Ý nghĩa của vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Triết học Mác về giải phóng con người là một thành tựu to lớn và mang tính cách mạng sâu sắc

trong trong lịch sử tư tưởng nhân văn của nhân loại. Triết học Mác lấy con người làm điểm xuất

phát cho nghiên cứu và lấy tự do của con người làm mục tiêu cao nhất của sự tìm tòi và tranh đấu

trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị. Các nhà kinh điển của triết học Mác cũng khẳng định tính tất yếu

phải xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa văn minh - coi đó là con đường đi

đến giải phóng toàn nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột và nô dịch, tạo ra môi trường xã hội giàu

nhân tính để con người có điều kiện phát triển toàn diện bản thân. Giá trị khoa học của vấn đề giải

phóng con người trong triết học Mác nói riêng, Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và tư tưởng Hồ

Chí Minh là cơ sở lý luận quan trọng của Đảng ta trong hoạch định chiến lược phát triển con người

Việt Nam. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định, con người vừa là mục tiêu vừa là động

lực của sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội XI của Đảng còn

nhấn mạnh, con người là chủ thể của phát triển. Giải phóng triệt để con người là mục tiêu của sự

phát triển, tạo ra động lực cho sự phát triển, thể hiện bản chất của chế độ xã hội Xã hội chủ nghĩa

mà chúng ta đang xây dựng.

