Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của việt năm 2016 và triển vọng năm 2017
Từ năm 2000, ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã phát triển
mạnh mẽ với sự ra đời hàng loạt nhà máy sản xuất, xưởng chế biến cũng như tăng
trưởng vượt bậc về năng lực sản xuất, sản lượng, xuất khẩu và thị phần trên thị trường
thế giới. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, gỗ và sản phẩm gỗ trở
thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng khoảng 15%
trong giai đoạn 2011-2016; kim ngạch xuất khẩu tăng từ 3.43 tỷ đô la Mỹ năm 2011 lên
tới khoảng 6.9 tỷ đô la Mỹ năm 2016. Bài báo đưa ra bức tranh tổng thể về ngành chế
biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam với nhiều khía cạnh về nguồn cung, hoạt động sản xuất,
chuỗi cung ứng quốc tế cũng như tiêu thụ sản phẩm. Bài báo cũng chỉ ra rằng thời gian
tới, ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức và
khó khăn liên quan đến hàng rào kỹ thuật và tính hợp pháp của sản phẩm từ các thị
trường nhập khẩu quan trọng như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc. Một số kiến nghị được
bài báo đề cập nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ cũng như phát triển rừng bền vững
của Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của việt năm 2016 và triển vọng năm 2017
1 Mã số: 421 Ngày nhận: 29/8/2017 Ngày gửi phản biện lần 1: 31/9 /2017 Ngày gửi phản biện lần 2: Ngày hoàn thành biên tập: 15/11/2017 Ngày duyệt đăng: 16/11/2017 XUẤT KHẨU GỖ VÀ SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NĂM 2016 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2017 Phan Thị Thu Hiền1 Tóm tắt: Từ năm 2000, ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ với sự ra đời hàng loạt nhà máy sản xuất, xưởng chế biến cũng như tăng trưởng vượt bậc về năng lực sản xuất, sản lượng, xuất khẩu và thị phần trên thị trường thế giới. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, gỗ và sản phẩm gỗ trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng khoảng 15% trong giai đoạn 2011-2016; kim ngạch xuất khẩu tăng từ 3.43 tỷ đô la Mỹ năm 2011 lên tới khoảng 6.9 tỷ đô la Mỹ năm 2016. Bài báo đưa ra bức tranh tổng thể về ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam với nhiều khía cạnh về nguồn cung, hoạt động sản xuất, chuỗi cung ứng quốc tế cũng như tiêu thụ sản phẩm. Bài báo cũng chỉ ra rằng thời gian tới, ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn liên quan đến hàng rào kỹ thuật và tính hợp pháp của sản phẩm từ các thị trường nhập khẩu quan trọng như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc. Một số kiến nghị được bài báo đề cập nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ cũng như phát triển rừng bền vững của Việt Nam. Từ khóa: xuất khẩu, chế biến, gỗ, lâm nghiệp, hợp pháp, chuỗi giá trị. 1 Trường Đại học Ngoại thương, Email: phanhien@ftu.edu.vn 2 Abstract Since 2000, Vietnam forestry industry and wood processing production had a successful performance with blooming number of wood processing factories, strongly growing in production capacity, manufacturing outputs, market shares in local and international markets. Wood and wood products has become the major export commodity of Vietnam in 2011-2016 with high annual average growth of 15% and increase in total value from 3,43 billion US$ in 2011 to above 6.9 billion US$ in 2016 (GDVC, 2016). This paper aims to give a comprehensive picture about the Vietnam’s wood processing industry with exports-associated aspects like raw inputs materials source, production, supply chain management and sales. This study also indicates that in future, increasing challenges and obstacles to maintain exports achievements requires the Vietnamese wooden products complying with new technical barriers and legality requirements of many his major trade partners as the EU, USA, Japan and Australia. Finally, several recommendations on these mentioned issues are suggested for a sustainable growth of the Vietnam’s forestry exports and development. Key words: exports, processing, wood, forestry, legality, value chain. 1. Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2016 Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ (G&SPG) của Việt Nam trong năm 2016 đạt mức xấp xỉ 6,89 tỷ USD, đứng thứ 7 về kim ngạch trong số các mặt hàng/nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2016. Biểu đồ 1. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2016 Đơn vị: tỷ USD Nguồn: Tổng cục Hải quan,2016 3,43 3,96 4,67 5,56 6,23 6,89 6,96 0 1 2 3 4 5 6 7 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 3 Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt 5,12 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm 2015, chiếm 73,6% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của toàn ngành trong năm 2016. Biểu đồ 1. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ theo tháng năm 2016 Đơn vị: triệu USD Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2016 Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của các doanh nghiệp FDI đạt 3,3 tỷ USD, xấp xỉ năm ngoái, chiếm 47,36% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả nước (tỷ lệ này của năm 2015 là 47,84%). Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ trong năm 2016 đạt gần 3 tỷ USD, xấp xỉ năm 2015, chiếm 58,44% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của cả nước. Thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam: Năm 2016, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam, đạt trên 2,8 tỷ USD, tăng 6,93% so với năm 2015, chiếm tới 41% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả nước; Tiếp đến là thị trường Trung Quốc, đạt trên 1 tỷ USD, tăng 3,82% so với năm 2015, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả nước. Thị trường Hàn Quốc, Anh và Úc cũng ghi nhận mức tăng trưởng khá trong năm 2016, với mức tăng lần lượt 16,06%; 6,97% và tăng 7,6% so với năm 2015. Ngược lại, Nhật Bản tụt xuống vị trí thứ 3 do kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này giảm 5,93% so với năm 2015, xuống còn 980 triệu USD, chiếm 14% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả nước. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang hai thị trường chủ lực khác là Canada và Đức cũng giảm so với năm 2015, với mức giảm lần lượt là 9,34% và giảm 12,8%. Bảng 1. Thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ chủ lực của Việt Nam 609,02 310,00 572,32 577,71 539,21 540,64 565,11 605,45 563,69 598,73 632,76 749,41 0,00 100,00 200,00 300,00 400,00 500,00 600,00 700,00 800,00 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 4 Đơn vị: USD STT Thị trường Năm 2015 Năm 2016 Tăng trưởng (%) 1 Hoa Kỳ 2.642.037 2.825.126 6,93 2 Trung Quốc 982.669 1.020.235 3,82 3 Nhật Bản 1.042.444 980.634 -5,93 4 Hàn Quốc 495.530 575.100 16,06 5 Anh 287.143 307.155 6,97 6 Úc 157.285 169.232 7,60 7 Canada 152.221 138.006 -9,34 8 Đức 127.235 110.946 -12,80 9 Pháp 100.919 100.573 -0,34 10 Hà Lan 69.363 69.212 -0,22 Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2016 Đánh giá chung: Ngành công nghiệp chế biến gỗ đã trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sau dầu thô, dệt may, giày dép và thủy sản. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu đồ gỗ đứng đầu Đông Nam Á. Sản phẩm gỗ của Việt Nam có mặt tại trên 140 quốc gia, chất lượng sản phẩm đồ gỗ Việt Nam luôn được nâng cao, có khả năng cạnh tranh được với các nước trong khu vực. 2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam năm 2016 2.1. Thị trường thế giới Theo báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Châu Âu (CEPS) và Trung tâm Nghiên cứu các ngành công nghiệp (CSIL) về thị trường đồ gỗ nội thất EU và thế giới, ngành đồ gỗ về truyền thống là ngành thâm dụng lao động và có sự tham gia của nhiều công ty vừa và nhỏ, với chuỗi giá trị phức tạp và phân mảnh trong đó nhiều phân đoạn trong quá trình sản xuất được gia công thuê ngoài. Trong thập kỷ vừa qua, trên phạm vi thế giới ngành sản xuất đồ gỗ nội thất tăng trưởng đều hàng năm, ngoại trừ năm 2008 và 2009 do khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong năm 2012, sản xuất đồ gỗ toàn cầu có giá trị 361 