Xu thế và đặc điểm di động nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa và kiến nghị biện pháp chính sách thu hút nhân lực
Trongnhững năm gần đây, Việt Nam đã ban hành một số văn bản liên quan đến chính sách thu hút nhân lực như sau: Nghị định 87/2014/NĐ-CP quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam; Nghị định 40/2014/NĐ-CP quy định về việc sử dụng, trong dụng cá nhân hoạt động KH&CN; và hiện đang dự thảo Nghị định về chính sách thu hút, tạo nguồn nhân lực KH&CN từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhân lực khoa học trẻ.
Nghị định 87/2014/NĐ-CP chủ yếu quy định các biện pháp cấp thị thực nhiều lần hoặc thẻ tạm trú với thời hạn tối đa; bổ nhiệm, thuê đảm nhiệm chức danh lãnh đạo, giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN, bổ nhiệm chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ, tạo điều kiện; hỗ trợ về thủ tục thành viên gia đình người đó tìm kiếm việc làm và tuyển sinh, học tập; hưởng lương theo thỏa thuận; được cung cấp thông tin, tư vấn cần thiết; hưởng ưu đãi tối đa về thuế, chuyển các khoản thu nhập hợp pháp ra nước ngoài; hỗ trợ tạo điều kiện sử dụng phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, điều kiện thuận lợi về phòng làm việc, tổ chức hội thảo, v.v.
Nghị định 40/2014/NĐ-CP chủ yếu quy định chung đối với các nhân lực KH&CN như tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi, quy định về chức danh KH&CN, bổ nhiệm chức danh KH&CN, tạo điều kiện thuận lợi về phương tiện, trang thiết bị, vật tư, phòng thí nghiệm, cơ sở thực nghiệm và các điều kiện cần thiết.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu thế và đặc điểm di động nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa và kiến nghị biện pháp chính sách thu hút nhân lực
Xu thế và đặc điểm di động nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa và kiến nghị biện pháp chính sách thu hút nhân lực Nguyễn Nghĩa1, Mai Hà2, Nguyễn Văn Hòa3,* 1Viện Sở hữu trí tuệ, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam 2Bộ Khoa học và Công nghệ, 113 Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 3Trường Quản lý Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, 113 Trần Duy Hưng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 05 tháng 11 năm 2017 Chỉnh sửa ngày 15 tháng 01 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 05 tháng 02 năm 2018 Tóm tắt: Bài viết này đề cập đến bất cập trong chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ, nhận dạng và phân tích xu thế và đặc điểm di động nhân lực khoa học và công nghệ trên thế giới hiện nay, kinh nghiệm các nước thu hút nhân lực, phân tích nguyên nhân của di động nhân lực và kiến nghị chính sách. Từ khóa: nhân lực khoa học và công nghệ, di động nhân lực, chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ. Từ khóa: Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, di động nhân lực, chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ. Trong*Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-967956918. Email: hoabn2010@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4132 những năm gần đây, Việt Nam đã ban hành một số văn bản liên quan đến chính sách thu hút nhân lực như sau: Nghị định 87/2014/NĐ-CP quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Việt