Xử lý vi phạm đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh
Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh có thể gây nên những tổn hại lớn
đến quyền lợi của người tiêu dùng và/hoặc của các doanh nghiệp
khác trên thị trường liên quan. Để việc kiểm soát các thoả thuận
này có hiệu quả, cần phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, trong
đó các biện pháp xử lý vi phạm luôn đóng vai trò quan trọng. Vấn
đề đặt ra là, xử lý các vi phạm pháp luật về kiểm soát có thể sử
dụng những công cụ nào và xác định mối tương quan giữa các biện
pháp này, để thiết kế cách thức kiểm soát phù hợp với bối cảnh của
Việt Nam.
Bạn đang xem tài liệu "Xử lý vi phạm đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xử lý vi phạm đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh
XỬ LÝ VI PHẠM ĐỐI VỚI CÁC THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Tóm tắt: Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh có thể gây nên những tổn hại lớn đến quyền lợi của người tiêu dùng và/hoặc của các doanh nghiệp khác trên thị trường liên quan. Để việc kiểm soát các thoả thuận này có hiệu quả, cần phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó các biện pháp xử lý vi phạm luôn đóng vai trò quan trọng. Vấn đề đặt ra là, xử lý các vi phạm pháp luật về kiểm soát có thể sử dụng những công cụ nào và xác định mối tương quan giữa các biện pháp này, để thiết kế cách thức kiểm soát phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Trần Việt Dũng* Phạm Hoài Huấn** * PGS. TS. Trường Đại học Luật, TP. Hồ Chí Minh ** ThS. Trường Đại học Luật, TP. Hồ Chí Minh Abstract Agreements leading to competition restriction may cause great harms to the interests of consumers and/or other businesses in the relevant market. In order for control of those agreements in a effective manner, it is necessary to use multiple measures, of which the measures to handle violations always play an important role. The problem is, what tools can be used to deal with violations of the control law and determine the correlation among these measures, to design the appropriate control method in the Vietnamese context. Thông tin bài viết: Từ khóa: thoả thuận hạn chế cạnh tranh, cartel, xử lý vi phạm, chính sách khoan hồng. Lịch sử bài viết: Nhận bài : 21/12/2018 Biên tập : 05/01/2019 Duyệt bài : 12/01/2019 Article Infomation: Keywords: competition restriction agreement; cartel, handling violations, leniency policy. Article History: Received : 21 Dec. 2018 Edited : 05 Jan. 2019 Approved : 12 Jan. 2019 1. Xử lý vi phạm về thoả thuận hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam Với tính chất là một trong những hành vi gây ra nhiều hệ quả xấu cho môi trường 1 World Bank & OECD, “A framework for the design and implementation of competition law and policy”, tr. 24, nguồn tại: policy.htm, truy cập ngày 16/12/2018 cạnh tranh và quyền lợi người dùng, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (HCCT) tại Việt Nam xét về mặt lý thuyết luôn bị xử lý rất nghiêm khắc1. Theo Điều 117 Luật Cạnh tranh năm 2004, các thoả thuận HCCT có THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 112 Số 2+3(378+379) T1/2019 thể bị xử phạt theo một trong hai hình thức: (i) Cảnh cáo và (ii) Phạt tiền. Mức phạt tiền đối với các thỏa thuận này có thể tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm2. Trên cơ sở đó, theo quy định của Nghị định số 71/2014/NĐ-CP, khi xử lý hành vi thỏa thuận sử dụng giá để HCCT, cơ quan xử lý vụ việc cần thiết phải tuân thủ 3 nội dung: Thứ nhất, mức phạt