tỷ Euro, sản xuất đồ gỗ toàn cầu tăng cao hơn 60% so với 10 năm trước đây. Theo số liệu thống kê của CSIL, hiện nay có khoảng 200 công ty hàng đầu trên thế giới chiếm trên 20% tổng sản lượng đồ gỗ trên thế giới, đây đồng thời là các tập đoàn phân phối sản phẩm gỗ hàng đầu thế giới chiếm trên 20% tổng sản lượng thương mại với mạng lưới sản xuất toàn cầu trải rộng khắp tại các nước đang và kém phát triển có lợi thế cạnh tranh về nguồn lao động và nguyên liệu gỗ. Điều này góp phần thúc đẩy thương mại gỗ và sản phẩm gỗ của các quốc gia có lợi thế cạnh tranh về sản xuất chế biến sản phẩm gỗ xuất khẩu. 5 Thương mại đồ gỗ toàn cầu phát triển mạnh mẽ hơn thập kỷ qua, chiếm khoảng 1% tổng thương mại hàng hóa toàn cầu, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn ngành sản xuất đồ gỗ. Tổng thương mại đồ gỗ thế giới là 59 tỷ Euro vào năm 2003 và tăng lên 82 tỷ Euro vào năm 2008, sau khi suy giảm vào thời kỳ khủng hoảng, ngành này đạt mức 98,1 tỷ Euro vào năm 2012. Thương mại gỗ và đồ gỗ quốc tế có đặc trưng cơ bản đó là: (1) khoảng 25% giá trị thương mại là các phụ kiện đồ gỗ (tăng so với 10 năm trước đây) do làn sóng gia công sản xuất và tổ chức chuỗi giá trị toàn cầu; (2) khoảng một nửa thương mại đồ gỗ thế giới diễn ra giữa các nước có khoảng cách địa lý xa nhau, giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Những luồng thương mại quan trọng nhất là từ các nước có thu nhập trung bình và thu nhập thấp ở Châu Á sang Hoa Kỳ và Châu Âu. Năm 2015, những quốc gia xuất khẩu hàng đầu trên thế giới được thể hiện trong bảng sau: Bảng 2. Những quốc gia xuất khẩu gỗ và đồ gỗ hàng đầu trên thế giới năm 2015 (Gỗ và sản phẩm gỗ thuộc chương 44 trong Danh mục HS) Nước Tỷ trọng xuất khẩu trong tổng xuất khẩu quốc gia (%) Tỷ trọng xuất khẩu ngành hàng trên thế giới (%) Trung Quốc 0,620 11,43 Canada 2,880 9,46 Mỹ 0,590 7,17 Đức 0,560 5,98 Liên Bang Nga 1,840 5,08 Áo 2,910 3,40 In-đô-nê-xi-a 2,660 3,22 Thụy điển 2,730 3,08 Ma-lay-xi-a 1,880 3,03 Balan 1,910 2,99 Philipines 4,960 2,34 Phần Lan 4,600 2,21 Pháp 0,450 2,08 Bỉ 0,630 2,01 Việt Nam 1,330 2,00 Nguồn: Tổng hợp từ Cơ sở dữ liệu trực tuyến của Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) (tính toán dựa trên số liệu thống kê của UN Comtrade): www.trademap.org 2.2. Các điều kiện về yếu tố đầu vào sản xuất Thời gian qua, Việt Nam đã phát huy tốt lợi thế cạnh tranh về yếu tố sản xuất mặc dù chỉ ở mức rất cơ bản, đó là: (1) vị trí địa lý thuận lợi với đường bờ biển dài và nhiều cảng biển nước sâu rất thích hợp cho việc nhập khẩu nguyên vật liệu và xuất khẩu thành phẩm gỗ và sản phẩm gỗ bằng đường biển; (2) Việt Nam là quốc gia nhiệt đới, có diện tích rừng bao phủ lớn với nhiều chủng loại cây trồng là nguồn cung ổn định cho ngành sản xuất, chế biến gỗ. Hiện nay, Việt Nam có trên 3 triệu ha rừng trồng và có khả năng cung ứng lượng gỗ khoảng 23 triệu m3. Theo tính 6 toán của Hiệp hội Gỗ Việt Nam, tổng lượng gỗ nguyên liệu dùng cho chế biến gỗ xuất khẩu trung bình là 24 triệu m3/năm (bao gồm dăm gỗ, đồ nội thất, sản phẩm gỗ khác, ván các loại, gỗ tròn và gỗ xẻ, trong đó nguồn cung trong nước đáp ứng khoảng 23 triệu m3 (Nguyễn Tôn Quyền và các cộng sự, 2016); (3) nguồn nhân công dồi dào và giá cạnh tranh. Ngành chế biến gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam đã và đang khẳng định năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới với những yếu tố quan trọng là giá cả, chất lượng cũng như khả năng đáp ứng kịp thời các đơn hàng về mặt thời gian và chủng loại hàng hóa đa dạng. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực dồi dào với kỹ năng thủ công tuyệt vời và nguyên liệu thủ công phong phú là điều kiện tốt để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế khi thực thi chiến lược khác biệt hóa sản phẩm. Theo ông Huỳnh Văn Hạnh, Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ thành phố Hồ Chí Minh: “Sản phẩm của doanh nghiệp trong ngành rất đa dạng, từ ngoài trời đến trong nhà, trang trí nội thất; từ phong cách cổ điển đến hiện đại. Chất liệu cũng rất phong phú, từ gỗ đến ván nhân tạo, vật liệu tổng hợp; nhìn chung, thỏa mãn các yêu cầu khác nhau của khách hàng các thị trường về lượng và chất”. Tuy vậy điều kiện yếu tố đầu vào hiện nay của ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ dừng ở mức độ cơ bản mà chưa đạt đến mức độ tiên tiến, phát triển ở trình độ cao, cụ thể như sau: 2.2.1 Thứ nhất, nguồn cung nguyên liệu ngày càng hạn chế với giá nhập khẩu gia tăng Nguyên liệu phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam hiện đang rất khó khăn, chủ yếu từ hai nguồn cơ bản: Nguồn nguyên liệu gỗ trong nước (gỗ tự nhiên và gỗ rừng trồng) và nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu. Về nguồn nguyên liệu gỗ trong nước: kể từ năm 2014, Chính phủ quyết định đóng cửa rừng tự nhiên, do vậy nguồn nguyên liệu gỗ nội địa chỉ còn có gỗ rừng trồng. Nguyên liệu gỗ rừng trồng hiện đạt khoảng 3,2 triệu ha, với trữ lượng gỗ đạt khoảng 60 triệum3. Sản lượng gỗ rừng trồng đạt khai thác đạt trên 5 triệu m3/năm, tuy nhiên lượng gỗ này chủ yếu là keo và bạch đàn (loại gỗ khai thác ở độ tuổi từ 6-10 năm, đường kính nhỏ, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu). Doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn khi xuất khẩu sang hai thị trường lớn là Châu Âu và Hoa Kỳ, vì quy định bắt buộc phải sử dụng 70% nguyên liệu có chứng chỉ FSC, 30% còn lại là gỗ có nguồn gốc. Ngoài ra, từ tháng 3/2013, doanh nghiệp xuất khẩu gỗ vào EU phải tuân thủ luật FLEGT2 theo đó đồ gỗ nhập khẩu vào EU phải hợp pháp, minh bạch về nguồn 2 FLEGT(Forest Law Enforcement, Governance and Trade) là pháp luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thư1,73ơng mại lâm sản của Liên minh Châu Âu. Việc thực thi FLEGT bắt đầu từ năm 2013, nhằm ngăn chặn việc khai thác gỗ bất hợp pháp bằng chương trình hành động tăng cường công tác quản lý rừng, và thúc đẩy thương mại gỗ khai thác và sản xuất hợp pháp 7 gốc gỗ nguyên liệu mới cho nhập khẩu. Tuy nhiên, phần lớn nguồn gỗ rừng trồng trong nước không phù hợp với nhu cầu sản xuất đồ gỗ xuất khẩu và cũng chưa có chứng chỉ rừng bền vừng FSC (Forest Stewardship Council). Ngoài ra các nguồn lâm sản ngoài gỗ như tre, mía, song, mây, tinh dầu nhựa, keo rất phong phú. Tuy nhiên, để phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến gỗ chỉ có tre nứa và song mây là hai nguồn nguyên liệu cơ bản, đủ cung cấp cho hoạt động sản xuất trong nước. Về nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu nên có thêm thông tin cụ thể về thị trường nhập khẩu gỗ của VN Gỗ nhập khẩu chiến khoảng 30-50% nguồn nguyên liệu gỗ của Việt Nam, kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu bằng 30% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ. Về thị trường nhập khẩu, Việt Nam đang nhập khẩu từ trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trước đây, nguyên liệu gỗ chủ yếu nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á như Campuchia, Ma-lay-xi-a và In-đô-nê-xi-a tuy nhiên những nguồn cung này đang khan hiếm bởi chính sách cấm xuất khẩu gỗ rừng tự nhiên của Chính phủ. Thay thế nguồn cung từ các nước trong khu vực Châu Á, hiện nay hoạt động nhập khẩu gỗ nguyên liệu đặc biệt là gỗ cứng (hardwood) của Việt Nam từ Liên minh Châu Âu, khu vực Châu Mỹ có xu hướng gia tăng như số liệu dưới đây. Bảng 3. Các thị trường nhập khẩu gỗ nguyên liệu lớn nhất của Việt Nam năm 2015-2016 Đơn vị: nghìn đô la Mỹ Quốc gia Năm 2015 Năm 2016 So sánh năm 2016 và năm 2015 Trung Quốc 250.199 286.209 10,00 Hoa Kỳ 234.509 219.427 -6,43 Cam pu chia 386.068 182.424 -52,75 Malaysia 101.830 93.631 -8,05 Thái Lan 91.029 91.036 0,01 Lào 360.054 79.396 -77,95 Chi lê 62.319 63.058 1,19 Niu Zi lân 54.974 55.927 1,73 Đức 38.041 47.064 23,72 Pháp 29.969 33.632 12,22 Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2016. 