Nam; Nghị định 40/2014/NĐ-CP quy định về việc sử dụng, trong dụng cá nhân hoạt động KH&CN; và hiện đang dự thảo Nghị định về chính sách thu hút, tạo nguồn nhân lực KH&CN từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhân lực khoa học trẻ. Nghị định 87/2014/NĐ-CP chủ yếu quy định các biện pháp cấp thị thực nhiều lần hoặc thẻ tạm trú với thời hạn tối đa; bổ nhiệm, thuê đảm nhiệm chức danh lãnh đạo, giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN, bổ nhiệm chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ, tạo điều kiện; hỗ trợ về thủ tục thành viên gia đình người đó tìm kiếm việc làm và tuyển sinh, học tập; hưởng lương theo thỏa thuận; được cung cấp thông tin, tư vấn cần thiết; hưởng ưu đãi tối đa về thuế, chuyển các khoản thu nhập hợp pháp ra nước ngoài; hỗ trợ tạo điều kiện sử dụng phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, điều kiện thuận lợi về phòng làm việc, tổ chức hội thảo, v.v... Nghị định 40/2014/NĐ-CP chủ yếu quy định chung đối với các nhân lực KH&CN như tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi, quy định về chức danh KH&CN, bổ nhiệm chức danh KH&CN, tạo điều kiện thuận lợi về phương tiện, trang thiết bị, vật tư, phòng thí nghiệm, cơ sở thực nghiệm và các điều kiện cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế, vấn đề thu hút nhân lực KH&CN nước ngoài trở về nước vẫn có nhiều vấn đề bất cập, vẫn là điểm nóng được đề cập nhiều trong các bài viết hiện nay, các chính sách thu hút nhân lực KH&CN hiện nay vẫn chưa phát huy tác dụng trong thực tế [1]. Kinh nghiệm thu hút nhân lực khoa học và công nghệ nước ngoài của các nước phát triển như Hoa Kỳ, EU, v.v... hoặc các nước mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, đặc biệt là kinh nghiệm thành công thu hút nhân lực khoa học và công nghệ nước ngoài trở về nước gần đây của Trung Quốc làm bài học tham khảo rất tốt, và cho thấy trong các văn bản pháp luật nước ta còn thiếu rất nhiều biện pháp chính sách đồng bộ thu hút nhân lực khoa học và công nghệ nước ngoài trở về nước. Do đó, chúng ta có thể học tập những kình nghiệm thành công của các nước để đề xuất những kiến nghị hoàn thiện, đồng bộ hoá các cơ chế thể chế thu hút nhân lực khoa học và công nghệ nước ngoài trở về nước của nước ta. Bối cảnh quốc tế và khu vực vừa tạo cơ hội lớn đan xen những thách thức lớn cho Việt Nam khi bước vào một thời kỳ phát triển mới với tư cách là một nước có thu nhập trung bình thấp và nỗ lực trong quá trình tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa rút ngắn để đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và sau đó đến giữa thế kỷ này trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Kinh nghiệm thế giới chỉ ra là có được nhân lực khoa học và công nghệ mới có thể phát triển được đất nước, chỉ khi nào trọng người tài thì đất nước mới đi lên. Việt Nam chỉ thành công trong rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bằng phát triển kinh tế thị trường và bằng KH&CN hiện đại trên nền tảng trí tuệ của con người Việt Nam. 1. Nhận diện di động nhân lực KH&CN Sự phát triển nhanh chóng của KH&CN và toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy di động toàn cầu nhân lực KH&CN với quy mô lớn ngày càng mạnh mẽ. Từ năm 2010 đến năm 2014, một số lượng lớn nhân lực KH&CN toàn cầu