Xây dựng và phát triển vốn tài liệu của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc

Với mục đích khai thác thuộc địa, bên

cạnh các lĩnh vực khai khoáng, công nghiệp

dệt, khai thác các sản vật nhiệt đới, giao

thông công chính, chính quyền thuộc địa

Pháp đã xây dựng một mạng lưới các thư

viện ở Đông Dương, đặc biệt ở Việt Nam,

nhằm truyền bá văn hóa Pháp và phục vụ

người Pháp làm việc trong các cơ quan của

chính quyền thuộc địa và một số đối tượng

người đọc bản xứ. Xây dựng và phát triển

vốn tài liệu là một trong những hoạt động

có vai trò nhất định trong sự phát triển của

thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Với

mong muốn cung cấp thêm thông tin về

toàn bộ hoạt động của các thư viện Việt

Nam thời kỳ Pháp thuộc, bài viết giới thiệu

với bạn đọc một số kết quả khảo cứu và

đánh giá về xây dựng và phát triển vốn

tài liệu- một hoạt động quan trọng của thư

viện Việt Nam thời kỳ này.

pdf 6 trang kimcuc 5700
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng và phát triển vốn tài liệu của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng và phát triển vốn tài liệu của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc

Xây dựng và phát triển vốn tài liệu của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
LỊCH SỬ THƯ VIỆN
32 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
TS Lê Thanh Huyền
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN 
VỐN TÀI LIỆU CỦA THƯ VIỆN VIỆT NAM 
THỜI KỲ PHÁP THUỘC
Mở đầu
Với mục đích khai thác thuộc địa, bên 
cạnh các lĩnh vực khai khoáng, công nghiệp 
dệt, khai thác các sản vật nhiệt đới, giao 
thông công chính, chính quyền thuộc địa 
Pháp đã xây dựng một mạng lưới các thư 
viện ở Đông Dương, đặc biệt ở Việt Nam, 
nhằm truyền bá văn hóa Pháp và phục vụ 
người Pháp làm việc trong các cơ quan của 
chính quyền thuộc địa và một số đối tượng 
người đọc bản xứ. Xây dựng và phát triển 
vốn tài liệu là một trong những hoạt động 
có vai trò nhất định trong sự phát triển của 
thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Với 
mong muốn cung cấp thêm thông tin về 
toàn bộ hoạt động của các thư viện Việt 
Nam thời kỳ Pháp thuộc, bài viết giới thiệu 
với bạn đọc một số kết quả khảo cứu và 
đánh giá về xây dựng và phát triển vốn 
tài liệu- một hoạt động quan trọng của thư 
viện Việt Nam thời kỳ này.
1. Cơ cấu vốn tài liệu
Trước khi thành lập Nha Lưu trữ và Thư 
viện Đông Dương vào năm 1917, việc xây 
dựng và phát triển vốn tài liệu thời kỳ này 
chủ yếu được lực lượng hải quân, một số 
Bộ trưởng và Thống đốc có quan tâm nhất 
định đến công tác thư viện ở Đông Dương 
thực hiện.
Một số thư viện đại chúng được thành 
lập giai đoạn đầu có số vốn tài liệu nhỏ 
do kinh phí hạn hẹp. Hai thư viện có vốn 
sách khá phong phú là Thư viện Sài Gòn 
và Thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ. 
Thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ có số 
vốn tài liệu là 50.000 bản, tập hợp những 
bộ sưu tập độc nhất trên thế giới với nhiều 
tài liệu về Hán học, trong đó có nhiều tác 
phẩm bằng chữ Trung Quốc, Nhật Bản, 
Pali,... và nhiều bản thảo chép tay có giá 