đối với hành vi không được vượt quá 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm; Thứ hai, tỷ lệ phần trăm trong mức phạt áp dụng đối với doanh nghiệp vi phạm không phải luôn xác định như nhau mà sẽ mang tính cá biệt hóa dựa vào thời gian mà mỗi doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận. Cụ thể, là tỷ lệ phần trăm doanh thu bán ra hoặc doanh số mua vào của hàng hóa, dịch vụ liên quan đến hành vi vi phạm trong thời gian thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp vi phạm. Thứ ba, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ được lượng hóa thành các con số cụ thể để xác định mức phạt. Theo đó, mỗi tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 85 của Nghị định số 116/2005/ NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, mức tiền phạt xác định theo quy định tại khoản 1 Điều này được điều chỉnh giảm hoặc tăng tương ứng 15%. Trong tương quan so sánh với pháp luật cạnh tranh của EU, cách tiếp cận của Nghị định số 71/2014/NĐ-CP khá tương đồng. Pháp luật cạnh tranh EU cũng quy định mức phạt tối đa lên đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp, nhưng họ có rất nhiều tiêu chí để giảm nhẹ mức phạt này. Theo đó, có 3 yếu tố cơ bản để lượng hoá mức phạt tiền đối với các vi phạm các quy 2 Khoản 1 Điều 118 Luật Cạnh tranh năm 2004. 3 European Commission, “Fines for breaking EU Competition Law”, nguồn: overview/factsheet_fines_en.pdf, truy cập ngày 06/10/2018. 4 UNCTAD, tlđd (12), tr. 73. định kiểm soát các thoả thuận HCCT mà EU quy định là lợi ích thu được từ thoả thuận HCCT, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, các tình tiết khác3. Mặc dù các tiêu chí để lượng hoá mức phạt tiền và tỷ trọng của các tiêu chí có sự khác biệt, nhưng xét về nguyên lý, Nghị định số 71/2014/NĐ-CP cũng tiếp cận giống như pháp luật của EU. Theo quy định của khoản 5 Điều 4 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP, “đối với mỗi tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 85 của Nghị định số 116/2005/ NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh, mức tiền phạt được điều chỉnh giảm hoặc tăng tương ứng 15%”. Tuy nhiên, trong tương quan so sánh với pháp luật của các nước khác, có hai điểm mà Nghị định số 71/2014/NĐ-CP chưa xử lý thoả đáng khi quy định nguyên tắc để lượng hoá mức phạt tiền đối với các vi phạm pháp luật kiểm soát thoả thuận HCCT. Thứ nhất, pháp luật Nhật Bản có cách tiếp cận hợp lý hơn khi phân loại các doanh nghiệp theo quy mô, lĩnh vực hoạt động để có mức phạt phù hợp. Theo đó, mức phạt đối với các doanh nghiệp sản xuất lớn có thể dao động từ 6% - 10%, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là 3% - 4%, các nhà phân phối từ 1% - 2%, các nhà bán lẻ thì dao động trong khoảng 1% - 1,2%4. Logic tiếp cận là dựa trên khả năng tác động đến cạnh tranh của doanh nghiệp tham gia các thoả thuận HCCT. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng gây HCCT sẽ thấp hơn so với các doanh nghiệp lớn. Do đó, mức phạt đối với các đối tượng này cũng sẽ khác nhau; Thứ hai, Nghị định số 71/2014/NĐ- CP chưa đề cập đến khả năng nộp phạt của doanh nghiệp vi phạm các quy định về kiểm soát các thoả thuận HCCT. Theo quy định của pháp luật cạnh tranh của EU thì các doanh nghiệp vi phạm nhưng không có khả THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 113Số 2+3(378+379) T1/2019 năng nộp phạt sẽ được cân nhắc để giảm mức phạt5. Theo quy định của khoản 2 Điều 110 Luật Cạnh tranh năm 2018, các thoả thuận HCCT cũng sẽ bị xử phạt theo một trong hai hình thức