đã đến Hoa Kỳ. Trong đó, theo thống kê, năm 2011, số lượng người đến từ đại lục Trung Quốc có được quyền cư trú vĩnh viễn là 87.016 người, năm 2012, giảm xuống còn 81.784 người, năm 2013 so với năm 2012 giảm 9.986 người, giảm 12,2%, trong những người nhập cư này, nhân lực KH&CN chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2013, số lượng người đến từ Trung Quốc đại lục, thông qua kỹ năng ngành nghề có được quyền cư trú vĩnh viễn là 20.245, chiếm 28,2% tổng số quyền cư trú vĩnh viễn năm, so với năm 2012 tăng 2.041 người, tỷ lệ tăng 4,9% [2-5]. Tỷ lệ sinh viên từ Trung Quốc đại lục đến Hoa Kỳ có được học vị tiến sĩ và sau 5 năm lưu lại Hoa Kỳ trong vài năm gần đây cũng cao đạt tới trên 90%. Tình hình nhân lực KH&CN Trung Quốc di động đến các nước khác cũng tương đối rõ ràng, giai đọan 2013-2014, Úc đã cấp tổng cộng 190.000 visa cư trú, trong đó 14,4% là người Trung Quốc chiếm, nhân lực KH&CN chiếm phần lớn [6]. Hiện nay, các nhà nghiên cứu do Ấn Độ đào tạo có 40% làm việc ở nước ngoài, trong đó có 75% nhân lực KH&CN nước ngoài là ở Hoa Kỳ. Ngoài ra, Ấn Độ có một số lượng lớn nghiên cứu sinh thạc sĩ tốt nghiệp đi ra nước ngoài (chủ yếu là đến Hoa Kỳ) chuyên nghiên cứu giành học vị tiến sĩ, và cuối cùng ở lại nước ngoài. Nghiên cứu gần đây của Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ cho thấy rằng trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học sức khỏe, mỗi năm có khoảng 5.000 sinh viên Ấn Độ chuyên nghiên cứu giành học vị tiến sĩ tại các trường đại học Hoa Kỳ, chỉ có 5,2% số sinh viên sau khi có được học vị trở về nước [7]. Ngoài ra, theo điều tra năm 2013 [6], trong số các nhà khoa học và kỹ sư nhập cư của Hoa Kỳ có khoảng 57% sinh ra ở châu Á, 16% sinh ra ở châu Âu, 6% đã được sinh ra ở châu Phi, 20% sinh ra ở Bắc Mỹ (không bao gồm Hoa Kỳ), Trung Mỹ, Nam Mỹ và vùng biển Caribbean, không đến 1% sinh ra ở châu Đại Dương. Nhưng trong số các nhà khoa học và kỹ sư nhập cư của Hoa Kỳ sinh ra ở các nước châu Á, thì số người sinh ở Trung Quốc và Ấn Độ nhiều nhất. Dữ liệu năm 2014 cho thấy 75% visa H-1B (visa làm việc cấp cho kỹ thuật viên chuyên nghiệp nước ngoài, trong đó, bao gồm nhân lực KH&CN) cấp cho lao động chuyên môn công nghệ cao của Trung Quốc và Ấn Độ. Số lượng du học sinh của Trung Quốc và Ấn Độ tại Hoa Kỳ cũng cao hơn nhiều so với các nước khác. Trong thế kỷ 20, ngoại trừ rất ít nhân lực KH&CN được Chính phủ nước mình điều động ngắn hạn đến Trung Quốc giúp Trung Quốc xây dựng, về cơ bản không có nhân lực KH&CN có trình độ cao nước ngoài đến Trung Quốc. Nhưng sau năm 2000, với việc chính phủ Trung Quốc và các tổ chức liên quan ngày càng coi trọng nhân lực KH&CN, đặc biệt là sau khi thực hiện "Chương trình 1000 người tài", hiện tượng di động nhân lực KH&CN đến Trung Quốc ngày càng rõ ràng. Tính đến cuối tháng 5/2014, "Chương trình 1000 người tài" đã thu hút hơn 4.180 nhân lực có trình độ cao nước ngoài. Từ năm 2010 đến năm 2014, tỷ lệ du học sinh Trung Quốc ở nước ngoài trở về nước tăng lên mỗi năm, chỉ trong năm 2014, tổng số tất cả các loại du học sinh nước ngoài trở về nước đạt 364.800 người [8]. 