán các hệ số của mô hình này, phần giá trị 
sai số ngẫu nhiên (chênh lệch giữa giá trị quan sát 

và giá trị ước tính trung bình 

 thu được từ mô hình 
trên) được xem là mức bất thường trong chi phí tùy ý của 
doanh nghiệp. Phần giá trị này không được giải thích bởi 
các biến trong mô hình và bị chi phối bởi nhà quản trị, do 
đó là biến đại diện cho hành vi REM thông qua cắt giảm các 
chi phí tùy ý. 
Tổng quan nghiên cứu 
Về AEM: Swastika (2013), đã khảo sát mối quan hệ giữa 
các yếu tố có ảnh hưởng đến EM, đó là: số lượng thành viên 
HĐQT, tính độc lập của thành viên, quy mô doanh nghiệp 
và chất lượng doanh nghiệp kiểm toán. Kết quả nghiên cứu 
đã chỉ ra rằng, các biến về HĐQT có mối quan hệ thuận 
chiều với hành vi AEM, các biến chất lượng doanh nghiệp 
kiểm toán và quy mô doanh nghiệp có quan hệ nghịch 
chiều với biến phụ thuộc AEM. Ahmad-Zaluki và cộng sự 
(2011), đã tiến hành khảo sát thực nghiệm 250 DNNY trong 
giai đoạn 1990-2000, áp dụng mô hình của Jones (1991), để 
nhận diện hành vi EM của các DNNY. Nghiên cứu này đã 
chứng minh rằng các doanh nghiệp có EM nhiều nhất vào 
những năm đầu niêm yết, đặc biệt là các DNNY trong giai 
đoạn khủng hoảng kinh tế. Nguyễn Thị Minh Trang (2012), 
nghiên cứu về AEM của nhà quản trị ở bốn loại hình doanh 
nghiệp khác nhau, đó là: doanh nghiệp cổ phần, doanh 
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn và 
doanh nghiệp nhà nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ứng 
với mỗi loại hình doanh nghiệp sẽ có các nguyên nhân EM 
khác nhau. Trong khi đó, Đặng (2015), cho thấy các doanh 
nghiệp có xu hướng điều chỉnh giảm lợi nhuận vào năm áp 
dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giảm. Nguyễn 
Hà Linh (2017), cũng đã sử dụng mô hình của Jones (1991), 
cung cấp kết quả về mối quan hệ có ý nghĩa giữa các biến 
thuộc Đặc điểm quản lý-kiểm soát và EM là các biến 
BOARD, OWN1, OWN2, AUDIT. 
Về REM: Graham và cộng sự (2005), thực hiện khảo sát 
401 giám đốc tài chính (CFOs) và cho thấy một con số kinh 
ngạc là 78% trong số họ thừa nhận rằng “họ sẽ từ bỏ một 
phần giá trị kinh tế của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu 
lợi nhuận mong muốn miễn là giá trị hy sinh không quá 
 = 1
 1
−1
+ 2
  − 
 −1
+ 3
 