là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Tuy nhiên, việc phạt tiền trong Luật Cạnh tranh năm 2018 có sự khác biệt so với quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004. Theo quy định của khoản 1 Điều 111 Luật Cạnh tranh năm 2018, mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận HCCT là 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng thấp hơn mức phạt tiền thấp nhất đối với các hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS). Như vậy, ngoài mức tối đa 10% tổng doanh thu của năm liền kề trước đó, các thoả thuận HCCT còn bị khống chế ở mức thấp hơn mức phạt tiền thấp nhất đối với các hành vi vi phạm được quy định trong BLHS. Theo quy định của khoản 4 Điều 217 BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, các pháp nhân thương mại vi phạm các quy định về cạnh tranh sẽ chịu một trong các hình thức chế tài sau đây: a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm; c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. 5 European Commission, “Fines for breaking EU Competition Law”, nguồn tại: overview/factsheet_fines_en.pdf, truy cập ngày 06/10/2018. Có thể tóm tắt mức phạt tiền đối với các TTSDG để HCCT mà BLHS quy định như sau: Khung hình phạt tiền Mức thấp nhất 1.000.000.000 - 5.000.000.000 1.000.000.000 3.000.000.000 - 5.000.000.000 3.000.000.000 100.000.000 - 500.000.000 100.000.000 Trên cơ sở phân tích ở trên đây, mức phạt tiền tối đa mà các doanh nghiệp khi thực hiện các TTSDG để HCCT được giới hạn ở mức trần tối đa là 3.000.000.000 đồng. Nếu doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện của điểm a và điểm c khoản 4 Điều 217 BLHS thì mức trần này còn được giới hạn ở mức thấp hơn, lần lượt là 1.000.000.000 đồng hoặc 100.000.000 đồng. Như vậy, trong tương quan so sánh với Luật Cạnh tranh năm 2004, mức phạt tiền được áp dụng đối với các TTSDG để HCCT xét về mặt lý thuyết là thấp hơn nhiều. Để bù đắp cho mức giảm của khung phạt tiền, ngoài các hình thức phạt bổ sung được quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2018, BLHS cũng đã có bổ sung hai điểm quan trọng sau đây: Thứ nhất, đối với các pháp nhân thương mại, ngoài hình phạt tiền thì các doanh nghiệp tham gia vào các TTSDG để HCCT còn có thể phải đối diện với việc phải đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm (điểm b khoản 4 Điều 217 BLHS) hoặc bị cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm (điểm c khoản 4 Điều 217 BLHS). THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 114 Số 2+3(378+379) T1/2019 Thứ hai, đối với các cá nhân có liên quan, mà chủ yếu là người quản lý doanh nghiệp trong các TTSDG để HCCT, theo quy định của BLHS cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo đó, các cá nhân này có thể bị phạt tiền cao nhất đến 3.000.000.000 đồng, bị phạt tù cao nhất đến 5 năm và các hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc hành nghề trong một khoảng thời gian nhất định (khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 217 BLHS). 2. Một số hạn chế của Luật Cạnh tranh năm 2018 Phân tích quy định xử lý vi phạm về thoả thuận HCCT cho thấy, Luật Cạnh tranh năm 2018 vẫn còn một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện sau đây: Thứ nhất, mức phạt tiền đối với các vi phạm. Theo báo cáo của Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam, năm 2017, mức doanh thu của 5 ngành có doanh thu lớn nhất Việt Nam dao động từ 500.000 tỷ đến hơn 900.000 tỷ đồng6. Nếu đối chiếu với quy định của Luật Cạnh tranh 2018 về mức phạt đối với các vi phạm cho thấy, mức này không đủ để tạo nên sự răn đe. Mức phạt đối với các thoả thuận HCCT nó không chỉ mang ý nghĩa trừng phạt các hành vi vi phạm pháp luật mà quan trọng hơn nó còn thể hiện tính răn đe của pháp luật đối với các vi phạm tiềm năng. Thực tế, nếu một công ty có thể xác định trước số tiền phạt sẽ được áp dụng đối với bất kỳ hành vi vi phạm nào đó, thì có thể đưa ra quyết định hợp lý về việc có tham gia vào cartel hay không7. Nhìn chung, các nước trên thế giới khi xác định mức phạt đối với các thoả thuận 6 Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam, “Bảng xếp hạng VNR500”, nguồn tại: bo-Bang-xep-hang-VNR500-%E2%80%93-Top-500-Doanh-nghiep-lon-nhat-Viet-Nam-nam-2017-7504-1006.html, truy cập ngày 20/8/2018 7 International Competition Network (2017), “Setting of fines for cartels in ICN jurisdictions”, tr. 15, nguồn tại: http:// www.internationalcompetitionnetwork.org/uploads/library/doc1127.pdf, truy cập ngày 22/10/2018 8 International Competition Network, “Setting of fines for cartels in ICN jurisdictions”, nguồn tại: tionalcompetitionnetwork.org/uploads/library/doc1127.pdf, truy cập ngày 22/10/2018 HCCT nói chung và TTSDG để HCCT nói riêng luôn dựa vào doanh thu của các doanh nghiệp chứ không xác định mức phạt bằng một số tiền cụ thể như quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018 và BLHS năm 2015. Tuy nhiên, tùy vào các yếu tố liên quan khác, pháp luật các nước có thể có những quy định khác nhau liên quan đến mức doanh thu mà doanh nghiệp thu được trong quá trình tiến hành các thoả thuận HCCT bị cấm. Bởi lẽ, một doanh nghiệp có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực và doanh nghiệp này chỉ tham gia các thoả thuận HCCT trong một ngành nghề nào đó. Việc cơ quan cạnh tranh xử phạt mà không quan tâm đến khía cạnh này, trong nhiều trường hợp, sẽ là bất công đối với doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó, khái niệm “sản phẩm có liên quan” được pháp luật các nước sử dụng như là một yếu tố bổ trợ cho việc xác định tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm. Ngoài yếu tố “sản phẩm có liên quan”, pháp luật cạnh tranh các nước còn sử dụng yếu tố giá trị bán hàng có liên quan đến vi phạm hoặc khối lượng thương mại bị ảnh hưởng làm cơ sở để xác định mức doanh thu của doanh nghiệp. Khi đã xác định được doanh thu của doanh nghiệp có liên quan, việc xác định mức phạt luôn được các doanh nghiệp xác định dựa vào tỷ lệ phần trăm nhất định. Thông thường, mức phạt sẽ được ấn định tối đa là 10% tổng doanh của hàng hoá, dịch vụ có liên quan trong khoảng thời gian mà doanh nghiệp tiến hành các thoả thuận HCCT. Thông thường, xuất phát điểm để xác định tiền phạt sẽ là một tỷ lệ phần trăm của phép tính này. Lý do cơ bản đằng sau tỷ lệ phần trăm được chọn thường là một túc số cho lợi nhuận vượt quá mà các doanh nghiệp thoả thuận HCCT đạt được8. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 115Số 2+3(378+379) T1/2019 Xét ở góc độ này, rõ ràng Nghị định số 71/2014/NĐ-CP đã thực hiện rất tốt vai trò của mình trong việc xác định các tiêu chí để lượng hoá mức phạt đối với các hành vi HCCT nói chung và thoả thuận HCCT nói riêng. Theo quy định của khoản 1 Điều 4 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP, “tiền phạt đối với hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi HCCT được xác định theo tỷ lệ phần trăm doanh thu bán ra hoặc doanh số mua vào của hàng hóa, dịch vụ liên quan đến hành vi vi phạm trong thời gian thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp vi phạm”. Như vậy, quy định này cũng coi yếu tố