pdf 6 trang kimcuc 8520
Bạn đang xem tài liệu "Ý nghĩa của vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ý nghĩa của vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Ý nghĩa của vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Trịnh Thị Nghĩa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 63 - 68 
63 
Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC 
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
Trịnh Thị Nghĩa*, Đinh Thị Hiển 
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Triết học Mác về giải phóng con người là một thành tựu to lớn và mang tính cách mạng sâu sắc 
trong trong lịch sử tư tưởng nhân văn của nhân loại. Triết học Mác lấy con người làm điểm xuất 
phát cho nghiên cứu và lấy tự do của con người làm mục tiêu cao nhất của sự tìm tòi và tranh đấu 
trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị. Các nhà kinh điển của triết học Mác cũng khẳng định tính tất yếu 
phải xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa văn minh - coi đó là con đường đi 
đến giải phóng toàn nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột và nô dịch, tạo ra môi trường xã hội giàu 
nhân tính để con người có điều kiện phát triển toàn diện bản thân. Giá trị khoa học của vấn đề giải 
phóng con người trong triết học Mác nói riêng, Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và tư tưởng Hồ 
Chí Minh là cơ sở lý luận quan trọng của Đảng ta trong hoạch định chiến lược phát triển con người 
Việt Nam. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định, con người vừa là mục tiêu vừa là động 
lực của sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội XI của Đảng còn 
nhấn mạnh, con người là chủ thể của phát triển. Giải phóng triệt để con người là mục tiêu của sự 
phát triển, tạo ra động lực cho sự phát triển, thể hiện bản chất của chế độ xã hội Xã hội chủ nghĩa 
mà chúng ta đang xây dựng. 
Từ khóa: Con người, giải phóng con người, triết học Mác, giá trị khoa học, sự nghiệp đổi mới. 
Ý NGHĨA CÁCH MẠNG CỦA VẤN ĐỀ 
GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI TRONG TRIẾT 
HỌC MÁC* 
Vấn đề con người và giải phóng con người 
với tư cách là một vấn đề triết học được đặt ra 
từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại. 
Lịch sử càng tiến bộ thì khát vọng giải phóng 
con người, hướng tới phát triển tự do và toàn 
diện của con người lại càng thể hiện rõ là nhu 
cầu tự thân của con người và là mục tiêu cao 
cả mà thời đại nào cũng hướng đến. Triết học 
Mác từ khi ra đời cho đến nay đã hơn 150 
năm, nhưng những tư tưởng triết học của 
C.Mác - Ph.Ăngghen về con người và giải 
phóng con người vẫn còn nguyên ý nghĩa 
cách mạng và nhân văn. 
Các nhà kinh điển của triết học Mác đã khẳng 
định, lịch sử cho thấy những con người đầu 
tiên tách khỏi giới động vật, tưởng như họ 
không chịu sự quy định của cái tất yếu, không 
bị lệ thuộc bởi sức mạnh nào; nhưng về mọi 
mặt chủ yếu đều ít được tự do, chẳng khác gì 
loài vật; nhưng mỗi bước tiến của nền văn 
minh vật chất và tinh thần lại là một bước con 
*
 Tel: 0915 300 512; Email: trinhnghiadhkh@gmail.com 
người tiến tới tự do nhiều hơn. Nếu Hêghen 
cho rằng, tự do là nhận thức được cái tất yếu 
thì C.Mác - Ph.Ăngghen lại khẳng định, tự do 
là năng lực hành động khi nhận thức được cái 
tất yếu. Các ông xuất phát từ con người hiện 
thực, kiến giải một cách khoa học về bản chất 
con người và tình trạng con người bị nô lệ. 
Đồng thời, quan trọng hơn các ông đã chỉ ra 
con đường để giải phóng nhân loại cần lao, 
phương thức để đi đến một xã hội không còn 
áp bức, bất công. Sự tự do mà loài người có 
được sau những thăng trầm của lịch sử là sản 
phẩm của chính hoạt động thực tiễn của bản 
thân con người trong quá trình sinh tồn và 
phát triển. 
Có thể thấy, những tư tưởng triết học trước 
Mác về vấn đề con người cũng thấm đẫm tinh 
thần nhân đạo. Những cây đại thụ của triết 
học cổ điển Đức như Kant, Hêghen, Phoiơbắc 
đã để lại dấu ấn quan trọng trong nền triết học 
nhân loại với nhiều tư tưởng về con người hết 
sức sâu sắc. Tuy nhiên, do những hạn chế của 
thời đại mà các nhà triết học trước Mác chưa 
đưa ra một luận giải đầy đủ, đúng đắn căn 
nguyên của thực trạng xã hội, của người này 
thống trị người khác. C.Mác - Ph.Ăngghen đã 
tập trung nghiên cứu xã hội tư bản - một xã 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trịnh Thị Nghĩa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 63 - 68 
64 
hội biểu hiện sâu sắc nhất của tình trạng tha 