−1
  = 1
 1
 −1
+ 2
  − 
−1
+ 3
 
 −1
 + 4 −1

 −1
= 0 + 1
 1
−1
+ 1
 
−1
+ 2
 
−1
+ ɛ

−1
= 0 + 1
 1
−1
+ 
 
 −1
+ ɛ

−1
= 0 + 1
 1
−1
+ 1
 
 −1
+ 2
  −1
−1
+ ɛ

 −1
= 0 + 1
 1
 −1
+ 1
 
−1
+ 2
 
−1
+ 3
 −1
−1
+ ɛ

−1
= 0 + 1
 1
−1
+ 
 
−1
+ ɛ 

−1
= 0 + 1
 1
 −1
+ 
 −1
−1
+ ɛ 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 62
KINH TẾ
lớn”. Các nghiên cứu ban đầu về REM tập trung vào việc 
nhà quản trị cắt giảm chi phí nghiên cứu và phát triển để 
tăng lợi nhuận trong kỳ. Dechow và cộng sự (1998), tiến 
hành nghiên cứu thực nghiệm và chỉ ra rằng các giám đốc 
cắt giảm chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) vào những 
năm cuối để tăng lợi nhuận trong ngắn hạn. Việc cắt giảm 
này sẽ bị hạn chế nếu họ sở hữu cổ phiếu của doanh 
nghiệp. Baber và cộng sự (1991), cũng cho thấy các doanh 
nghiệp Mỹ sẵn sàng cắt giảm chi phí R&D của doanh 
nghiệp để đạt được ngưỡng lợi nhuận mong muốn. Các 
nghiên cứu của Roychowdhury (2006), Gunny (2010), cũng 
cho kết quả tương tự. Cách thức phổ biến thứ hai để thực 
hiện REM là tiến hành sản xuất một cách thái quá. Bằng 
cách này, giá vốn mỗi đơn vị hàng bán sẽ giảm xuống bởi 
chi phí sản xuất cố định sẽ được phân bổ cho nhiều đơn vị 
hơn. Thomas và Zhang (2002), cho thấy các doanh nghiệp 
tăng mức hàng tồn kho sẽ có mức lợi nhuận cao hơn trong 
năm và sẽ giảm đột ngột vào những năm sau đó. Tuy 
nhiên, nghiên cứu không loại bỏ được ảnh hưởng của điều 
kiện kinh tế suy thoái, là một trong những nguyên nhân 
giải thích hiện tượng trên. Roychowdhury (2006), đã chỉ ra 
rằng việc các doanh nghiệp áp dụng sản xuất một cách thái 
quá như một cách thức để tránh lỗ. 
Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Phương Loan và Nguyễn Minh 
Thao (2016), sử dụng dữ liệu của 610 DNNY tại Sở Giao dịch 
Chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong giai 
đoạn từ 2008-2015, bằng các mô hình hồi quy đã được 
kiểm định, nghiên cứu đã cho thấy nhà quản trị có áp dụng 
hành vi REM để tránh lỗ. 
Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu trước đây có sử 
dụng mô hình của Jones (1991), trong nghiên cứu này, tác 
giả sử dụng hai mô hình đã được cải tiến là mô hình của 
Dechow và cộng sự (1995) và mô hình của Kothari và cộng 
sự (2005). Mặt khác, các nghiên cứu trước đây thường 
nghiên cứu riêng rẽ theo AEM hoặc theo REM, trong nghiên 
cứu này, tác giả sử dụng đồng thời cả AEM và REM trên 
cùng một mẫu nghiên cứu. 
Giả thuyết nghiên cứu 
BCTC hợp nhất: Đối với doanh nghiệp hoạt động theo 
mô hình công ty mẹ - công ty con, công ty mẹ phải lập 
BCTC hợp nhất, báo cáo này được lập và trình bày trên cơ 
sở BCTC riêng của công ty mẹ và các BCTC của các công ty 
con. Để thực hiện lập BCTC hợp nhất, công ty mẹ phải xác 
định phạm vi hợp nhất, loại trừ khoản đầu tư của công ty 
mẹ vào công ty con, tiến hành loại trừ các giao dịch nội 
bộ... Do tính phức tạp trong việc lập và trình bày BCTC hợp 
nhất, EM sẽ lớn hơn so với việc lập và trình bày BCTC của 
các công ty độc lập. Theo đó, tác giả đưa ra giả thuyết H1: 
Doanh nghiệp lập BCTC hợp nhất có ảnh hưởng quan hệ 
thuận chiều đến AEM và REM. 
Số lượng thành viên HĐQT: Theo Beasley (1996), việc 
tăng tỷ lệ các thành viên HĐQT bên ngoài sẽ làm giảm mức 
độ gian lận BCTC. Các nghiên cứu khác cũng đã cho thấy, 
tăng tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập sẽ làm giảm điều chỉnh 
