Xây dựng và chính đốn đảng hiện nay theo quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng

 Bài viết phân tích nội dung cơ bản trong lý luận của V.I.Lênin về

xây dựng đảng kiểu mới, đồng thời khẳng định sự cần thiết phải vận dụng lý

luận đó để xây dựng Đảng ở nước ta hiện nay. Theo tác giả bài viết, cuộc vận

động xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Việt Nam hiện nay phải đảm bảo: xây dựng,

chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, tổ chức, về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh

đạo; phải nâng cao “tâm đức” và “tài trí” của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng.

pdf 9 trang kimcuc 4960
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng và chính đốn đảng hiện nay theo quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng và chính đốn đảng hiện nay theo quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng

Xây dựng và chính đốn đảng hiện nay theo quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay... 
 3 
XÂY DỰNG VÀ CHÍNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY 
THEO QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG 
NGÔ THỊ PHƯỢNG* 
Tóm tắt: Bài viết phân tích nội dung cơ bản trong lý luận của V.I.Lênin về 
xây dựng đảng kiểu mới, đồng thời khẳng định sự cần thiết phải vận dụng lý 
luận đó để xây dựng Đảng ở nước ta hiện nay. Theo tác giả bài viết, cuộc vận 
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Việt Nam hiện nay phải đảm bảo: xây dựng, 
chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, tổ chức, về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh 
đạo; phải nâng cao “tâm đức” và “tài trí” của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. 
Từ khóa: Đảng Cộng sản, Đảng kiểu mới, xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng. 
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, chủ 
nghĩa tư bản ở nước Nga mới có điều 
kiện phát triển và chuyển sang giai đoạn 
đế quốc chủ nghĩa. Giai cấp công nhân 
và cuộc đấu tranh của họ chống lại chế 
độ áp bức bóc lột ngày càng phát triển, 
các tổ chức liên hiệp công nhân bắt đầu 
xuất hiện. Năm 1895, các tổ chức này 
dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin đã thống 
nhất lại thành “Hội liên hiệp chiến đấu 
giải phóng giai cấp công nhân”. Đến 
tháng Ba năm 1898, các tổ chức của Hội 
họp đại hội lần thứ nhất, thành lập Đảng 
Dân chủ - xã hội Nga. Ngay sau đó, 
Đảng lâm vào tình trạng khủng hoảng 
nghiêm trọng, không có sự thống nhất 
về tổ chức và tư tưởng. Trong khi đó, 
phong trào đấu tranh cách mạng chống 
chế độ chuyên chế phong kiến ngày 
càng mang tính quần chúng rộng rãi. 
Tình hình ấy càng đòi hỏi phải có một 
đảng mácxit cách mạng lãnh đạo - đảng 
kiểu mới của giai cấp công nhân, xứng 
đáng là người tổ chức, lãnh đạo của 
cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế 
và chủ nghĩa tư bản. Để chuẩn bị cho 
việc thành lập một đảng như vậy, trong 
một số tác phẩm như “Làm gì?”, “Một 
bước tiến, hai bước lùi”, “Hai sách lược 
của đảng dân chủ - xã hội trong cách 
mạng dân chủ”..., V.I.Lênin đã tập trung 
làm rõ những vấn đề cơ bản thuộc về tổ 
chức và chính trị của một đảng kiểu 
mới.(*)Những nội dung này có ý nghĩa 
như là những nguyên tắc xây dựng đảng 
trong quá trình phát triển của phong trào 
công nhân quốc tế trước đây và hiện 
nay. Trong bài viết này, chúng tôi phân 
tích quan điểm của V.I.Lênin về xây 
dựng đảng cách mạng của giai cấp công 
nhân và ý nghĩa của quan điểm đó đối 
(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và 
Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(75) - 2014 
 4 
với cuộc vận động xây dựng và chỉnh 
đốn Đảng ở Việt Nam hiện nay. 
1. Nền tảng tư tưởng của Đảng phải 
là chủ nghĩa Mác - Lênin (hệ tư tưởng 
chính trị của giai cấp công nhân) 
Đảng mácxit là đảng cách mạng được 
trang bị lý luận tiên phong. V.I.Lênin 
viết: “Không có lý luận cách mạng thì 
cũng không thể có phong trào cách 
mạng”(1), “Chỉ đảng nào được một lý 
luận tiền phong hướng dẫn thì mới có 
khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên 
phong”(2). Đối với nước Nga, vào những 
năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, 
Đảng Dân chủ - Xã hội chưa thống nhất 
về tư tưởng và tổ chức. Trong Đảng xuất 
hiện hai khuynh hướng đối lập nhau: 
cách mạng triệt để, bảo vệ tư tưởng 
mácxit và cơ hội chủ nghĩa, phê phán 