hàng hoá, dịch vụ liên quan và thời gian thực hiện hành vi vi phạm làm tiêu chí để xác định mức doanh thu của doanh nghiệp, qua đó tạo cơ sở để xác định mức phạt đối với doanh nghiệp vi phạm. Thứ hai, tương quan giữa các biện pháp xử lý vi phạm. So sánh với pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ, với các vi phạm về kiểm soát các thoả thuận HCCT, đối tượng vi phạm sẽ bị phạt khoản tiền lên đến 100.000.000 USD đối với doanh nghiệp, 1.000.000 USD đối với cá nhân cùng với hình phạt tù lên đến 10 năm9. Đồng thời doanh nghiệp còn phải bồi thường gấp 3 lần thiệt hại khi các cá nhân hoặc các bên có liên quan khởi kiện yêu cầu bồi thường10. Trong khi đó, ở các quốc gia khác như Nhật Bản, Canada, Pháp thì biện pháp phạt tiền mang tính hành chính sẽ lên đến mức 10% tổng doanh thu của năm liền kề trước đó. Ngoài ra, có thể phạt tiền bằng pháp luật hình sự và áp dụng bồi thường trong các vụ kiện dân sự. Như vậy, cách tiếp cận về xử lý vi phạm trong pháp luật cạnh tranh của Hoa Kỳ và các nước có sự khác biệt. Trong khi pháp luật cạnh tranh các nước Nhật Bản, Canada, Pháp quy định mức phạt 10% doanh thu của 9 U.S. FTC, “The Antitrust Laws”, nguồn tại: https://www.ftc.gov/tips-advice/competition-guidance/guide-anti- trust-laws/antitrust-laws, truy cập ngày 6/12/2018 10 UNCTAD, “Appropriate sanctions and remedies”, nguồn tại: https://unctad.org/en/Docs/tdrbpconf7d5_en.pdf, truy cập ngày 6/12/2018 năm liền kề, thì pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ ấn định mức phạt tiền ở mức 100.000.000 USD đối với doanh nghiệp nhưng họ lại chú trọng đến việc bồi thường các tổn thất mà người dùng và các bên liên quan phải gánh chịu thông qua việc thừa nhận mức bồi thường gấp 3 lần thiệt hại thực tế. Phân tích trên cho thấy, dù doanh nghiệp phải nộp phạt lên đến 10% tổng doanh thu của năm liền kề vào ngân sách nhà nước hay phải bồi thường gấp 3 lần thiệt hại thực tế cho các bên liên quan thì xét đến cùng, doanh nghiệp cũng phải trả giá về tài chính rất nặng nề cho các vi phạm quy định của pháp luật về kiểm soát các thoả thuận HCCT. Trong khi đó, mặc dù Luật Cạnh tranh năm 2018 đã bổ sung quy định về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các vi phạm về kiểm soát thoả thuận HCCT, nhưng Luật chưa xác định được cách tiếp cận hợp lý khi xử lý mối quan hệ giữa việc xử phạt hành chính và phạt tiền trong pháp luật hình sự khi kiểm soát các thoả thuận HCCT. Hệ quả là, nếu kết hợp cả quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018 và BLHS năm 2015 sẽ cho ra tổng số mức phạt tiền hành chính và mức phạt tiền trong pháp luật hình sự là khá thấp. Điều này không đảm bảo tính răn đe và trừng phạt đối với các thoả thuận HCCT. Thứ ba, chính sách khoan hồng. Luật Cạnh tranh năm 2018 đã bổ sung chính sách khoan hồng vào pháp luật cạnh tranh, qua đó tạo nên một công cụ hữu hiệu để chống lại các thoả thuận HCCT. Chính sách khoan hồng cho phép Nhà nước miễn trừ trách nhiệm đối với bên tham gia thỏa thuận HCCT nhưng chủ động khai báo, cung cấp thông tin, tài liệu hay chứng cứ chứng minh hành vi thỏa thuận và có sự hợp tác với cơ quan điều tra trong suốt quá trình THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 116 Số 2+3(378+379) T1/2019 điều tra. Đây là một công cụ hữu hiệu để cơ quan cạnh tranh phát hiện và xử lý các thỏa thuận HCCT trong tương lai, khi Luật Cạnh tranh có hiệu lực11. Tuy nhiên, xét tổng thể, chính sách này vẫn còn điểm chưa hợp lý. Theo quy định của Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018, chính sách khoan hồng chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp mà không áp dụng đối với cá nhân. Điều này tạo nên hạn chế không đáng có cho việc phát huy vai trò của chính sách khoan hồng. Trong bối cảnh của môi trường kinh doanh Việt Nam, tính liên kết “buôn có bạn, bán có phường” cao sẽ ngăn cản các doanh nghiệp tố cáo nhau. Chính vì lẽ đó, việc có được chứng cứ từ những người quản lý doanh nghiệp, xét về mặt logic, là một một nhu cầu có thật. 3. Một số kiến nghị đối với biện pháp chế tài Có thể thấy rằng, Luật Cạnh tranh năm 2018 đã đem lại những đột phá trong cách tiếp cận vấn đề quản lý hành vi thỏa thuận HCCT. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đề ra, pháp luật cạnh tranh vẫn cần phải được tiếp tục hoàn thiện và cân nhắc những giải pháp mang tính hiệu quả cao để kiểm soát những hành vi thỏa thuận HCCT có tác động tiêu cực tới sự phát triển của thị trường và lợi ích của người tiêu dùng. Căn cứ trên những phân tích về các biện pháp chế tài và kinh nghiệm quốc tế, chúng tôi cho rằng, Nhà nước cần tập trung nâng cao hơn nữa khung hình phạt đối với các hành vi thỏa thuận HCCT cũng như hoàn thiện hơn cơ chế khoan hồng để phá thỏa thuận ngầm của các cartel. Thứ nhất, nâng cao mức phạt đối với vi phạm. Trong tương quan với quy định của Luật Cạnh tranh năm 2018, mức phạt quy định trong Điều 217 BLHS năm 2015 áp dụng đối với các thoả thuận HCCT là quá thấp. Vì vậy, cần phải sửa đổi quy định về mức phạt đối với các thoả thuận HCCT. Theo đó, có thể áp dụng một trong hai phương án. 11 Luật Cạnh tranh được Quốc hội ban hành ngày 12/6/2018 và có hiệu lực ngày từ ngày 01/7/2019. - Phương án thứ nhất, sửa khoản 1 Điều 111 Luật Cạnh tranh năm 2018. Cụ thể: “Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận HCCT, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền là 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp có hành vi vi phạm trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm”. - Phương án thứ hai, sửa Điều 217 BLHS theo hướng hoặc loại bỏ các quy định về mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hoặc trong trường hợp dẫn chiếu ngược trở lại quy định mức phạt tiền trong Luật Cạnh tranh năm 2018. Theo chúng tôi, phương án thứ nhất có ưu thế hơn. Bởi lẽ, mức phạt tiền là một trong các quy định quan trọng trong việc kiểm soát các thoả thuận HCCT. Xét về khía cạnh thực tiễn lập pháp Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực thi pháp luật sẽ là cơ quan được giao nhiệm vụ làm dự thảo luật hoặc sẽ là cơ quan tham gia sâu vào quá trình xây dựng hoặc sửa đổi luật. Nhìn từ góc độ đó, việc sửa đổi Luật Cạnh tranh năm 2018 sẽ khả thi và hiệu quả hơn so với việc sửa đổi BLHS. Đồng thời, để lượng hoá mức phạt đối với các thoả thuận HCCT, cần có những hướng dẫn thi hành. Nếu lựa chọn phương án 2, khâu hướng dẫn thi hành sẽ khó khăn hơn. Thứ hai, chính sách khoan hồng. Như trên đã phân tích, việc chính sách khoan hồng không áp dụng đối với các cá nhân là một bất cập. Để gia tăng khả năng thành công trong các vụ việc về thoả thuận HCCT, nên bổ sung việc áp dụng chính sách khoan hồng đối với các cá nhân có liên quan. Vì vậy, cần sửa đổi Điều 112 Luật Cạnh tranh năm 2018 theo hướng: “cá nhân có liên quan đến việc hình thành, thúc đẩy, thực hiện các thoả thuận HCCT nếu thoả mãn các điều kiện tại khoản 3 Điều này có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc giảm hình phạt”■ THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 117Số 2+3(378+379) T1/2019
File đính kèm:
- xu_ly_vi_pham_doi_voi_cac_thoa_thuan_han_che_canh_tranh.pdf