hóa về con người, tha hóa về lao động. Nếu 
như lao động từng là niềm tự hào của con 
người, thể hiện đời sống có tính loài tích cực 
của mình, trong đó con người không chỉ nhân 
đôi mình về mặt trí tuệ, “mà còn nhân đôi 
mình một cách hiện thực, một cách tích cực 
và con người ngắm nhìn bản thân mình trong 
thế giới do mình sáng tạo ra” [6, tr.137], thì 
C.Mác - Ph.Ăngghen đã luận giải về tình 
trạng lao động bị tha hóa của người công 
nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo đó, 
lao động trở thành một cái gì đó xa lạ, ở bên 
ngoài người công nhân, không thuộc về bản 
chất của anh ta nữa. Trong lao động, anh ta 
không cảm thấy mình sung sướng, tự do mà 
cảm thấy mình khổ sở, bị trói buộc; “lao động 
của anh ta không phải là tự nguyện mà là sự 
bắt buộc, đó là lao động cưỡng bức” [6, 
tr.133]; lao động “sáng tạo ra cái đẹp, nhưng 
cũng làm què quặt công nhân. Nó thay lao 
động thủ công bằng máy móc, nhưng nó lại 
ném một bộ phận công nhân trở về với lao 
động dã man và biến một bộ phận công nhân 
khác thành những cái máy. Nó sản xuất ra trí 
tuệ, nhưng cũng sản xuất ra cả sự đần độn, ngu 
ngốc cho công nhân” [6, tr.131]. Đó là một 
nghịch lý, sự giàu có về của cải, tính hiện đại 
của nền sản xuất tỷ lệ nghịch với những giá trị 
của con người. Trong xã hội tư bản những 
thành quả của văn minh trong lao động không 
thuộc về người công nhân. Lao động ở đây 
không phải là thước đo, là tấm gương phản 
chiếu sức sáng tạo tự do của con người mà lại 
trở thành phương tiện nô dịch con người. 
Song, có lẽ nỗi bất hạnh lớn nhất của con 
người ở đây chính là con người bị tha hóa 
bản chất người của chính mình. 
C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguyên nhân 
của những mâu thuẫn trong xã hội bắt nguồn 
từ trong lĩnh vực kinh tế. Đó chính là chế độ 
tư hữu tư sản. Bởi theo các ông thì đó là “biểu 
hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương 
thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở 
những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những 
người này bóc lột người kia” [4, tr.68]. Vì 
toàn bộ chế độ nô dịch loài người nói chung 
“chỉ là những biến thể và kết quả của quan hệ 
ấy” [6, tr.144]. Do vậy, nếu không xóa bỏ nó 
(chế độ tư hữu tư sản) thì tuyệt đại đa số nhân 
dân lao động sẽ không có sở hữu, và như thế 
thì tình trạng con người chịu sự nô lệ vào 
người khác còn tồn tại. Từ đó, C.Mác - 
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “không thể thực 
hiện được một sự giải phóng thực sự nào khác 
nếu không thực hiện sự giải phóng ấy trong 
thế giới hiện thực và bằng những phương tiện 
hiện thực” [3, tr.65]. Xóa bỏ đi kiểu quan hệ 
sản xuất tư bản chủ nghĩa - cũng đồng thời 
với việc lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản 
là cơ sở xóa bỏ tận gốc mọi điều kiện con 
người bị áp bức. Chính điều này, trong 
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác - 
Ph.Ăngghen đã nói, cuộc cách mạng xã hội 
do giai cấp công nhân lãnh đạo không xóa đi 
cái quyền sở hữu cơ bản của con người, mà 
chỉ xóa đi cái hình thức sở hữu mà nhờ nó 
người ta dùng để nô dịch người khác. Và xã 
hội cộng sản chủ nghĩa sẽ là chế độ tốt đẹp 
nhất trong lịch sử nhân loại, đảm bảo cho 
những quyền của con người, giải phóng con 
người một cách triệt để nhất. 
Có thể thấy, điểm nhấn nổi bật xuyên suốt 
toàn bộ hệ thống lý luận của C.Mác - 
Ph.Ăngghen là giá trị nhân văn sâu sắc. Con 
người trong triết học Mác được nhìn nhận 
như một nhân cách, một chủ thể của phát 
triển. Con người vừa là chủ thể vừa là sản 
phẩm của lịch sử. Trân trọng giá trị con người 
được biểu hiện ở mức cao nhất là ở chỗ, triết 
học Mác hướng đến việc xác lập một môi 
trường xã hội “giàu tính người hơn” để con 
người được phát triển một cách toàn diện. 
Lịch sử đã diễn ra cho thấy, các cuộc cách 
mạng xã hội trước đây chỉ thay thế một hình 
thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột 
khác. Các chế độ chính trị dựng lên cũng chỉ 
nhằm mưu lợi cho thiểu số giai cấp thống trị. 
Bản chất đó bắt nguồn từ việc bảo vệ cho 
quyền tư hữu của người cầm quyền. Tính 
cách mạng trong triết học con người của Mác 
là ở chỗ, cách mạng vô sản phải xóa bỏ tận 
gốc cơ sở hạ tầng cũ để xóa bỏ đi toàn bộ kiến 
trúc thượng tầng tư sản. Cuộc cách mạng đó 
phải mang tính triệt để và toàn diện trên tất cả 
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sau khi cách 
mạng thành công, giai cấp công nhân sẽ lãnh 