lợi nhuận (Peasnell và cộng sự, 2005). Theo đó, tác giả đưa 
ra giả thuyết H2: Số lượng thành viên HĐQT có ảnh hưởng 
ngược chiều đến AEM và REM. 
Chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc: Khi một cá nhân 
đảm nhiệm cả hai vị trí chủ tịch HĐQT và kiêm tổng giám 
đốc, có thể sẽ tạo ra nhữ ̃ng mâu thuẫn về lợi ích. Việc tập 
trung quyền lực vào tay một cá nhân có thể làm xuất hiện 
những hành vi vượt quá giới hạn (Kumari và Pattanayak, 
2014). Hơn nữa, nếu hai chức năng này là một, sẽ làm giảm 
chất lượng giám sát của HĐQT (Jensen và Meckling, 1976; 
Dechow và cộng sự, 1996; Xie và cộng sự, 2003), hoặc nhà 
quản trị sẽ hành động vì lợi ích cá nhân thay vì quyền lợi 
lâu dài của doanh nghiệp (Healy, 1985). Bản thân quan hệ 
đại diện giữa giám đốc và những người nắm giữ cổ phiếu 
đã là khởi nguồn của nhiều hành vi phục vụ cho lợi ích cá 
nhân, nếu giám đốc lại là người nằm trong HĐQT, sẽ thiếu 
đi sự giám sát cần thiết trong điều tiết quan hệ đại diện. 
Mulgrew và Forker (2006), đã cho thấy nếu chủ tịch HĐQT 
kiêm tổng giám đốc thì nhiều khả năng EM sẽ cao. Theo đó, 
tác giả đưa ra giả thuyết H3: Chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám 
đốc có ảnh hưởng thuận chiều đến AEM và REM. 
Bảng 1. Các biến trong mô hình nghiên cứu 
Tê ... ng kê ở mức 1%. Kết quả này phù hợp với giả 
thuyết H4 ban đầu và kết quả nghiên cứu của Cheng và 
Warfield (2005), Charfeddine và cộng sự (2013), nhưng 
không tương đồng với kết quả của Alves (2012), đã cho 
Bảng 7. Kết quả hồi quy mô hình OLS (ROBUST) 
 AEM1 AEM2 REM 
CONS 0,0156* 0,0252** -0,0206 
[1,66] [2,52] [-0,14] 
BOARD -0,000062 -0,000685 -0,0545 
[-0,02] [-0,21] [-1,31] 
DUAL 0,0222** 0,0262*** 0,0771 
[2,43] [2,86] [0,49] 
AUDIT -0,0177* -0,0158 -0,0613 
[-1,85] [-1,58] [-0,43] 
ROA 0,297*** 0,288*** 1,104*** 
[6,30] [5,63] [2,83] 
SIZE 0,00234 0,000153 0,00666 
[0,89] [0,06] [0,45] 
LV 0,0764*** 0,0937*** 0,511** 
[3v16] [3,65] [2,48] 
ISSU 0,0308*** 0,0309*** 0,0486 
[2,61] [2,63] [1,32] 
_cons -0,0682** -0,0835** 1,101*** 
[-2,03] [-2,52] [3,43] 
N 1300 1300 1300 
R-sq: within 0,0982 0,102 0,0168 
between 0,1398 0,0623 0,0591 
overall 0,1082 0,0786 0,0475 
Wald chi2(8) 68v32 124,32 17,58 
Prob > chi2 0,0000 0,0000 0,0246 
t statistics in brackets * p < 0,1; ** p < 0,05; *** p < 0,01 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 66
KINH TẾ
thấy hiệu quả hoạt động tài chính không ảnh hưởng tới 
EM, trái ngược với nghiên cứu của Bowen và cộng sự 
(2008). 
Yếu tố Quy mô doanh nghiệp (SIZE) có quan hệ thuận 
chiều với AEM1, AEM2, REM nhưng không có ý nghĩa thống 
kê. Kết quả này không phù hợp với giả thuyết H6 ban đầu 
và các kết quả của Barton và Simko (2002), Myers và cộng 
sự (2007). 
Yếu tố Đòn bẩy tài chính (LV) có ảnh hưởng thuận 
chiều đến AEM1, AEM2, REM và có ý nghĩa thống kê ở mức 
1%, 5%. Kết quả này trái với với giả thuyết H7 ban đầu và 
trái với kết quả của Charfeddine và cộng sự (2013), 
Alsharairi (2012), Shen và Chih (2007), Fathi (2013). 
Yếu tố Phát hành cổ phiếu (ISSU) có ảnh hưởng thuận 
chiều đến AEM1, AEM2 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. 
Kết quả này phù hợp với giả thuyết H8 ban đầu và tương 
đồng với kết quả của Rangan (1995), Teoh và cộng sự 
(1998), Thái Thị Hằng (2014). Tuy nhiên, khi xét theo mô 