trị. Do đó, cùng với việc thực hiện các hoạt 
động khoa học, Trường Viễn Đông Bác cổ 
đã xây dựng thư viện ngay từ khi mới thành 
lập và coi việc phát triển thư viện là một 
nhiệm vụ chính của mình (Điều 3, Sắc lệnh 
ngày 26/2/1901 của Tổng thống Pháp [4]). 
Số lượng sách của Thư viện tăng trưởng 
không ngừng nhờ các nguồn sách chuyển 
đến từ Paris, Viện Hàn lâm Văn khắc và 
Văn chương, do Trường Viễn Đông Bác cổ 
xuất bản, do các thành viên của Thư viện 
Trường Viễn Đông Bác cổ sưu tầm tại các 
nước thuộc vùng Viễn Đông, Đông Nam Á, 
Trung Quốc, Ấn Độ và mua bằng tiền ngân 
LỊCH SỬ THƯ VIỆN
33THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
sách Đông Dương. Ngoài ra, nguồn bổ 
sung tài liệu của Trường Viễn Đông Bác cổ 
còn từ việc trao đổi qua lại với các thư viện, 
các trường đại học và các tổ chức khoa học 
trên thế giới. 
Nhìn chung, vốn tài liệu của các thư viện 
trước năm 1917 ít về số lượng và chủng 
loại. Nguồn bổ sung tài liệu chủ yếu từ sưu 
tầm trong và ngoài nước. Chưa có chính 
sách và diện bổ sung cụ thể cho từng loại 
thư viện do chưa có một cơ quan quản lý 
nhà nước có thẩm quyền điều hành hoạt 
động của mạng lưới thư viện.
Từ năm 1917, vốn tài liệu của các thư 
viện thời kỳ này được bổ sung từ nhiều 
nguồn khác nhau. Thư viện Trung ương 
Đông Dương và Thư viện Sài Gòn dù có 
cách tổ chức và hoạt động tương đồng 
nhưng không có nguồn bổ sung giống 
nhau vì thuộc các cơ quan chủ quản khác 
nhau. Thư viện Trung ương Đông Dương 
có nguồn bổ sung từ việc mua đều đặn, 
từ Phủ Toàn quyền và các công sở, nguồn 
tặng biếu và đặc biệt là nguồn nộp lưu 
chiểu. Các thư viện được thành lập ở một 
số tỉnh (Huế, Hải Phòng, Bắc Ninh), vốn 
tài chủ yếu dựa vào nguồn mua, kinh phí 
hoạt động từ ngân sách của địa phương.
Vốn tài liệu của các thư viện được bổ 
sung chủ yếu có nội dung liên quan đến 
Đông Dương. Bên cạnh đó là các tư liệu 
quý hiếm bằng tiếng Anh và Pháp về 
những vấn đề xã hội của Mỹ và Nhật Bản, 
Viễn Đông, Ấn Độ, Trung Quốc, vấn đề 
thuộc địa và hòa bình thế giới và các loại 
từ điển, luật.
Thư viện Trung ương Đông Dương và 
Thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ là hai 
thư viện có vốn tài liệu phong phú nhất, đặc 
biệt là những tài liệu về Viễn Đông: chỉ dẫn 
về ngôn ngữ học Đông Dương, thư mục 
thực vật châu Á, điêu khắc Ấn Độ, Trung 
Quốc, các bản sách chép tay từ năm 1875.
Vốn tài liệu của các thư viện tiếp tục 
được bổ sung thường xuyên và cập nhật 
những thay đổi của tư tưởng hiện đại, 
những tài liệu quí có nội dung tổng hợp 
(Bách khoa thư về y học, nghệ thuật của 
Pháp, từ điển kỹ thuật). Với việc bổ sung 
bằng kinh phí ưu tiên cũng như một số 
nguồn khác, chính quyền thuộc địa tham 
vọng xây dựng Thư viện Trung ương Đông 
Dương trở thành một thư viện bách khoa.
Tuy nhiên, do bị chi phối bởi chính sách 
thuộc địa, việc bổ sung vốn tài liệu của các 
thư viện thời kỳ này không cân đối. Ví dụ: 
Thư viện Trung ương Đông Dương có sự 
chênh lệch lớn về thành phần vốn tài liệu 
giữa các lĩnh vực khoa học. Sách văn học 
chiếm tỷ lệ cao nhất (gần 50% vốn sách). 
Hàng năm, tỉ lệ bổ sung giữa các lĩnh vực 
tương tự như nhau thể hiện rõ mục đích 