đạo nhân dân lao động cùng thiết lập nên một 
quan hệ sản xuất mới mang tính chất công 
hữu về tư liệu sản xuất. Từ đó xây dựng nên 
cơ quan công quyền mà lao động cần lao thực 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trịnh Thị Nghĩa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 63 - 68 
65 
sự là người làm chủ. Khi đó, các cá nhân 
trong xã hội không còn bị một sức mạnh 
cường quyền nào có thể chi phối. Con người 
là chủ thể tích cực, tự giác và sáng tạo, sẽ 
kiến tạo nên những hình thái ý thức xã hội mà 
ở đó sẽ tạo điều kiện cho mọi cá nhân thể phát 
huy mọi năng lực của mình và có phát triển 
một cách toàn diện, để con người thực sự 
xứng đáng với hai tiếng Con Người. 
Xã hội cộng sản chủ nghĩa - với bản chất là 
chế độ xã hội tốt đẹp nhất trong lịch sử - là xã 
hội mà ở đó, con người không những được 
giải phóng hoàn toàn khỏi những sức mạnh 
nô dịch của tự nhiên và xã hội, mà còn được 
phát triển một cách toàn diện. C.Mác - 
Ph.Ăngghen khẳng định, trong xã hội đó: “Sự 
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện 
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” 
[5, tr.628]. Xã hội loài người sẽ tiến tới một 
trạng thái phát triển như một “liên hợp” mà ở 
đó không còn áp bức, bóc lột, không còn giai 
cấp và mẫu thuẫn đối kháng, con người được 
giải phóng và phát triển. Tự do của mỗi cá 
nhân là điều kiện cho sự phát triển tự do của 
người khác, của cộng đồng. Có thể thấy, “Về 
phương diện lý thuyết, thì sự phát triển con 
người trong tương quan với tiến bộ xã hội 
theo quan niệm này là mô hình lý tưởng; hiếm 
thấy lý thuyết nào đề cập đến sự phát triển tự 
do của cá nhân - cộng đồng - xã hội trong mối 
quan hệ vừa ràng buộc vừa hỗ trợ lẫn nhau 
hữu cơ đến thế” [11, tr.96]. 
Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG 
CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC 
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT 
NAM HIỆN NAY 
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, 
Người chỉ có một ham muốn tột bậc là làm 
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân 
ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm 
ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Thực chất 
đó cũng chính là mong muốn đi tới giải 
phóng con người - con người Việt Nam. Giải 
phóng con người là một trong những nội dung 
quan trọng, là vấn đề cốt lõi chi phối tư duy 
và hành động của Hồ Chí Minh. Giải phóng 
triệt để con người thực sự là ước mơ, khát 
vọng, đồng thời là sự nghiệp cao cả và vĩ đại 
nhất của Người. Điều này, với Hồ Chủ tịch, 
giải phóng con người là điều kiện và tiền đề 
để thực hiện phát triển con người; làm cho 
con người trở thành chủ nhân chân chính của 
sự sáng tạo lịch sử. 
Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở 
Liên Xô và Đông Âu những năm 90 của thế 
kỷ XX và sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản 
với những bước phát triển mới đang đặt ra 
những yêu cầu cấp bách cả về lý luận và thực 
tiễn đối với các Đảng cộng sản trên thế giới. 
Trong bối cảnh hiện nay, “cuộc cách mạng 
khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá 
trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động 
sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các 
mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới 
những hình thức và mức độ khác nhau vẫn 
tồn tại và phát triển. Hòa bình, độc lập dân 
tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế 
lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai 
cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, 
xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, 
hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh 
chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh 
tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn 
ta phức tạp” [10, tr.67]. Những điều chỉnh của 
chủ nghĩa tư bản và điều kiện sống của giai 
cấp lao động làm thuê khác rất nhiều so với 
thời đại của C.Mác - Ph.Ăngghen, kể cả thời 
kỳ Lênin sống. Tuy nhiên, chế độ nô lệ đã đi 
qua rất lâu trong lịch sử, việc mua bán nô lệ 
da đen đã kết thúc cuối thế kỷ XIX, nhưng 
trong thực tế, tình trạng nô dịch con người 
vẫn tồn tại ở những mức độ khác nhau và có 
rất nhiều các tình huống xã hội phức tạp đang 
đặt ra mà để giải quyết nó không phải là công 
việc đơn thuần của riêng quốc gia nào. Nói 
như tác giả Anissa Castel trong cuốn “Tự do 
là gì” thì, “hình thức nô dịch hiện đại tuy 