hình REM, yếu tố này có ảnh hưởng thuận chiều nhưng 
không có ý nghĩa thống kê. 
Như vậy, theo kết quả của các nghiên cứu trên thế giới, 
doanh nghiệp thường có xu hướng sử dụng REM hơn AEM, 
tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu này đã cho thấy, các 
doanh nghiệp quản trị theo khía cạnh AEM hơn là REM trên 
cơ sở thực nghiệm tại các doanh nghiệp ở Việt Nam. Điều 
này có thể do thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong 
quá trình phát triển, vì vậy nhà quản trị sử dụng các biện 
pháp EM theo REM chưa nhiều. Tuy nhiên, trong tương lai, 
biện pháp này có thể sẽ được sử dụng nhiều hơn, do đó các 
đối tượng liên quan sự đa dạng của nhà quản trị trong việc 
sử dụng các biện pháp để EM vì các mục tiêu khác nhau. 
5. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 
Dựa vào nghiên cứu thực nghiệm, kết quả nghiên cứu 
cho thấy, khi đo lường các yếu tố theo mô hình AEM1 đã 
chỉ ra, có sáu trong số tám yếu tố có ảnh hưởng đến AEM1 
và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5%, 10%; có năm yếu tố 
tác động thuận chiều đến AEM1, đó là: BCTC hợp nhất 
(CONS), Chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc (DUAL), Hiệu 
quả hoạt động kinh doanh (ROA), Đòn bẩy tài chính (LV) và 
Phát hành cổ phiếu (ISSU); trái lại, yếu tố Quy mô và chất 
lượng kiểm toán (AUDIT) có quan hệ ngược chiều đến 
AEM1. Đo lường các yếu tố theo mô hình AEM2 cho kết quả 
khá tương đồng với kết quả theo mô hình AEM1, tuy nhiên 
có sự khác biệt là yếu tố Quy mô và chất lượng kiểm toán 
(AUDIT) có quan hệ nghịch chiều nhưng không có ý nghĩa 
thống kê. Đo lường các yếu tố theo mô hình REM đã chỉ ra 
hai yếu tố có ảnh hưởng thuận chiều và có ý nghĩa thống 
kê, đó là: Hiệu quả hoạt động kinh doanh (ROA) và Đòn bẩy 
tài chính (LV). Mức độ giải thích của các yếu tố đến biến 
phụ thuộc theo mô hình AEM1, AEM2, REM tương ứng với 
9,82%; 10,2%; 1,68%. Đây cũng chính là hạn chế của nghiên 
cứu này. 
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số gợi ý nhằm giúp 
nhà đầu tư, cổ đông và các đối tượng sử dụng thông tin có 
thể đánh giá được tốt hơn hành vi EM của các DNNY, như sau: 
Một là, thận trọng với những doanh nghiệp có cấu trúc 
phức tạp, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty 
con, vì những doanh nghiệp này phải lập BCTC hợp nhất 
do đó, có xu hướng AEM1, AEM2 thuận chiều. Đối với 
những doanh nghiệp có chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám 
đốc, tính minh bạch và trung thực của thông tin trên BCTC 
sẽ hạn chế, dễ xảy ra hiện tượng EM theo những mục tiêu 
khác nhau. 
Hai là, thận trọng trước khi đưa ra các quyết định đầu tư 
vào một DNNY có quy mô lớn. Trong năm doanh nghiệp 
phát hành cổ phiếu, nhà đầu tư cần dùng các mô hình EM 
để đánh giá tính trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận. Đối với 
cổ đông của các doanh nghiệp có quy mô lớn, cần thường 
xuyên cập nhật tình hình tài chính của doanh nghiệp, xem 
có biến động bất thường không. Công ty kiểm toán nên 
dùng mô hình EM để đo lường mức độ điều chỉnh lợi 
nhuận của các DNNY trước khi tiến hành các bước kiểm 
toán, từ đó, lựa chọn các thủ tục kiểm toán phù hợp để 
kiểm soát và nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán. Các tổ 
chức cho vay, tín dụng cần thận trọng trong quá trình soát 
xét, đánh giá hồ sơ vay của các DNNY có quy mô lớn, bởi vì 