2. Chính sách thu hút nhân lực KH&CN của một số nước Hiện nay cạnh tranh nhân lực KH&CN ngày càng khốc liệt, các quốc gia phát triển chủ yếu toàn cầu và các quốc gia nền kinh tế mới nổi đều đặc biệt chú ý đến vai trò quan trọng đã đẩy mạnh việc tranh giành nhân lực KH&CN nước ngoài đặc biệt là nhân lực KH&CN có trình độ cao, coi việc thu hút nhân lực KH&CN là một chiến lược KH&CN quốc gia cơ bản, đưa ban hành một loạt chính sách nhân lực KH&CN. Hiện nay Hoa Kỳ là nước lớn về KH&CN và cường quốc về KH&CN thứ nhất thế giới, nhân lực KH&CN trình độ cao, đặc biệt nhân lực KH&CN trình độ cao nước ngoài, đã đóng vai trò then chốt đối với phát triển nước Hoa Kỳ. Do đó, các phiên họp của Chính phủ Hoa Kỳ đã chú trọng tuyệt vời để thu hút nhân lực nước ngoài. Để có được các nhân lực KH&CN rất cấp thiết, chính phủ Hoa Kỳ thực hiện riêng chế độ visa H-1B, cấp cho các nhân lực tối thiểu có trình độ cử nhân và làm công việc chuyên nghiệp. Tiến trình di động nhân lực KH&CN gắn gó chặt chẽ với sự phát triển chính sách nguồn nhân lực KH&CN và tầm nhìn toàn cầu của EU. Chương trình "thẻ xanh" do EU ban hành năm 2007 đề xuất người sở hữu "thẻ xanh" ngoại trừ trong một số khía cạnh phúc lợi có sự khác biệt với công dân EU, còn trong các khía cạnh khác đều được hưởng đối xử bình đẳng như công dân của nước tiếp nhận, như an sinh xã hội, việc làm, quyền lợi đãi ngộ và tiền lương [9]. Trong Chương trình khung R&D thứ 7, EU còn xây dựng "Chương trình hành động Marie Curie" để cung cấp các loại tài trợ và khuyến khích cho các nhà nghiên cứu khoa học ở tất cả các giai đoạn của sự nghiệp ngành nghề của mình, đến năm 2013, EU thông qua chương trình này đã cung cấp tài trợ cho 14.000 nhà nghiên cứu. "Chương trình hành động Marie Curie” chủ yếu bao gồm: xây dựng mạng lưới đào tạo trong thời gian khởi động nghiên cứu khoa học, thúc đẩy học tập suốt đời và phát triển ngành nghề, xây dựng quan hệ đối tác hợp tác công nghiệp-đại học, thành lập quỹ hợp tác quốc tế (bao gồm: học bổng cho học giả đi thỉnh giảng, học bổng cho học giả đến thỉnh giảng và hỗ trợ nhân lực nghiên cứu khoa học quốc tế trở về), và trao giải thưởng hành động Marie Curie [10-12]. Đồng thời, các nước thành viên EU c¨n cø vµo thực lực kinh tế và nhu cầu chiến lược phát triển KH&CN của bản địa, cũng đã ban hành có mục tiêu tương đối mạnh nhằm thu hút nhân lực KH&CN có trình độ cao nước ngoài, thu hút nhân lực KH&CN toàn cầu Để thu hút nhân lực KH&CN nước ngoài (đặc biệt là người nước ngoài gốc Trung Quốc) trở về nước làm việc, năm 2008 Ban Tổ chức Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đã phát động "Chương trình 1000 người tài", xoay quanh mục tiêu chiến lược phát triển quốc gia, thu hút nhân lực KH&CN có trình độ cao nước ngoài mà đất nước đang thiếu hụt. Chương trình này không chỉ cung cấp sự đãi ngộ rất hào phóng cho các ứng cử viên được lựa chọn, còn cung cấp điều kiện thuận lợi về khía cạnh xuất nhập cảnh cho người được lựa chọn và gia đình họ. Tình hình chảy máu chất xám nhân lực KH&CN của Ấn Độ cũng rất nghiêm trọng, nhưng từ những năm 1990, chính phủ Ấn Độ đã nhận ra tầm quan trọng của nhân lực KH&CN, bắt đầu coi trọng nhân lực KH&CN ở nước ngoài, và đã đưa ra một loạt các chính sách liên quan thu hút nhân lực KH&CN ở nước ngoài. Năm 2012, Ấn Độ đã phát động chương trình "Thẻ người Ấn Độ ở nước ngoài", mà thực chất là một loại thị thực nhập cư để cho phép nhân lực khoa học và công nghệ nước ngoài gốc Ấn sống dài hạn ở nước ngoài, có quốc