khác với các hình thức cũ, song không vì 
mang danh hiện đại mà không tước đoạt mất 
tự do của con người” [1, tr.35]. Hơn nữa, 
Triết học Mác đã khẳng định, thiên nhiên 
không sinh ra quan hệ bóc lột; con người 
trước hết là đại biểu cho những quan hệ và 
những lợi ích giai cấp nhất định. Nếu coi tự 
do là kết quả của sự giải phóng thì dù con 
người sinh ra là tự do và không còn những kẻ, 
nói như Aristotle – có “căn cốt” nô lệ, thì vẫn 
cần có những điều kiện về thời đại, hoàn cảnh 
đặc thù, môi trường, để cho tự do của con 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trịnh Thị Nghĩa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 63 - 68 
66 
người trở thành hiện thực. Sản xuất giá trị 
thặng dư với tư cách là quy luật kinh tế tuyệt 
đối của chủ nghĩa tư bản ngày càng đi vào 
chiều sâu, đồng nghĩa với sự bóc lột sức lao 
động của con người vẫn còn tồn tại. “Hiện tại, 
chủ nghĩa tư bản còn nhiều tiềm năng phát 
triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp 
bức và bất công” [10, tr.68]. 
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang 
tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, đẩy 
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 
nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước 
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Để sự 
nghiệp đó nhanh chóng đi đến thành công, 
điều có ý nghĩa quyết định là phải đảm bảo sự 
nhất quán từ nhận thức đến hành động, coi 
con người vừa là mục tiêu vừa là động lực 
của sự phát triển. Sự nghiệp giải phóng người 
Việt Nam khỏi ách áp bức của thực dân, 
phong kiến đã hoàn thành. Hiện nay, sự 
nghiệp đó tiếp tục được thực hiện trên bình 
diện giải phóng con người khỏi nghèo đói, lạc 
hậu, tạo ra những điều kiện để tự do, bình 
đẳng, dân chủ được hiện thực hóa trên thực 
tế, để tất cả mọi người đều được hưởng các 
giá trị vật chất và tinh thần, được tiếp cận với 
các cơ hội phát triển. 
Đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống 
xã hội, trước hết là đổi mới về kinh tế và hệ 
thống chính trị là một đòi hỏi bức xúc, một 
yêu cầu sống còn đối với sự tồn tại của chế độ 
và tương lai phát triển của xã hội. Giữ vững 
lập trường của giai cấp công nhân và vận 
dụng những Nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa 
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng 
cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương và 
thực hiện quá trình đổi mới, mở ra một trang 
sử mới, một bộ mặt mới cho dân tộc từ năm 
1986 tới nay. Trong đó, Đảng luôn đặt con 
người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát 
triển kinh tế xã hội và nhấn mạnh vai trò, 
chức năng của chính sách xã hội là “Nhằm 
phát huy mọi khả năng của con người và lấy 
việc phục vụ con người làm mục đích cao 
nhất” [8, tr.221]. Những quan điểm về con 
người và phát triển con người Việt Nam của 
Đảng ta là sự kế thừa, sự tiếp tục tư tưởng 
triết học Mác về giải phóng con người và tư 
tưởng giải phóng con người của Hồ Chí 
Minh. Sự vận dụng các nội dung nhân văn 
trong các học thuyết này, biểu hiện trong chủ 
trương, đường lối của Đảng xuyên suốt quá 
trình đổi mới, thực hiện quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội; biểu hiện trong các mục tiêu vì tự do, 
hạnh phúc của con người. 
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã nêu lên 
những định hướng lớn về chính sách kinh tế, 
xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại; chỉ ra 
những đặc trưng cơ bản của xã hội Xã hội chủ 
nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội: 
“Do nhân dân lao động làm chủ con người 
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất 
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao 
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, 
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” [9, 
tr.111]. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, 
phát triển năm 2011) thông qua tại Đại hội XI 
đã khẳng định: “Con người là trung tâm của 
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể 
phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con 
người, gắn quyền con người với quyền và lợi 
ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ 
của nhân dân” [10, tr.76]. Trong Chiến lược 
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng 
ta đã khẳng định: “Mở rộng dân chủ, phát huy 
tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ 
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự 
phát triển” [10, tr.100]. 
Có thể nói, công cuộc đổi mới ở nước ta luôn 
được đặt ra trong mối quan hệ với việc giải 
quyết vấn đề con người, coi con người vừa là 
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi 
mới. Tính chất và hiệu quả của sự nghiệp đổi 
mới xã hội phụ thuộc vào tính chất và hiệu 
quả của việc giải quyết vấn đề con người 
trong thực tiễn. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề 
có tính chiến lược và cần được tiến hành một 
cách nghiêm túc, thận trọng. Mọi bước đi, 
giải pháp và thành tựu của đổi mới không 
phải là phát triển kinh tế - xã hội nói chung 
mà chính là sự phát triển con người; là sự 
tăng cường và mở rộng các cơ hội lựa chọn 
cho con người. 
Trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, sự hiện 
thực hóa mục tiêu giải phóng con người được 
tiến hành trên tất cả các bình diện của đời 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trịnh Thị Nghĩa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 63 - 68 
67 
sống xã hội. Trong đó, “sự giải phóng lớn 
nhất và quan trọng nhất do đổi mới đem lại là 
giải phóng sức sản xuất và giải phóng tinh 
thần, ý thức xã hội” [2, tr.180]. Nền kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã 
phát huy được tính tích cực của từng chủ thể 
sản xuất và sự sáng tạo của con người. Đó là 
điểm xuất phát để xã hội chuyển từ trì trệ 
sang năng động và phát triển. Trong bước 
chuyển này, năng lực nhận thức, hành động, 
tổ chức và ý thức, trách nhiệm của cá nhân 
được coi trọng. Con người có môi trường để 
bộc lộ tài năng và có động lực để lao động, 
lợi ích cá nhân được giải quyết xác đáng 
trong mối tương quan với lợi ích chung của 
xã hội. Cùng với quá trình đó, những chính 
sách mới và cơ chế quản lý mới cũng hình 
thành tạo ra những nhân tố thuận, cùng chiều 
đối với sự phát triển của nền kinh tế, đối với 
sự giải phóng sức sản xuất. Đồng thời là sự 
hình thành và hoàn thiện của hệ thống luật 
pháp nhằm tăng cường sự quản lý và kiểm 
soát của nhà nước nhằm hạn chế sự tác động 
tiêu cực của nền kinh tế thị trường, mang lại 
lợi ích tối đa cho nhân dân, cho sự phát triển 
chung của toàn dân tộc. 
Trong quá trình thực hiện cải cách kinh tế, 
Đảng và Nhà nước còn chú trọng tới các chính 
sách xã hội, đầu tư cho con người - coi đó là 
mục tiêu phát triển lâu dài và đảm bảo cho sự 
phát triển bền vững. Kinh tế - chính trị gắn liền 
với chất lượng cuộc sống của con người, phát 
triển kinh tế gắn liền với hạnh phúc dân sinh, 
tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã 
hội. Giải phóng sức sản xuất thực chất là giải 
phóng những tiềm năng của con người, tạo 
điều kiện để con người được phát huy hết khả 
năng của bản thân, để từ đó phục vụ trực tiếp 
cho các mục tiêu phát triển con người trên cả 
bình diện cá nhân và cộng đồng. Giải phóng 
tinh thần, ý thức xã hội được thực hiện đồng 
thời với đổi mới kinh tế. Quán triệt tư tưởng 
Hồ Chí Minh về xây dựng chế độ dân chủ và 
văn hóa cao nhằm giải phóng con người khỏi 
sự nô dịch, áp bức và phát triển toàn diện, 
Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng thực 
hiện các chính sách nhằm mở rộng dân chủ, 
phát triển giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức 
khỏe cho nhân dân. 
Tuy nhiên, theo Báo cáo phát triển con người 
2011 của Chương trình phát triển Liên hợp 
quốc (UNDP), Việt Nam vẫn mới chỉ đứng 
trong nhóm các nước có mức phát triển con 
người trung bình và xếp thứ 128 trên 187 
nước được khảo sát. Chỉ số phát triển con 
người (HDI) của Việt Nam là 0,728. Chỉ số 
này đã tăng 11% so với mức 0,651 được công 
bố 10 năm trước đây nhưng không thay đổi so 
với năm 2010. HDI của Việt Nam thấp hơn 
của các nước trong khu vực như Trung Quốc, 
Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philippines và 
cao hơn Campuchia, Lào. Báo cáo năm 2011 
cũng lần đầu tiên đưa ra chỉ số đói nghèo đa 
chiều cho Việt Nam. Chỉ số đói nghèo đa 
chiều đo lường các hình thức thiếu thốn khác 
nhau về y tế, giáo dục và mức sống. Theo Báo 
cáo này, tỉ lệ nghèo phi tiền tệ ở Việt Nam 
(những hộ thiếu thốn cả y tế, giáo dục và mức 
sống) ở mức 23,3%, cao hơn nhiều so với tỉ lệ 
đói nghèo quốc gia là 14,5% [7]. Trong Báo 
cáo Đánh giá nghèo ở Việt Nam 2012 của 
Ngân hàng Thế giới, đã khẳng định tỉ lệ 
nghèo ở Việt Nam giảm từ gần 60% xuống 
20,7% trong 20 năm qua (1990 - 2010), 
những thành tựu đạt được là rất ấn tượng. Tuy 
nhiên, Báo cáo cũng nhấn mạnh rằng, nghèo 
phổ biến trong nhóm dân tộc thiểu số là quan 