của chính quyền thuộc địa trong việc gây 
ảnh hưởng văn hóa, kích thích nhu cầu giải 
trí, không quan tâm nhiều đến phát triển 
khoa học kỹ thuật (Bảng 1).
LỊCH SỬ THƯ VIỆN
34 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
2. Phương thức bổ sung
Vốn tài liệu của các thư viện được bổ 
sung bằng phương thức phải trả tiền và 
không phải trả tiền (bao gồm biếu tặng, 
cung cấp hành chính, trao đổi). Riêng Thư 
viện Trung ương Đông Dương có thêm 
phương thức bổ sung là nhận lưu chiểu.
- Phương thức phải trả tiền 
Phương thức này được thực hiện thông 
qua việc trực tiếp đặt mua sách tại các nhà 
sách ở địa phương hoặc đặt mua tại nước 
ngoài qua danh mục của các nhà sách. 
- Phương thức không phải trả tiền
+ Cung cấp hành chính và biếu tặng: 
được thực hiện từ các cơ quan hành chính 
địa phương và các văn phòng lớn về sách;
+ Trao đổi: được thực hiện giữa các thư 
viện hoặc giữa thư viện với các nhà khoa 
học và các trường đại học. Nha Lưu trữ và 
Thư viện Đông Dương thường xuyên thực 
hiện việc trao đổi sách và ấn phẩm định kỳ 
với các cơ quan ở Đông Dương như Phủ 
Khâm sứ Trung Kỳ, Phủ thống sứ Lào, Phủ 
Thống đốc - Toàn quyền Nam Kỳ, Ban hoạt 
động kinh tế của Phủ Toàn quyền Đông 
Dương, Trường Trung học bổ túc Vinh. 
- Phương thức lưu chiểu
Trước khi Thư viện Trung ương Đông 
Dương ra đời (1917), chế độ lưu chiểu chưa 
được quy định rõ ràng. Trường Viễn Đông 
Bảng 1. Thống kê so sánh tỉ lệ các lĩnh vực trong vốn tài liệu tại Thư viện 
Trung ương Đông dương (Nguồn: [9])
Các chủ đề
1940-1941 1941-1942
Số lượng (cuốn) Tỷ lệ % Số lượng (cuốn) Tỷ lệ %
Văn học 45.250 46,65 53.489 49,44
Ấn phẩm định kỳ 7. 962 8,2 7.642 7,06
Triết học 6.581 6,78 7.049 6,51
Toán học 6.067 6,25 6.733 6,22
Khoa học 6.065 6,25 6.074 5,62
Luật 5.879 6,06 6.123 5,65
Ngữ văn học 2.170 2,23 2.091 1,96
Thể thao 2.143 2,23 2.744 2,56
Địa lý 2.137 2,23 2.213 2,04
Tiểu sử 2.013 2,07 2.137 1,97
Thời sự 1.911 1,97 1.784 1,63
Viễn Đông 1.824 1,89 2.084 1,93
Lịch sử 1.482 1,52 1.585 1,46
Nghệ thuật 1.331 1,37 1.678 1,55
Giáo dục học, du lịch, tôn 
giáo, nông nghiệp và vệ 
sinh
4.182 4,30 4.762 4,40
Tổng cộng: 96.997 108.188
LỊCH SỬ THƯ VIỆN
35THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
Bảng 2. Số lượng sách lưu chiểu trên toàn Đông Dương từ 1928 đến 1935 (Nguồn: [6])
Năm 1928 1929 1930 1931 1932 1933 1934 1935 1937 1938 1939
Số bản 
gửi
lưu chiểu
1272 1070 861 751 995 804 852 1069 944 903 846
Bác cổ được nhận lưu chiểu từ các nhà 
xuất bản ở Đông Dương dựa vào Thông 
tư ngày 3/7/1900 của Toàn quyền Đông 
Dương Paul Doumer [4].
Ngày 31/1/1922, Toàn quyền Đông 
Dương đã ban hành chính sách mới về lưu 
chiểu, quy định tập trung quản lý công tác 
lưu chiểu về Nha Lưu trữ và Thư viện Đông 
Dương. Chế độ lưu chiểu ở Đông Dương 
được soạn thảo trên cơ sở Luật Báo chí 
(29/7/1881), theo đó, Nha Lưu trữ và Thư 
viện Đông Dương chịu trách nhiệm:
+ Chuyển mỗi xuất bản phẩm một bản 
tới Bộ Nội vụ và Thư viện Quốc gia Pháp;
+ Gửi số bản còn lại tại Thư viện Trung 
ương Đông Dương;
+ Soạn thảo danh mục các xuất bản 
phẩm lưu chiểu và gửi đăng trên Công 
báo Đông Dương (Journal officiel de 
l’Indochine).