tịch nước ngoài trở về sống ở Ấn Độ. Cũng trong năm đó, Chính phủ Ấn Độ còn đưa ra Chương trình "Ấn Độ học tập" nhằm cung cấp cho con cái người nước ngoài gốc Ấn cơ hội truy cập vào các trường đại học Ấn Độ tham gia nghiên cứu nâng cao, đồng thời Chính phủ Ấn Độ còn cung cấp chi phí sinh hoạt cơ bản và chi phí đi lại cho những người được lựa chọn. 3. Đặc điểm và xu thế di động nhân lực KH&CN hiện nay Theo các dữ liệu liên quan liên quan đến Xu thế di động nhân lực KH&CN toàn cầu hiện nay, nhìn chung, di động nhân lực KH&CN có những đặc điểm và xu thế sau đây [13]: 1) Xu thế chung là nhân lực KH&CN di động từ các quốc gia đang phát triển sang quốc gia phát triển (như Hoa Kỳ, Đức, Úc), và Hoa Kỳ vẫn là nước tiếp nhận nhân lực KH&CN lớn nhất thế giới và đỉnh cao kiểm soát nhân lực KH&CN thế giới, Úc và Canada cũng là mục tiêu hướng đến cơ trú của di động toàn cầu nhân lực KH&CN. Sự hấp dẫn của châu Âu đối với nhân lực KH&CN là ở mức độ tương đối khiêm tốn. 2) Đã xuất hiện xu thế trở về nước: Nhân lực KH&CN trong một bộ phận lĩnh vực và chuyên môn, đặc biệt là du học sinh nước ngoài, có xu thế trở lại từ các nước phát triển như Châu Âu - Hoa Kỳ về các nền kinh tế quê hương - mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ. 3) Hình thức di động theo dự án, hoặc theo giai đoạn: rất nhiều nhân lực KH&CN có trình độ cao đã sử dụng phương thức di động theo đề án, ha theo từng giai đoạn cho công việc không ở nước chủ nhà, ví dụ, nhập cảnh ngắn hạn (tức là, nhân lực KH&CN thông qua hợp tác với tổ chức nghiên cứu khoa học liên quan của nước khác để gián tiếp thực hiện dịch vụ cho những nước khác). Mô hình di động nhân lực mới này trong những năm gần đây tỏ ra là linh hoạt và có hiệu quả, chi phí và rủi ro cũng tương đối thấp, do đó được nhân lực KH&CN hoàn nghênh rộng rãi. 4) Xu thế di động chia sẻ nhân lực KH&CN toàn cầu đã sơ bộ hình thành. Hiện nay, một số nhân lực KH&CN không còn quá khó tính trong việc lựa chọn quốc gia đến, hơn nữa cùng với việc gia tăng di động vốn toàn cầu, vấn đề hợp tác và phân công toàn cầu, chuyển giao công nghệ quốc tế và phát triển công ty đa quốc gia, việc di động và chia sẻ toàn cầu nhân lực KH&CN đã sơ bộ hình thành và trở thành hiện tượng không thể bỏ qua. Nhân lực KH&CN có thể di động theo những cơ hội công việc không ngừng giữa các quốc gia khác nhau và trên toàn cầu, và không nhất thiết phải sống cố định, lâu dài trong một nước nào đó. Trong khi sống và làm việc ở một nước, nhân lực KH&CN còn có thể có thể sử dụng các hình thức phục vụ cho các nước khác, hoặc tiến hành nghiên cứu hợp tác với các tổ chức nghiên cứu khoa học liên quan của các nước khác, truyền đạt công nghệ và kinh nghiệm tiên tiến nhất sang các nước khác. 4. Nguyên nhân tác động di động nhân lực KH&CN Di động toàn cầu nhân lực KH&CN cho thấy một tình hình phức tạp đã được phân tích ở phần trên, có thể cho là có nhiều yếu tố cùng tác động đến. Quan điểm của các tác giả cho rằng có 5 yếu tố chủ yếu sau đây tác động đến di động nhân lực KH&CN: (1) Thực lực kinh tế và độ đa dạng xã hội giữa các nước đang phát triển so với các nước phát triển vẫn có một khoảng cách khá lớn, vì vậy các nước phát triển có thể cung cấp lượng thu nhập kinh tế tương đối cao cho nhân lực KH&CN, đảm bảo nhân lực KH&CN và gia đình của họ chất