ngại đặc biệt của Việt Nam. Mặc dù 53 dân 
tộc thiểu số chỉ chiếm chưa tới 15% dân số 
quốc gia, nhưng lại chiếm tới gần 50% số 
người nghèo trong năm 2010 [7].. Theo bà 
Valerie Kozel, chuyên gia Kinh tế cao cấp 
của Ngân hàng Thế giới khẳng định ở Việt 
Nam hiện nay: “tăng trưởng đang suy giảm 
trong những năm gần đây do các bất ổn vĩ mô 
và các cú sốc từ bên ngoài, bất bình đẳng gia 
tăng, nghèo trong nhóm dân tộc thiểu số vẫn 
cao và khó xóa bỏ. Những người nghèo còn 
lại càng khó để tiếp cận, họ phải đối mặt với 
những thách thức như sự cô lập, hạn chế về 
tài sản, trình độ học vấn thấp, sức khỏe kém” 
[12]. Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực 
của nền kinh tế thị trường cũng đang đặt ra 
hàng loạt các vấn đề liên quan đến quyền lợi 
của người lao động. 
Lịch sử nhân loại với nhiều biến đổi, thăng 
trầm; với nhiều sự kiện bao phủ lên toàn cầu, 
song, triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Trịnh Thị Nghĩa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 63 - 68 
68 
nói chung vẫn đứng vững và khẳng định giá 
trị khoa học và ý nghĩa cách mạng của mình. 
Triết học Mác về giải phóng con người vẫn là 
một học thuyết cách mạng và nhân văn; là cơ 
sở phương pháp luận khoa học cho Đảng, 
Nhà nước ta trong việc nhận thức về con 
người và chiến lược giải phóng con người để 
phát triển con người trong thời đại ngày nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Anissa Castel (2011), Tự do là gì?, Nxb. Tri 
Thức. 
2. GS. TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên, 2008), Dân 
chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn 
một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
3. C.Mác-Ph.Ăngghen (1977), Phoi ơ bắc sự đối 
lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm 
duy tâm chủ nghĩa (Chương 1 của “Hệ tư tưởng 
Đức”), Nxb. Sự thật, Hà Nội. 
4. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
5. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
6. C.Mác-Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Tóm 
lược thông tin Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển 
con người. Báo cáo phát triển con người của Việt 
Nam năm 2011, ngày 9/11/2011. 
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
11. Hồ Sĩ Quý (2007), Con người và phát triển 
con người, Nxb Giáo dục. 
12. Worldbank, Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam: 
Tiến bộ ấn tượng, Thách thức mới nổi, 
1/24/poverty-reduction-in-vietnam-remarkable-
progress-emerging-challenges) 
SUMMARY 
THE MEANINGS OF HUMAN LIBERATION ISSUES IN MARXIST 
PHILOSOPHY TOWARDS INNOVATION IN VIETNAM TODAY 
Trinh Thi Nghia*, Dinh Thi Hien 
College of Sciences – TNU 
Marxist philosophy on human liberation is a tremendous achievement and profound revolutionary 
idea in the history of human philosophical thoughts.Marxist philosophy considers human being as 
the starting point for every research and regards people’s freedom as the highest goal of findings 
and revolutions in the fields of ideology and politics. The classic Marxist philosophers also 
confirmed the necessity to build a socialist and civilized communist society - and considered them 
as the way to liberate mankind from oppression, exploitation and slavery and to create a humanity 
environment for people to fully advance. The scientific values of human liberation in Marxist 
philosophy in particular, in Marxism and Leninism in general and Hochiminh ideology are the 
important theoretical bases for our Party in strategic planningonthe development of Vietnamese 
people. Nowadays, our Party and State always consider people as not only the target but also the 
impetusfor the innovations and construction of socialist society in Vietnam. The XI Party 
Congress also emphasized people as the subjects of development. Complete human liberation as 
the goal of development helps to create incentives for the development and reflects the nature of 
socialistsociety that we are building now. 
Key words: human, human liberation, Marxist philosophy, scientific value, reform. 
Ngày nhận bài: 16/5/2013; Ngày phản biện: 04/6/2013; Ngày duyệt đăng: 02/10/2013 
Phản biện khoa học: TS. Vũ Thị Tùng Hoa – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
*
 Tel: 0915 300 512; Email: trinhnghiadhkh@gmail.com 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 

File đính kèm:

  • pdfy_nghia_cua_van_de_giai_phong_con_nguoi_trong_triet_hoc_mac.pdf