rất có thể, để đạt được mục đích vay, nhà quản trị đã áp 
dụng các kỹ thuật dịch chuyển lợi nhuận, làm cho thông tin 
lợi nhuận không còn trung thực. 
Ba là, kết quả nghiên cứu này và các nghiên cứu trước 
đây đã cho thấy, chất lượng doanh nghiệp kiểm toán có 
ảnh hưởng ngược chiều đến hành vi AEM1 của các DNNY. 
Vì vậy, để tạo dựng niềm tin cho nhà đầu tư và các cổ đông, 
trước hết cần lựa chọn công ty kiểm toán. Tuy nhiên, ở 
nước ta, việc DNNY lựa chọn các công ty kiểm toán thuộc 
Big4 còn hạn chế (khoảng 34,61%). Do đó, để thu hút được 
nhà đầu tư mới ở trong và ngoài nước, các DNNY nên cân 
nhắc khi lựa chọn công ty kiểm toán kiểm toán và công bố 
rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng tạo niềm 
tin cho nhà đầu tư. Chi phí thuê các công ty kiểm toán 
thuộc Big4 khá cao, vì vậy, những doanh nghiệp có quy mô 
nhỏ sẽ không đủ khả năng để chi trả. Mặc dù một số công 
ty kiểm toán trong nước đã có quy mô tương đối lớn và uy 
tín, tuy nhiên, vẫn chưa có tài chính, do đó cần sớm xây 
dựng tiêu chí, thang đo để đo lường chất lượng kiểm toán 
trong nước theo tiêu chí chất lượng kiểm toán quốc tế. 
Trong thời gian chưa xây dựng được bộ tiêu chí, cần đánh 
giá và xếp hạng các công ty kiểm toán uy tín trong nước 
hàng năm và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông 
tin đại chúng để các DNNY làm căn cứ lựa chọn./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ahmad-Zaluki, N.A., Campbell, K. and Goodacre, A., (2011). Earnings 
management in Malaysian IPOs: The East Asian crisis, ownership control, and post-IPO 
performance. The International Journal of Accounting, 46(2): 111-137. 
2. Alsharairi, M., (2012). Does high leverage impact earnings management? 
Evidence from non-cash mergers and acquisitions. Journal of Financial and Economic 
Practice, 12(1): 17-33. 
3. Alves, S.., (2012). Ownership structure and earnings management: Evidence from 
Portugal. Australasian Accounting Business and Finance Journal, 6(1): 57-73. 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 67
4. Baber, W.R., Fairfield, P.M. and Haggard, J.A., (1991). The effect of concern about 
reported income on discretionary spending decisions: The case of research and 
development. Accounting review, 818-829. 
5. Barton, J. and Simko, P.J., (2002). The balance sheet as an earnings management 
constraint. The accounting review, 77(1): 1-27. 
6. Beasley, M.S., (1996). An empirical analysis of the relation between the board of 
director composition and financial statement fraud. Accounting review, 71(4): 443-465. 
7. Bowen, R.M., Rajgopal, S. and Venkatachalam, M., (2008). Accounting discretion, 
corporate governance, and firm performance. Contemporary Accounting Research, 25(2): 
351-405. 
8. Cohen, D.A. and Zarowin, P., (2010). Accrual-based and real earnings 
management activities around seasoned equity offerings. Journal of accounting and 
economics, 50(1): 2-19. 
9. Cornett, M.M., Marcus, A.J. and Tehranian, H., (2008). Corporate governance and 
pay-for-performance: The impact of earnings management. Journal of financial economics, 
87(2): 357-373. 
10. Cupertino, C.M., Martinez, A.L. and da Costa, N.C., (2015). Earnings 
manipulations by real activities management and investors’ perceptions. Research in 
International Business and Finance, 34: 309-323. 