lượng cuộc sống tương đối tốt và trẻ em có thể nhận được một nền giáo dục tốt. Đồng thời, các nước phát triển có thực lực kinh tế mạnh mẽ, có khả năng cung cấp đảm bảo kinh phí nghiên cứu và kết cấu hạ tầng KH&CN cho việc nghiên cứu khoa học đối với nhân lực KH&CN. (2) Các nước phát triển cũng là những nước có trình độ KH&CN dẫn đầu thế giới, hầu hết các nhà khoa học hàng đầu cũng đều tập trung ở các nước này. Do đó, các cộng đồng nghiên cứu, các trường phái khoa học và môi trường nghiên cứu ở các nước phát triển là tốt, và nhân lực KH&CN đặc biệt là các nhà khoa học nghiên cứu phương hướng mũi nhọn có thể kịp thời có được những thông tin và thành quả nghiên cứu mới nhất, thuận lợi tiến hành trao đổi với các nhân lực khoa học hàng đầu thế giới, chia sẻ những thành quả KH&CN mới nhất. Do đó, hai yếu tố trên có thể đảm bảo các nhân lực KH&CN ở các nước phát triển về cơ bản không phải lo lắng thiếu thông tin, thiếu kinh phí hay cơ sở vật chất trong khi tiến hành công tác nghiên cứu khoa học, đồng thời bảo đảm nhân lực KH&CN có thể phát huy đầy đủ thực lực nghiên cứu khoa học của mình, thực hiện giá trị nghiên cứu khoa học của mình, dẫn đến việc là phần lớn nhân lực KH&CN lựa chọn di động từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển. (3) Mức độ hấp dẫn của chính sách thu hút nhân lực KH&CN của Chính phủ các nước cũng có tác động quan trọng đến di động nhân lực KH&CN toàn cầu. Ví dụ, các nước phát triển (đặc biệt là Hoa Kỳ) đã đưa ra một số chính sách thu hút nhân lực KH&CN có trình độ cao, trở thành một nguyên nhân chủ yếu thu hút nhân lực KH&CN chảy vào các nước này, nhưng một số nước EU do áp dụng chính sách nhập cư tương đối bảo thủ và một số công việc chính sách liên quan đến bảo vệ cơ hội công việc của công dân bản địa, do đó dẫn đến việc là sức hấp dẫn của EU đối với nhân lực KH&CN không thật sự cao, và độ khó di động nhân lực KH&CN đến các nước EU được ghi nhận ở mức độ tương đối cao, và đồng thời là không rõ ràng trong những chính sách của EU đối với di động nhân lực KH&CN giữa các nước thành viên. Các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ, đã nhận ra tầm quan trọng của nhân lực KH&CN đối với phát triển bản địa, đã tích cực ban hành các chính sách liên quan thu hút nhân lực KH&CN ở nước ngoài (nhân lực KH&CN và sinh viên có gốc là người bản địa) trở về nước, cũng hoan nghênh các nhân lực KH&CN sử dụng các hình thức như viếng thăm và hợp tác nghiên cứu ngắn hạn tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học, do đó, trong những năm gần đây, sức hấp dẫn của các quốc gia nền kinh tế mới nổi hấp dẫn đối với nhân lực KH&CN ngày càng lớn. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là Hoa Kỳ không chỉ có thực lực kinh tế mạnh nhất thế giới, có thực lực nghiên cứu khoa học mạnh nhất và môi trường nghiên cứu khoa học tốt nhất, mà còn đặc biệt quan tâm đến công tác nghiên cứu khoa học, ban hành các chính sách và biện pháp liên quan tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu khoa học, cung cấp sự hỗ trợ tài chính đầy đủ cho nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện nghiên cứu khoa học tối đa liên quan cho các nhà nghiên cứu khoa học và các nhân lực KH&CN. Vì vậy, Hoa Kỳ có sức hấp dẫn rất lớn đối với nhân lực KH&CN toàn cầu, mỗi năm tiếp nhận hàng