8 Ngoài ra, do nguồn cung gỗ nguyên liệu hạn chế nên giá nhiều loại gỗ đã tăng bình quân từ 5% - 7%, đặc biệt gỗ cứng đã tăng từ 30% - 40%, làm cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn. Biểu đồ 2. Giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ 2000-2016 Đơn vị: tỷ USD Nguồn: Nguyễn Tôn Quyền và các tác giả, 2016 Từ đầu năm 2013 đến nay, nhu cầu nguyên liệu chế biến sản phẩm gỗ phục vụ tiêu dùng ngày càng tăng trong khi nguồn cung hạn hẹp, giá gỗ nguyên liệu sẽ có xu hướng tăng cao trong thời gian tới. Hiện nay, có khoảng hơn 70% nguồn nguyên liệu sản xuất của ngành gỗ Việt Nam phải nhập khẩu, doanh nghiệp chế biến gỗ khá bị động trong dự trữ nguyên liệu, do thiếu vốn nên đa phần doanh nghiệp chỉ dám nhập khẩu nguyên liệu vừa đủ trong vài tháng, và sản xuất trong sự lo lắng khi nguồn nguyên liệu nhập ... háp của gỗ cần có 17 sự chung tay, hợp tác của Nhà nước và doanh nghiệp cũng như nhà cung cấp gỗ nguyên liệu (rừng trồng và nhập khẩu) với nhà sản xuất, chế biến xuất khẩu. Ngoài ra, Việt Nam vừa hoàn tất đàm phán và ký một loạt Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới quan trọng, trong đó với ngành gỗ, ngành sản xuất và chế biến xuất khẩu gỗ cũng như các ngành công nghiệp khác là nhóm có không gian chính sách bị thu hẹp nhất. Theo bà Nguyễn Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập cho biết: Việt Nam không thể bảo vệ ngành gỗ bằng thuế nhập khẩu hay các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu, biện pháp phân biệt đối xử về đầu tư, thị trường. Tuy nhiên, vẫn có thể bảo hộ bằng những biện pháp nhất định như chống bán phá giá, chống trợ cấp và những biện pháp được phép khác. Đặc biệt, đây phải là vấn đề mang tính cấp bách, khi ngành gỗ của Việt Nam phải đối mặt với không ít rủi ro như tính hợp pháp của nguồn gỗ nguyên liệu khi buôn bán các sản phẩm gỗ trái phép ở nhiều nước có thể bị coi là phạm pháp, thiếu hệ thống kiểm soát chuỗi cung hiệu quả hay vấn đề sử dụng lao động. 4.1.3. Thay đổi, triển vọng thị trường gỗ nguyên liệu Trong 10 năm gần đây, gỗ cao su là nguồn nguyên liệu quan trọng và sử dụng phổ biến trong ngành chế biến gỗ. Thống kê từ Hiệp hội Cao su Việt Nam cho thấy, diện tích trồng cây cao su tăng từ 748,7 nghìn ha vào năm 2010 đến xấp xỉ 1 triệu ha vào năm 2015 (Hiệp hội Cao su Việt Nam, 2015). Việt Nam có tiềm năng phát triển ngành công nghiệp gỗ cao su. Hiện tại lượng gỗ cao su hàng năm khai thác từ các vườn thanh lý, tái canh khoảng 2 triệu m3/năm. Theo ước tính, đến năm 2030, lượng gỗ cao su có thể đạt mức 6 triệu m3 do diện tích cao su được mở rộng đáng kể từ năm 2000 và diện tích tái canh đang tăng dần qua các năm. Chuỗi cung ứng gỗ cao su tại Việt Nam xuất phát từ 4 loại hình kinh doanh: gỗ cao su thanh lý của các công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), gỗ cao su thanh lý của các công ty do địa phương quản lý, gỗ cao su của các hộ gia đình, gỗ cao su của các công ty tư nhân, và gỗ cao su nhập khẩu. Diện tích cao su phát triển đã tạo nguồn cung ứng gỗ cao su ngày càng nhiều và cùng với sự phát triển của công nghệ xử lý, chế biến gỗ, các sản phẩm có nguồn gốc từ gỗ cao su ngày càng được ưa chuộng ở trong và ngoài nước. Sử dụng gỗ cao su làm nguyên liệu trong ngành chế biến gỗ sẽ tạo ra lợi ích kinh tế xã hội cho các vùng nông thôn, cải thiện môi trường và tăng cường giao thương quốc tế. Về mặt kinh tế xã hội, việc khai thác tận thu gỗ cao su khi hiệu quả kinh tế mủ cao su xuống thấp sẽ nâng cao thu nhập cho các hộ dân cũng như các công ty trồng cao su tại các vùng nông thôn. Về mặt môi trường, việc sử dụng gỗ cao su sẽ giảm khí phát thải vì không phải đốt khi tái canh trồng mới. Trước đây, gỗ cao su khi tái canh thường được đốt tại 18 vườn hoặc bán làm củi. Theo ước tính, khi gỗ cao su được sử dụng làm nguyên liệu chế biến, lượng khí phát thải (tính ra CO2) sẽ giảm khoảng 267 tấn/ha so với gỗ cao su khi sử dụng làm củi hoặc đốt tại vườn. Theo bà Trần Thị Thúy Hoa, Chánh văn phòng Hiệp hội Cao su Việt Nam, trong năm 2016, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam dự kiến sẽ thanh lý khoảng 30 nghìn ha cao su đã hết thời gian khai thác mủ để khai thác gỗ, lượng gỗ khai thác dự kiến lên tới 8-9 triệu m3 nên gỗ cao su càng dư thừa. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam nói riêng và các doanh nghiệp trong ngành cao su nói chung mong muốn các doanh nghiệp chế biến gỗ sử dụng ngay nguyên liệu gỗ cao su trong nước, vừa giúp tiết kiệm chi phí lại giải quyết phần nào khó khăn cho ngành cao su. Đây chính là giải pháp góp phần giải quyết vướng mắc cho cả đôi bên. Gỗ cao su cũng đã được khai thác và sử dụng làm đồ nội thất xuất khẩu sang các thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản. 4.1.4. Rủi ro của hoạt động chế biến gỗ xuất khẩu tại Việt Nam thời gian tới - Thứ nhất, rủi ro về nguồn cung gỗ nguyên liệu Sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô sản xuất ngành chế biến gỗ của Việt Nam cùng với chính sách phát triển rừng của nhiều quốc gia trên thế giới đã khiến cho nguồn cung gỗ nguyên liệu càng trở nên khan hiếm. Về nguyên liệu rừng trồng trong nước hiện có một số hạn chế chính như: Gỗ có đường kính nhỏ; Chất lượng cây gỗ chưa đồng đều;. Năng suất trồng rừng không cao và phân tán nhiều khu vực khác nhau trên cả nước. Như vậy, đối với nguồn gỗ trong nước, công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, các dự án phát triển rừng nguyên liệu chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến sản lượng gỗ phục vụ cho chế biến xuất khẩu vẫn chưa được cải thiện. Theo tính toán sơ bộ, ít nhất 10 năm nữa mới hy vọng chủ động được một phần nguyên liệu trong nước khi các khu rừng trồng gỗ lớn do các doanh nghiệp phát triển bắt đầu cho khai thác (Trung tâm Thông tin NNPTNT, 2014) Với nhu cầu về mặt nguyên liệu trung bình từ 29 - 30 triệu m3 gỗ nguyên liệu hàng năm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thị trường trong nước và xuất khẩu, kèm theo đó là việc đảm bảo và tuần thủ những yêu cầu về gỗ hợp pháp từ các quốc gia nhập khẩu sản phẩm gỗ, cùng với đó là các chính sách thay đổi từ các quốc gia mà Việt Nam đã và đang nhập khẩu nguyên liệu. Gần đây là sự thay đổi về chính sách xuất khẩu nguyên liệu gỗ của hai quốc gia láng giếng như Lào và Campuchia, hay chính sách về đóng cửa rừng tự nhiên của Trung Quốc. Điều này dẫn tới tình trạng cạnh tranh về thu mua nguyên liệu tại quốc gia mà Việt Nam hiện đang nhập khẩu gỗ, và 19 ngay chính tại thị trường Việt Nam. Dự kiến đến năm 2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 10 tỷ USD thì nguồn cung gỗ nguyên liệu sẽ cần thêm khoảng 4-5 triệu m3/năm. Đây sẽ là thách thức lớn đối với năng lực cạnh tranh của ngành nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. - Thứ hai, rủi ro pháp lý về tính hợp pháp của chuỗi cung ứng gỗ Hiện nay, một điều kiện bắt buộc để đảm bảo nguồn cung gỗ nguyên liệu đảm bảo tính hợp pháp để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu là các chứng chỉ phát triển rừng bền vững như chứng chỉ rừng PEFC, FSC. Một số quốc gia đi trước Việt Nam trong việc được cấp chứng chỉ rừng như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia là những đối thủ cạnh tranh rất mạnh tham gia thị trường xuất khẩu gỗ toàn cầu. PEFC là hệ thống chứng chỉ hiện có quy mô lớn nhất trên toàn cầu, chiếm tới 59,1% tổng diện tích rừng được cấp chứng chỉ. Đứng ở vị trí thứ hai là hệ thống FSC, chiếm tỷ trọng 36,8%. Các hệ thống còn lại chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Tuy đứng ở vị trí thứ hai nhưng diện tích rừng được chứng chỉ của hệ thống FSC chỉ bằng 62% diện tích rừng có chứng chỉ của PEFC. Đến nay, gỗ rừng trồng ở Việt nam mới chỉ có khoảng 200.000 ha được cấp chứng chỉ FSC, chiếm khoảng 8% diện tích rừng trồng cả nước. Thời gian tới, quy định 100% gỗ nguyên liệu có chứng chỉ FSC và hoặc PEFC là một thách thức lớn và rủi ro đối với doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Bên cạnh đó cần đầu tư giải pháp công nghệ để nghiên cứu, tuyển chọn các giống cây cho năng suất cao, chất lượng tốt, có đặc tính phù hợp với sản xuất công nghiệp, đáp ứng nhu cầu sử dụng nguyên liệu trong nước và xuất khẩu. Để đảm bảo uy tín cho sản phẩm gỗ, Nhà nước cũng cần kiểm soát một cách chặt chẽ nguồn gỗ chuyển tải từ công ty mẹ ở nước ngoài vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, ngăn ngừa việc trốn thuế và lẩn tránh xuất xứ. - Thứ ba, rủi ro tụt hậu về công nghệ và đổi mới Theo chuyên gia trong ngành gỗ, áp lực lớn nhất hiện nay của cả nước