11. Charfeddine, L., Riahi, R.. and Omri, A., (2013). The determinants of earnings 
management in developing countries: A study in the Tunisian context. IUP Journal of 
Corporate Governance, 12(1): 35-49. 
12. Chen, G., Firth, M., Gao, D.N. and Rui, O.M., (2006). Ownership structure, 
corporate governance, and fraud: Evidence from China. Journal of Corporate Finance, 12(3): 
424-448. 
13. Chen, X., Cheng, Q. and Wang, X., (2015). Does increased board independence 
reduce earnings management? Evidence from recent regulatory reforms. Review of 
Accounting Studies, 20(2): 899-933. 
14. Cheng, Q. and Warfield, T.D., (2005). Equity incentives and earnings 
management. The Accounting Review, 80(2): 441-476. 
15. Dechow, P.M., Kothari, S.P. and Watts, R.L., (1998). The relation between 
earnings and cash flows. Journal of accounting and economics, 25(2): 133-168. 
16. Dechow, P.M. and Skinner, D.J., (2000). Earnings management: Reconciling the 
views of accounting academics, practitioners, and regulators. Accounting horizons, 14(2): 
235-250. 
17. Dechow, P.M., Sloan, R.G. and Sweeney, A.P., (1995). Detecting earnings 
management. Accounting review, 70(2): 193-225. 
18. Dechow, P.M., Sloan, R.G. and Sweeney, A.P., (1996). Causes and consequences 
of earnings manipulation: An analysis of firms subject to enforcement actions by the SEC. 
Contemporary Accounting Research, 13(1): 1-36. 
19. Đặng, N.H., (2015). Nghiên cứu xu hướng EM do thay đổi thuế suất thuế thu 
nhập doanh nghiệp của các DNNY trên thị trường chứng khoán VN. Tạp chí Kinh tế và Phát 
triển, 219(1): 46-54. 
20. Fakhfakh, H. and Nasfi, F., (2012). The determinants of earnings management 
by the acquiring firms. Journal of Business Studies Quarterly, 3(4): 43. 
21. Fathi, J., (2013). The determinants of the quality of financial information 
disclosed by French listed companies. Mediterranean Journal of Social Sciences, 4(2): 319. 
22. Gallery, G., Cooper, E. and Sweeting, J., (2008). Corporate disclosure quality: 
lessons from Australian companies on the impact of adopting International Financial 
Reporting Standards. Australian Accounting Review, 18(3): 257-273. 
23. Graham, J.R., Harvey, C.R. and Rajgopal, S., (2005). The economic implications of 
corporate financial reporting. Journal of accounting and economics, 40(1): 3-73. 
24. Gunny, K.A., (2005). What are the consequences of real earnings management? 
25. Gunny, K.A., (2010). The relation between earnings management using real 
activities manipulation and future performance: Evidence from meeting earnings 
benchmarks. Contemporary Accounting Research, 27(3): 855-888. 
26. Healy, P.M., (1985). The effect of bonus schemes on accounting decisions. 
Journal of accounting and economics, 7(1): 85-107. 
27. Hirshleifer, D., (1993). Managerial reputation and corporate investment 
decisions. Financial Management, 22(2): 145-160. 
28. Jensen, M.C. and Meckling, W.H., (1976). Theory of the firm: Managerial 
behavior, agency costs and ownership structure. Journal of financial economics, 3(4): 305-
360. 
29. Jones, J.J., (1991). Earnings management during import relief investigations. 
Journal of accounting research, 29(2): 193-228. 
30. Kinney, J.W.R. and Martin, R.D., (1994). Does auditing reduce bias in financial 
reporting? A review of audit-related adjustment studies. Auditing, 13(1): 149. 