chủ nghĩa Mác, phủ nhận đấu tranh giai 
cấp. Trong hoàn cảnh đó, V.I.Lênin đã 
bóc trần tính chất phi lý của chủ nghĩa 
cơ hội, mà biểu hiện của nó là “Phái 
kinh tế” và “Phái phê bình”. Người viết: 
“Ai không cố ý nhắm mắt lại thì không 
thể không thấy rằng khuynh hướng “phê 
bình” mới trong chủ nghĩa xã hội chẳng 
qua chỉ là một loại hình mới của chủ 
nghĩa cơ hội mà thôi. Và nếu xét người, 
không căn cứ vào bộ áo hào nhoáng họ 
tự khoác cho họ hoặc vào cái tên khá 
kêu họ tự đặt cho họ, mà căn cứ vào 
cách họ hành động, vào những tư tưởng 
mà họ thực tế truyền bá, thì thấy rõ rằng 
“tự do phê bình” là tự do của khuynh 
hướng cơ hội chủ nghĩa trong đảng dân 
chủ - xã hội, là tự do biến đảng dân chủ - 
xã hội thành một đảng dân chủ cải 
lương, là tự do đưa những tư tưởng tư 
sản và những thành phần tư sản vào 
trong chủ nghĩa xã hội”(3). Phê phán chủ 
nghĩa cơ hội cũng có nghĩa là một lần 
nữa khẳng định vai trò của chủ nghĩa 
Mác trong cuộc đấu tranh của giai cấp 
công nhân. Theo V.I.Lênin: “vấn đề đặt 
ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản 
hoặc hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. 
Không có hệ tư tưởng trung gian... Vì 
vậy, mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã hội 
chủ nghĩa, mọi sự xa rời hệ tư tưởng xã 
hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng 
cường hệ tư tưởng tư sản”(4). Khi phong 
trào công nhân được trang bị bởi lý luận 
khoa học là chủ nghĩa Mác, thì phong 
trào đó mới trở thành tự giác và đảng 
mới là “đội tiên phong thực sự của giai 
cấp cách mạng nhất”. 
Ngày nay, phong trào công nhân trên 
thế giới đang gặp khó khăn, các thế lực 
đối lập và cơ hội chính trị ra sức tuyên 
truyền những quan điểm sai trái, phản 
động nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng 
của Đảng ta là chủ nghĩa Mác-Lênin; 
những luận điểm phản động ấy là một 
trong những tác nhân dẫn đến “Sự suy 
(1) V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến 
bộ, Mátxcơva, tr. 30. 
(2) Sđd, tr. 32. 
(3) Sđd, tr. 10 - 11. 
(4) Sđd, tr. 49 - 50. 
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay... 
 5 
thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị 
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, 
đảng viên”(5). Tại Hội nghị lần thứ tư 
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, 
Đảng ta nghiêm túc kiểm điểm và thừa 
nhận còn có những đảng viên giữ vị trí 
lãnh đạo quản lý, kể cả cán bộ cao cấp, 
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, 
lối sống với những biểu hiện khác nhau 
về sự phai nhạt lý tưởng... Sự dao động 
về mặt tư tưởng sẽ dẫn đến sự suy yếu 
về tổ chức và năng lực lãnh đạo của 
Đảng. Trước tình hình đó, Đảng phải 
tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, 
tư tưởng Hồ Chí Minh, không xa rời 
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa 
xã hội trong bất cứ tình huống khó khăn 
nào; tiếp tục vận dụng và phát triển sáng 
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng 
Hồ Chí Minh; thường xuyên tổng kết 
thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận 
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và 
những vấn đề thực tiễn đặt ra. Thực hiện 
điều đó cũng chính là làm theo lời căn 
dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay 
trong những ngày đầu miền Bắc triển 
khai nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ 
nghĩa: “Chúng ta phải nâng cao sự tu 
dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng 
lập trường, quan điểm, phương pháp của 
chủ nghĩa Mác-Lênin mà tổng kết 
những kinh nghiệm của Đảng ta, phân 
tích một cách đúng đắn những đặc điểm 
của nước ta. Có như thế chúng ta mới có 
thể dần dần hiểu được quy luật phát 
triển của cách mạng Việt Nam, định ra 
đường lối, phương châm, bước đi cụ thể 
của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích 
hợp với tình hình nước ta”(6). 
Không chỉ như vậy, Đảng phải tăng 
cường giáo dục chính trị tư tưởng - giáo 
dục chủ nghĩa Mác-Lênin cho quần 
chúng nhân dân. V.I.Lênin đã chỉ ra 
rằng, giai cấp vô sản giành được vai trò 
chủ đạo không phải vì những tuyên 
ngôn, mà bởi sự tổ chức của những 
người dân chủ-xã hội đã tập hợp chung 
quanh mình tất cả những lực lượng quan 
tâm đến việc lật đổ chế độ Nga Hoàng. 
Muốn thế, những người dân chủ - xã hội 
cách mạng phải hoạt động không chỉ 
trong công nhân thành thị, mà nhất thiết 