chục ngàn nhân lực KH&CN có trình độ cao, là nơi đích đầu tiên di động nhân lực KH&CN thế giới và đỉnh cao kiểm soát nhân lực KH&CN toàn thế giới. Cùng với những ưu đãi chính sách của các quốc gia đang phát triển, ngày càng có nhiều công ty công nghệ cao đa quốc gia chuyển cơ sở sản xuất, thậm chí cơ sở nghiên cứu khoa học di động vốn (do sự chênh lệch về chi phí nhân lực giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển) từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển. Điều này đã tác động thu hút nhân lực KH&CN di động từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển. (4) Mức độ bão hòa hoặc dư thừa nhân lực KH&CN ở một số quốc gia Châu Âu, dẫn đến một số lượng lớn các nhân lực KH&CN không có việc làm phù hợp và nhàn rỗi. Trong khi đó, sự phát triển kinh tế nhanh chóng của các nền kinh tế mới nổi, và tăng cường đầu tư cho sự nghiệp KH&CN, nâng cao đãi ngộ cho nhân lực KH&CN, nhu cầu đối với nhân lực KH&CN là rất cấp bách. Do đó, có một số lượng lớn các nhân lực KH&CN từ các nước trên thế giới, ngay cả ở các nước phát triển đang chảy vào các nền kinh tế mới nổi. (5) Xung đột tư tưởng và truyền thống văn hóa khiến một bộ phận nhân lực KH&CN ra đi từ một nước này sang nước khác, hoặc truyền thống mạnh mẽ trở về phục vụ quê hương sau một thời gian học tập hoặc làm việc ở nước ngoài, trở về quê hương để tiến hành xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học. 5. Kết luận và khuyến nghị Nói tóm lại, những đặc điểm cụ thể di động nhân lực KH&CN trên thế giới hiện nay rất phong phú và đa dạng, quy mô và phương hướng di động cũng thay đổi liên tục. Ngoài ra, những yếu tố dẫn đến việc di động nhân lực toàn cầu là rất phức tạp, liên quan đến tất cả các khía cạnh như môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và nghiên cứu khoa học. Nhân lực KH&CN, đặc biệt là với xu thế di động toàn cầu nhân lực KH&CN có trình độ cao như đã phân tích, đồng thời mang lại cơ hội và những thách thức rất lớn cho nước đang phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, các nhà Lãnh đạo quốc gia cần đổi mới tư duy, tiếp tục phân tích những tác động của việc di động nhân lực KH&CN toàn cầu đối với việc phát triển thúc đẩy đổi mới của Việt Nam, và ban hành những biện pháp tổng thể, hiệu quả nhằm thu hút nhân lực KH&CN có trình độ cao phục vụ cho sự phát triển của Việt Nam. Một số khuyến nghị: 1- Đảm bảo phát triển kinh tế thị trường với môi trường cạnh tranh lành mạnh, khi đó công cụ chính để cạnh tranh, để phát triển kinh tế là tri thức KH&CN và đổi mới, đặc biệt là dựa vào công nghệ cao, nâng cao vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong việc tạo ra của cải cho xã hội, đổi mới công nghệ, đảm bảo thịnh vượng quốc gia [14]; 2- Nghiên cứu so sánh nghiêm túc kinh nghiệm quốc tế trong việc thu hút nhân lực KH&CN có trình độ cao, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước phát triển Hoa Kỳ, Úc, Canada, Nhật Bản, v.v... cũng như của các nước có nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, v.v... để rút ra bài học tham khảo (xem thêm [15]); 3- Tổ chức một số chương trình thí điểm khuyến khích thu hút nhân lực KH&CN có trình độ cao trở về nước như “Chương trình 1000 người tài’’ của Trung Quốc (xem thêm [17]); 4- Tạo môi trường nghiên cứu khoa học tốt, cụ thể là xây dựng một số cơ sở nghiên cứu khoa học lựa chọn có hạ tầng cơ sở thật tốt đáp ứng nhu cầu nghiên cứu khoa học của một số ngành KH&CN ưu tiên [xem thêm 1,3]; 5- Tiếp tục nghiên cứu và động bộ hoá hệ thống chính sách thu hút nhân lực KH&CN đối với người được lựa chọn và thân nhân gia đình họ. Tài liệu tham khảo Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng, NXB Thế giới. Mai Hà, Nghiêm Vũ Khải, Nguyễn Nghĩa. Xu thế toàn cầu hóa khoa học và công nghệ: thách thức và cơ hội. Tạp chí "Khoa học và Công nghệ Việt Nam", số 3, 2015, tr. 4-6. Mai Hà. Hội nhập quốc tế về Khoa học và Công nghệ: Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Tạp chí "Xã hội học". 2015, số 1, trang 70-82. Mai Hà, Nguyễn Nghĩa và các cộng sự. Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ - Chiến lược thích ứng. Hà Nội, 2016, NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr. 240. Xu thế tập trung và luân chuyển nhân tài có trình độ cao toàn cầu và chính sách thu hút nhân tài, 2017; Vương Huy Diệu,Lưu Quốc Phúc,Miêu Lục, Báo cáo di dân quốc tế Trung Quốc (2015) [M] Bắc Kinh: NXB tài liệu KHXH, 2015. Tr. 26-29. Đặng Lỵ, Phân tích hiện trạng chảy máu chất xám của Ấn Độ và biện pháp đối phó [J] Thông tin Giáo dụcThế giới, 2013 (16). Tr. 12-17. Báo cáo Nghiên cứu Phát triển nguồn nhân lực KH&CN Trung Quốc [M] Bắc Kinh: Ban tuyên truyền nghiên cứu điều tra Hiệp hội KH&CN Trung Quốc, 2014. Tr. 86-87. Kinh nghiệm và phương pháp thu hút nhân tài của nước ngoài đáng tham khảo, 2016, UNESCO (2006). World Education Indicators (Thống kê giáo dục thế giới). Andres Solimano. The International Mobility of Talent. Oxford University Press. 2008, 338ps. Chương trình hành động Marie Curie, https://ec.europa.eu/research/mariecurieactions/; Mai Hà. Xu thế phát triển khoa học và công nghệ thế giới, tr. 151-170 trong cuốn sách "Cục diện thế giới đến 2020". Hà Nội, 2010, NXB Chính trị Quốc gia, 600 trang. Mai Hà. Đặc điểm của lao động nghiên cứu khoa học và công nghệ. Tạp chí "Chính sách và Quản lý Khoa học và Công nghệ". 2011, Số 1, Tập 1, tr. 4-10. Taking Action to Attract High-Skilled Immigrants, Graduates, and Entrepreneurs, https://obamawhitehouse.archives.gov/blog/2014/11/25/taking-action-attract-high-skilled-immigrants-graduates-and-entrepreneurs. Chương trình 1000 người tài (千人计划): Tình hình mới và đặc điểm mới luân chuyển nhân tài KHCN thế giới hiện nay. 2016: Trends and Main Specific Features of Mobility of Human Resources in Science and Technology in Globalization Context and Recommendations for Policy Measures to Attract Human Resources Nguyen Nghia, Mai Ha, Nguyen Van Hoa Abstract: This article deals with the inadequacies in the policy on attracting human resources in science and technology, identifying and analyzing trends and main specific features in mobility of human resources in science and technology in the world, the experiences from other countries in mobilization and mobility of human resource. The article also provides analysis of causes of the mobility and recommendations for policies. Keywords: Human resources in science and technology, mobility of human resource, policies for attracting human resources in science and technology.
File đính kèm:
- xu_the_va_dac_diem_di_dong_nguon_nhan_luc_khoa_hoc_va_cong_n.doc