31. Kothari, S.P., Leone, A.J. and Wasley, C.E., (2005). Performance matched 
discretionary accrual measures. Journal of accounting and economics, 39(1): 163-197. 
32. Kumari, P. and Pattanayak, J.K., (2014). The role of board characteristics as a 
control mechanism of earnings management: A study of select Indian service sector 
companies. IUP Journal of Corporate Governance, 13(1): 57. 
33. Mulgrew, M. and Forker, J., (2006). Independent non-executive directors and 
earnings management in the UK. Irish Accounting Review, 13(2): 35-64. 
34. Myers, J.N., Myers, L.A. and Skinner, D.J., (2007). Earnings momentum and 
earnings management. Journal of Accounting, Auditing and Finance, 22(2): 249-284. 
35. Nassir Zadeh, F., Salehi, M. and laei, S.M., (2012). A Study of the Factors Affecting 
Earnings Management: Iranian Overview. Scince Series Data Report, 4(2): 22-27. 
36. Nguyễn Hà Linh, (2017). Nghiên cứu các yếu tố tác động đến hành vi điều chỉnh 
lợi nhuận tại các Doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt 
Nam. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 
37. Nguyễn Thị Minh Trang, (2012). Vận dụng mô hình của Deangelo và Friedlan để 
nhận dạng hành động điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị. Tạp chí Đại học Đông Á, 6(1): 
39-47. 
38. Nguyễn Thị Phương Loan, Nguyễn Minh Thao, (2016). Nhận diện hành vi EM 
thực tế của các DNNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tạp chí Phát triển KH&CN, 
19(4): 81-93. 
39. Peasnell, K.V., Pope, P.F. and Young, S., (2005). Board monitoring and earnings 
management: Do outside directors influence abnormal accruals? Journal of Business 
Finance and Accounting, 32(7-8): 1311-1346. 
40. Rangan, S., (1995). Earnings around seasoned equity offerings: Are they 
overstated?. Journal of financial economics, 50(1): 101-122. 
41. Ross, S.A., (1977). The determination of financial structure: the incentive-
signalling approach. The bell journal of economics, 8(1): 23-40. 
42. Roychowdhury, S., (2006). Earnings management through real activities 
manipulation. Journal of accounting and economics, 42(3): 335-370. 
43. Shen, C.H. and Chih, H.L., (2007). Earnings management and corporate 
governance in Asia's emerging markets. Corporate Governance: An International Review, 
15(5): 999-1021. 
44. Swastika, D.L.T., (2013). Corporate governance, firm size, and earning 
management: Evidence in Indonesia stock exchange. IOSR Journal of Business and 
Management, 10(4): 77-82. 
45. Teoh, S. H., Welch, I. and Wong, T. J. (1998). Earnings management and the 
underperformance of seasoned equity offerings. Journal of financial economics, 50(1), 63-99. 
46. Thái Thị Hằng. (2014). Nghiên cứu việc điều chỉnh lợi nhuận trong trường hợp 
phát hành thêm cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán 
thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Đà Nẵng. 
47. Thomas, J.K. and Zhang, H., (2002). Inventory changes and future returns. 
Review of Accounting Studies, 7(2): 163-187. 
48. Xie, B., Davidson, W.N. and DaDalt, P.J., (2003). Earnings management and 
corporate governance: the role of the board and the audit committee. Journal of Corporate 
Finance, 9(3): 295-316. 

File đính kèm:

  • pdfyeu_to_anh_huong_den_quan_tri_loi_nhuan_nghien_cuu_truong_ho.pdf