Từ năm 1922, Thư viện Trung ương 
Đông Dương chịu trách nhiệm bảo quản 
tất cả các sách tiếng Pháp và Đông Dương 
công bố ở các nước thuộc địa và gửi lưu 
chiểu các xuất bản phẩm này đến Thư viện 
Quốc gia Pháp.
Thư viện Trung ương Đông Dương 
là thư viện duy nhất trong mạng lưới thư 
viện ở Đông Dương được quyền nhận lưu 
chiểu các xuất bản phẩm xuất bản ở Đông 
Dương, làm nên sự khác biệt của Thư viện 
Trung ương Đông Dương với các thư viện 
cùng thời kỳ. Điều đó đảm bảo vốn tài liệu 
tăng trưởng một cách ổn định, lâu dài và 
phong phú về thể loại, góp phần đưa Thư 
viện Trung ương Đông Dương trở thành 
một thư viện lớn và quan trọng nhất của 
Đông Dương thời kỳ này. 
Từ năm 1928 đến 1935, số lượng sách 
lưu chiểu trên toàn Đông Dương tăng đáng 
kể (Bảng 2). Các báo cáo của Nha Lưu trữ 
và Thư viện Đông Dương không thể hiện 
con số lưu chiểu của Lào gửi đến Thư viện 
Trung ương Đông Dương cho thấy hoạt 
động in ấn trên đất nước này không được 
quan tâm. Trong đó, số lượng sách gửi lưu 
chiểu của Việt Nam vẫn chiếm số lượng 
lớn nhất trong các nước Đông Dương (luôn 
chiếm từ 94% đến 96% tổng số sách lưu 
chiểu). Việc mất cân đối giữa các vùng 
miền còn thể hiện ở ba kỳ của Việt Nam. 
Số lượng sách lưu chiểu ở Nam Kỳ và đặc 
biệt là Bắc Kỳ luôn lớn hơn so với ở Trung 
Kỳ. Cụ thể, trong một số năm nghiên cứu 
(1934-1939), dù tổng số lượng sách lưu 
chiểu trên toàn Đông Dương biến động 
nhiều nhưng tỷ lệ sách lưu chiểu ở Bắc Kỳ 
so với tổng số sách lưu chiểu tăng liên tục 
từ 47% (1934) lên 55% (1939). Trong khi 
đó, dù cũng chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng 
số sách lưu chiểu ở Đông Dương, nhưng tỷ 
lệ sách lưu chiểu của Nam Kỳ liên tục giảm 
từ 43% (1934) xuống 35% (1939). Có thể 
cho rằng, việc ra đời của Nha lưu trữ và 
Thư viện Đông Dương đặt tại Hà Nội (Bắc 
Kỳ) đã chứng tỏ vai trò của mình trong hoạt 
động lưu chiểu ở toàn Đông Dương.
LỊCH SỬ THƯ VIỆN
36 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
Với các phương thức bổ sung khác nhau, 
các thư viện thời kỳ Pháp thuộc đã xây 
dựng được vốn tài liệu tương đối lớn, tiêu 
biểu là Thư viện Trung ương Đông Dương, 
Thư viện Sài Sòn và Thư viện Trường Viễn 
Đông Bác cổ (Bảng 3).
Bảng 3. Vốn tài liệu của Thư viện 
Trung ương Đông Dương và Thư viện Sài 
Gòn - Nguồn [7, 8] (Đơn vị: Bản)
Năm Thư viện Trung ương Đông Dương
Thư viện 
Sài Gòn
1920 11.228
1921 14.501
1922 16.614
1923 18.704 7.640
1924 22.886 8.963
1925 27.933 10.091
1926 32.546 11.438
1927 35.798 13.422
1928 40.447 15.741
1929 46.508 25.934
1930 52.218 27.444
1931 55.989 28.722
1932 60.375 29.722
1933 64.022 30.233
1934 69.144 30.520
1935 73.436 32.554
1936 78.073 33.286
1937 83.067 34.461
1938 88.152 38.422
1939 92.613 41.794
1940 98.173 44.209
1941 101.643 45.376
1942 104.440 47.259
1943 108.921 48.164
Tổng số vốn tài liệu của Thư viện Trung 
ương Đông Dương có tốc độ tăng nhanh, 
liên tục trong giai đoạn 1920 - 1940. Nếu 
như năm 1920, tổng số vốn tài liệu của 
Thư viện Trung ương Đông Dương chỉ là 
hơn 10.000 cuốn thì đến năm 1940 số vốn 
này đã tăng gấp gần 10 lần (gần 100.000 
cuốn). Trong những năm đầu của giai 