chính là dây chuyền công nghệ sản xuất và chế biến gỗ. Trình độ sản xuất gỗ tại khu vực Đông Nam Á đang tương đương nhau, sự hơn thua đang được tính trên dây chuyền công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại. Sức ép về thay đổi công nghệ hiện đại ngày càng tăng đối với các doanh nghiệp, bởi ngoài khả năng tiết kiệm thời gian, thay thế nguồn nhân công hiệu quả, máy móc có thể giúp cho ra đời những sản phẩm đúng kỹ thuật, chất lượng thẩm mỹ mà đối tác đặt hàng đã yêu cầu. Sản xuất theo dây chuyền giúp doanh nghiệp tiết kiệm rất nhiều chi phí, sản phẩm ra đời tỷ lệ hao hụt, lỗi giảm đáng kế so với bằng sức nhân công lao động.. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ vốn để trang bị, mua sắm máy móc tiên tiến. Ví dụ, một máy CNC 5 chiều (nhập 20 khẩu từ Ý) - có thể làm hàng chục thao tác chính xác thay nhân công - về Việt Nam có giá trên dưới 5 tỷ đồng, đây số tiền lớn so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Chính vì thế cuộc chạy đua về công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ Việt Nam và thế mạnh đang thuộc về các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 4.2. Khuyến nghị 4.2.1. Khuyến nghị chính sách Báo cáo xây dựng trên cơ sở tham khảo ý kiến của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cũng như Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ thành phố Hồ Chí Minh. Thứ nhất: Chính sách tạo nguồn nguyên liệu - Cho vay trồng rừng dài hạn hơn (trung bình khoảng 12 năm) để lâm dân có điều kiện duy trì rừng đến sau 10 năm tuổi, tỷ lệ sinh khối nhiều hơn, tỷ lệ sử dụng gỗ cao hơn (khoảng 35 – 40%). - Nghiên cứu các loài cây trồng rừng có giá trị kinh tế, phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu của từng địa phương. - Khuyến khích đầu tư các nhà máy chế biến nguyên liệu thứ cấp như: MDF, ván dăm, ván ép, ván ghép, gỗ thanh tinh chế, bột giấy tại các vùng có nhiều rừng trồng như: Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung bộ, Duyên Hải Trung bộ và Tây Nguyên Trung bộ. Điều này sẽ giúp: Tạo ra các khu vực sản xuất công nghiệp tại các trung tâm trồng rừng. Tạo hiệu ứng lan tỏa về kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nông thôn, bảo đảm an sinh xã hội và đưa lâm nghiệp trở thành một ngành kinh tế có hiệu quả bền vững, đây là lực lượng nòng cốt để bảo vệ và phát triển rừng. Nguyên liệu được sử dụng một cách triệt để nhất. Từ mùn cưa, dăm bào, gỗ vụn. Sản phẩm được cung cấp đến các trung tâm chế biến gỗ với giá cả hợp lý chẳng những tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu ván nhân tạo mà còn có khả năng xuất khẩu ván nhân tạo thay vì dăm gỗ. Thứ hai: Chính sách phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao - Tăng cường gắn kết đào tạo nhà trường với thực tiễn của doanh nghiệp: Theo đó xây dựng các chương trình đào tạo theo hướng đổi mới, nâng cao học phần thực hành cho người học. Cơ chế linh hoạt đối với đội ngũ giảng viên, cho phép các trường Đại học thực hiện chế độ thỉnh giảng từ các cán bộ quản lý nhà nước, doanh nghiệp để cập nhật kiến thức thực tế cho sinh viên. - Hỗ trợ chi phí đào tạo để các Hiệp hội tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn về hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới và sáng tạo, quản trị sản xuất cũng như những vấn đề mới trong môi trường kinh doanh hiện đại như trách nhiệm xã hội, phát triển bền vững. Đội ngũ giảng dạy, 21 thành phần cơ yếu là các chuyên gia về lâm nghiệp, kinh tế, pháp luật đến từ doanh nghiệp, 50% còn lại liên kết với các trường Đại học, Cao đẳng hoặc chuyên gia nước ngoài. Có cơ chế đánh giá và công nhận kết quả đào tạo để phát triển ổn định trong dài hạn. Thành lập các Học viện, trung tâm nghiên cứu với sự bảo trợ của các doanh nghiệp và Hiệp hội. Thứ ba: Chính sách về công nghệ sản xuất - Chính phủ có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nâng cao công nghệ để đón bắt các cơ hội thị trường. - Cho hưởng vốn vay ưu đãi hoặc miễn thuế thuế thời gian đầu đối với các dự án đổi mới sáng tạp, ứng dựng công nghệ tiên tiến vào sản xuất. - Thành lập Hội đồng khoa học với chuyên gia từ các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, cơ quan tư vấn độc lập để thẩm định, đánh giá các dự án đổi mới công nghệ trong ngành chế biến gỗ Việt Nam. Thứ tư: Chính sách về công nghiệp phụ trợ − Chính phủ nên có chính sách quy hoạch các nhà máy sản xuất ván MDF, ván dăm, ván ép, giấy và bột giấy, cưa xẻ - sấy, ván ghép thanh tại các trung tâm có nhiều rừng trồng như Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung bộ và Tây nguyên. − Xây dựng đề án phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ chế biến gỗ trên cơ sở Nghị định số 111/2015/NĐ-CP quy định các chính sách hỗ trợ, chính sách ưu đãi nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ. − Hỗ trợ phát triển các cụm công nghiệp hỗ trợ chế biến gỗ thành trung tâm cung cấp quy mô lớn, tiêu chuẩn thống nhất để cung cấp cho doanh nghiệp sản xuất chế biến gỗ. − Khuyến khích đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ chế biến gỗ: thu hút FDI, từ nguồn lơi xuất khẩu của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ. Thứ năm: Tăng cường năng lực thực thi của doanh nghiệp Hiện nay liên quan đến việc giảm thiểu các rủi ro trong xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam ra thị trường nước ngoài, Chính phủ đã có nhiều chính sách đúng đắn, chương trình hành động hiệu quả tuy nhiên vẫn còn tương đối nhiều lỗ hổng như, tính pháp lý về nguồn gốc gỗ nguyên liệu chưa rõ ràng. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nắm bắt được những yêu cầu cụ thể về thị trường xuất khẩu, tính pháp lý nguồn gốc gỗ nguyên liệu, quy định về sử dụng lao động, quy định liên quan đến hóa chất sử dụng trong sản phẩm... Vì vậy thời gian tới, khi không gian chính sách ngày càng thu hẹp, Chính phủ cần thực thi các giải pháp được phép như xây dựng kênh 22 thông tin, cơ chế đối thoại cũng như chương trình tư vấn về thị trường, pháp luật đối với doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ. Trong mối quan hệ này, doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định của Việt Nam, tăng cường trách nhiệm giải trình, tìm hiểu thông tin thị trường xuất khẩu một cách chủ động. Hiệp hội Gỗ và Lâm sản phải là đầu mối thông tin, đặc biệt thông tin dự báo, đánh giá tình hình, xác định rủi ro và kiến nghị các biện pháp cần thiết đối với doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Hiện nay, xu hướng bảo hộ thị trường bằng hàng rào kỹ thuật, Bộ Công thương nên hỗ trợ Hiệp hội nhằm hình thành đầu mối cập nhật thông tin về các quy định của thị trường (sử dụng kênh tham tán thương mại, xúc tiến thương mại, tiếp cận/dịch các thông tin/chính sách có liên quan và chia sẻ rộng rãi với cộng đồng doanh nghiệp). Ngoài ra trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam cần sát cánh bên nhau để định vị ngành chế biến gỗ của Việt Nam trên thị trường thế giới với mục tiêu xuất khẩu bền vững với cam kết “Việt Nam chung tay cùng cộng đồng thế giới vì sự phát triển thương mại gỗ hợp pháp và bền vững”. Tài liệu tham khảo 1. Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TP. Hồ Chí Minh, Kiến nghị Chính phủ Nước cộng hòa XNCH Việt Nam về các chính sách phát triển ngành chế biến gỗ Việt Nam đến năm 2020. 2. Hiệp hội Gỗ và Lâm Sản Việt Nam (2017), Gỗ Việt số 84, 85 năm 2016 và 86. 3. Hiệp hội cao su Việt Nam, 2015, va-nang-suat-cay-cao-su-tai-viet-nam.7964.html, truy cập ngày 15/3/2017. 4. Tô Xuân Phúc, Trần Lê Huy, Cao Thị Cẩm (2015), Xuất khẩu dăm gỗ của Việt Nam 2012-2014, VIFORES, HAWA, FPA Bình Định, Forest Trends, Báo cáo. 5. Nguyễn Tôn Quyền, Cao Thị Cẩm, Tô Xuân Phúc và Trần Lê Huy (2016), Thực trạng sử dụng nguyên liệu trong chế biến gỗ. 6. Trung tâm Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn (2014), Báo cáo thường niên 2013, triển vọng 2014. 7. Tổng cục Hải quan, Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2015. 8. Tổng cục Hải quan, Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2016. 9. Tạp chí của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam: 23
File đính kèm:
- xuat_khau_go_va_san_pham_go_cua_viet_nam_2016_va_trien_vong.pdf