đoạn 1920 - 1940, tổng số vốn tài liệu của 
Thư viện Trung ương Đông Dương có tốc 
độ tăng đặc biệt nhanh. Tổng số vốn tài 
liệu này tăng gấp hai lần trong 4 năm (từ 
1920 - 1924). Sau đó chỉ cần 3 năm tiếp 
theo, đến 1927, tổng số vốn tài liệu này đã 
tăng gấp 3, 4 lần (từ 1927 đến 1930) so 
với số lượng ban đầu. Sau đó, tốc độ tăng 
trưởng vốn tài liệu vẫn tăng, tuy nhiên do 
gặp những vấn đề về khủng khoảng kinh 
tế nên không còn giữ được nhịp độ như 
trước. Nhìn chung, trong 20 năm (từ 1920 - 
1940), trung bình mỗi năm Thư viện Trung 
ương Đông Dương bổ sung khoảng 4.000 
cuốn vào vốn tài liệu của mình.
Thực dân Pháp xây dựng một nền kinh 
tế thuộc địa mất cân đối trong các ngành, 
các lĩnh vực và mất cân đối cả phạm vi 
vùng miền. Trung Kỳ không được chính 
quyền thuộc địa quan tâm. Kinh phí dành 
cho phát triển vốn tài liệu và cơ sở vật chất 
của thư viện Trung Kỳ không được ưu tiên 
như Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Cho đến năm 
1943, vốn tài liệu của Thư viện Trung ương 
Đông Dương đã đạt đến 108.921 bản, thư 
viện Sài Gòn là 48.164 bản, trong khi vốn 
tài liệu của Thư viện Trung Kỳ mới đạt con 
số 4.156 bản [7, 8].
Trong số các thư viện thời kỳ này, Thư 
viện Trường Viễn Đông Bác cổ là thư viện 
có vốn tài liệu tương đối lớn. Theo Malleret, 
trong vòng 50 năm, Thư Viện đã có 85.000 
cuốn sách, 5.700 bản chép tay Đông 
Phương, trong số này 3.500 bản bằng tiếng 
Việt và 516 bản gốc chữ châu Âu. Viện 
cũng có phông bản rập bia Chàm, Khơme, 
Lào, Việt Nam và Trung Hoa khoảng 
25.000, 132 bằng phong thần cùng với các 
bản sao xếp thành 457 tập. Thư viện cũng 
thu thập được 800 chú dẫn, câu hỏi điều 
tra về truyền thuyết về các vị thần, các 
địa phương, các điền bạ (des registres de 
rizières), các hương ước (coutumiers) và 
quy chế xã thôn (règlements communaux). 
Ngoài ra, Thư viện còn có một sưu tập ảnh 
với hơn 25.000 ghi chép ảnh..." [3].
Tính đến năm 1945, tư liệu của Trường 
Viễn Đông Bác cổ gồm 36.000 tác phẩm 
bằng ngôn ngữ châu Âu, hơn 1.000 tác 
phẩm bằng tiếng Việt, 2.000 bản đồ, hơn 
7.000 ảnh; các bản viết tay bao gồm: 
LỊCH SỬ THƯ VIỆN
37THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
33.000 bản bằng chữ Hán, 4.000 bản bằng 
chữ Nôm và 10.000 bản chữ Nhật; 25.000 
bản văn khắc, gần 9.000 bản Hương ước 
bằng chữ Việt và chữ Hán, các xuất bản 
thường kỳ được để lại Hà Nội, đặc biệt là 
các báo xuất bản từ đầu thế kỷ trên toàn 
Đông Dương [4].
Thư viện Hải học viện - Nha Trang (nay 
là Viện Hải dương học Nha Trang) lưu 
giữ 8.000 cuốn sách, trong đó có khoảng 
1.000 cuốn sách tổng quát và những phác 
trình về các cuộc thám hiểm ở đại dương 
của Challenger, Siboga, Vladivia, Prince 
de Monaco, Khoảng 260 loại tập san có 
được xuất bản từ khoảng đầu thế kỷ XX. 
Thư viện có hoạt động trao đổi ấn phẩm 
với 230 cơ quan khoa học quốc tế; Thư 
viện cũng đảm nhiệm việc xuất bản các ấn 
phẩm của Viện. Thư viện lưu giữ nhiều tài 
liệu quý giá độc nhất về tình hình hải học ở 
Đông Dương thời kỳ đó [2].
Thư viện của Đại học Đông Dương Hà 
Nội có 14.000 cuốn. Thư viện trường Đại 
học Y - Dược Hà Nội có 5.000 cuốn sách. 
Vốn tài liệu này dành phục vụ công tác 
nghiên cứu và học tập của giáo sư và sinh 
viên năm thứ năm [1].
3. Một số đánh giá về xây dựng và 
phát triển vốn tài liệu ở Việt Nam thời kỳ 
Pháp thuộc
Với ảnh hưởng của thư viện học phương 
Tây và Pháp, vốn tài liệu của các thư viện 
Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc đã trở thành 
một công cụ quan trọng gây ảnh hưởng 
văn hóa Pháp vào Đông Dương và Việt 
Nam. Thành phần vốn tài liệu chủ yếu tập 
trung vào những lĩnh vực phục vụ cho công 
cuộc khai thác thuộc địa của Pháp. 
Mặc dù mất cân đối trong thành phần 
vốn tài liệu nhưng nhìn chung, hoạt động 
xây dựng và phát triển vốn tài liệu đã được 
chú trọng trong các thư viện thời Pháp 
thuộc. Với các phương thức bổ sung đa 
dạng, đặc biệt là phương thức bổ sung tài 
liệu qua chế độ lưu chiểu, thư viện Việt 
Nam thời kỳ này đã tập hợp được vốn tài 
liệu thành văn quý giá, minh chứng cho 
một thời kỳ lịch sử của Việt Nam cũng như 
đáp ứng nhu cầu đọc ngày một gia tăng 
của độc giả, đặc biệt ở các đô thị lớn.
Bên cạnh những hạn chế, Thư viện 
Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc đã đặt nền 
móng về lý luận và thực tiễn cho hoạt 
động xây dựng và phát triển vốn tài liệu ở 
Đông Dương và Việt Nam thời kỳ này. Các 
phương thức bổ sung hiện đại từ Pháp được 
thực hiện ở Việt Nam, đặc biệt là phương 
thức lưu chiểu - một thành tố quan trọng 
xây dựng kho tàng di sản thành văn ở Việt 
Nam trong gần 100 năm. Các tài liệu của 
các thư viện thời kỳ này vẫn còn được lưu 
giữ và bảo quản tại Thư viện Quốc gia Việt 
Nam và một số thư viện của Việt Nam, đã 
trở thành nguồn sử liệu quý giá, góp phần 
quan trọng cho những nghiên cứu về giai 
đoạn lịch sử đặc biệt này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hùng Cường (1971). “Lịch sử thư 
viện và thư tịch Việt Nam”, Văn hóa tập san, số 
1, tr.67-100. 
2. Dương Bích Hồng (1999). Lịch sử sự 
nghiệp thư viện Việt Nam trong tiến trình văn 
hóa dân tộc, Vụ thư viện - Bộ Văn hóa Thông 
tin, Hà Nội.
3. Nguyễn Ngọc Mô (2002). Tìm hiểu Lịch 
sử ngành Thư viện - Lưu trữ hồ sơ Việt Nam, 
Nxb. Thế Giới, Hà Nội
4. Hồ Sĩ Quý, Vương Toàn (2011). Thư viện 
Khoa học xã hội, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. V0 - 1421. Rapport annuels sur le 
fonctionnement des Services des Archives 
des Bibliothèques de l'Indochine pendant les 
années 1935-1936, 127fs.
6. V0 - 1625. Rapport sur le fonctionnement 
de la Direction des Archives et des Bibliothèques 
de l’Indochine, 1937-1939, 28fs.
7. V3 - 1638. Statistiques annuelles de 1920 
à 1941 des livres en magasin de la Bibliothèque 
centrale de Hanoi, 2fs (Phông Nha Lưu trữ và 
Thư viện Đông Dương)
8. V3 - 1626. Statistiques de l'accroissement 
des collections des ouvrages à la Bibliothèque 
de la Cochinchine. 1923-1941, 3fs (Phông Nha 
Lưu trữ và Thư viện Đông Dương)
9. V0 - 1410. Rapport annuels sur le 
fonctionnement des Services des Archives et 
des Bibliothèques de l’Indochine pendant les 
annés, 1942-1943, 78fs (Phông Nha Lưu trữ và 
Thư viện Đông Dương)

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_va_phat_trien_von_tai_lieu_cua_thu_vien_viet_nam_th.pdf