phải đến với tất cả các giai cấp, với tư 
cách là nhà lý luận, nhà tuyên truyền, 
nhà cổ động và nhà tổ chức, để giải 
thích cho tất cả các tầng lớp đối lập 
trong dân cư những nhiệm vụ dân chủ 
chung, nhằm đấu tranh chống chế độ 
chuyên chế. 
Có như vậy, mới tạo được đồng thuận 
và nhất trí cao trong toàn Đảng và toàn 
dân. Chỉ khi có sự đồng thuận và nhất trí 
như vậy, mới tạo nên sức mạnh và quyết 
tâm để thực hiện mục tiêu “dân giàu, 
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện 
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung 
ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
tr. 130. 
(6) Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 8, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 494. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(75) - 2014 
 6 
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, 
văn minh” ở nước ta. 
2. Đảng phải là một tổ chức thống 
nhất, tập trung dân chủ và có kỷ 
luật cao 
Khẳng định vai trò quan trọng của tổ 
chức đối với phong trào cách mạng, 
V.I.Lênin nói rằng nếu cho chúng tôi 
một tổ chức những người cách mạng và 
chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga lên. Để 
có một tổ chức thống nhất, theo 
V.I.Lênin, Đảng mácxit là một bộ phận 
và là đội quân tiên phong của giai cấp 
công nhân; Đảng không thể hòa lẫn với 
giai cấp; Đảng phải bao gồm những 
phần tử tiên tiến, có giác ngộ trong giai 
cấp công nhân, được vũ trang bằng một 
học thuyết tiên tiến, cách mạng. Chỉ khi 
đó, Đảng mới có thể là lãnh tụ chiến đấu 
của giai cấp công nhân và nhân dân lao 
động. Đảng không những là đội quân 
tiên phong mà còn là đội ngũ có tổ chức 
của giai cấp công nhân. Đảng chỉ có thể 
thực hiện được vai trò lãnh đạo cuộc đấu 
tranh của công nhân, khi tất cả đảng 
viên trong đảng đoàn kết bằng sự thống 
nhất ý chí, tham gia vào các tổ chức của 
đảng, chấp hành mọi nghị quyết và mọi 
yêu cầu của đảng. Người giải thích: 
“đảng phải là một tổng số (không phải 
tổng số đơn giản trong số học mà là một 
tổng hợp) các tổ chức,... Nói như thế, tôi 
muốn trình bày một cách tuyệt đối rõ 
ràng và chính xác rằng tôi muốn và tôi 
đòi hỏi đảng, đội tiền phong của giai 
cấp, phải hết sức có tổ chức, rằng đảng 
chỉ nên thu nhận những phần tử ít nhất 
cũng phải chấp nhận một tính tổ chức 
tối thiểu”(7). 
Đảng cần được xây dựng trên nguyên 
tắc tập trung dân chủ. Hoạt động của 
đảng phải dựa trên cơ sở một điều lệ 
thống nhất, lãnh đạo phải từ trung tâm là 
các đại hội đảng. Hệ thống tổ chức của 
đảng phải thống nhất từ Trung ương tới 
cơ sở, hoạt động theo nguyên tắc thiểu 
số phục tùng đa số, việc bầu cử phải tiến 
hành từ cơ sở tới Trung ương. Nhấn 
mạnh nguyên tắc này, V.I.Lênin viết: 
“trước kia Đảng ta chưa phải là một 
khối chính thức có tổ chức, mà chỉ là 
một tổng số những nhóm riêng biệt và 
do đó, giữa các nhóm ấy không thể có 
những quan hệ nào khác, ngoài sự tác 
động về mặt tư tưởng. Hiện nay, chúng 
ta đã trở thành một đảng có tổ chức, 
điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo ra 
một quyền lực, biến uy tín về tư tưởng 
thành uy tín về quyền lực, khiến cho cấp 
dưới phải phục tùng cấp trên của 
đảng”(8). Một đảng thống nhất cũng sẽ là 
một đảng có kỷ luật. Nếu không có kỷ 
luật thống nhất và những trách nhiệm 
thống nhất thì đảng sẽ không tránh khỏi 
xu hướng bè phái, phe nhóm và dễ dẫn 
đến tan rã. Một đảng mácxit còn là một 
đảng luôn gắn bó mật thiết với quần 
(7) V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến 
bộ, Mátxcơva, tr. 285 - 286. 
(8) Sđd, tr. 428 - 429. 
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay... 
 7 
chúng nhân dân. Đảng sẽ không thể lãnh 
đạo được quần chúng nhân dân nếu 
không có sự liên hệ với quần chúng 
nhân dân. Mặt khác, nếu không được 
quần chúng nhân dân tin cậy về mặt tinh 
thần và chính trị thì đảng không được sự 
ủng hộ của họ. Đảng cần phát huy tính 
tích cực và tinh thần sáng tạo của quần 
chúng nhân dân trên cơ sở thực hiện dân 
chủ và tự phê bình. Đảng không được 
giấu giếm những sự thật đối với quần 
chúng, không được che giấu khuyết 
điểm sai lầm, phải mạnh dạn “tiến hành 
công tác tự phê bình của mình và tiếp 
tục bóc trần một cách không khoan 
nhượng những thiếu sót của bản thân 
mình”(9). 
Đối với Việt Nam, ngay từ khi ra đời, 
Đảng Cộng sản Việt Nam đã là một tổ 
chức thống nhất, có tính kỷ luật cao. 
Chính sự thống nhất đó đã tạo nên sức 
mạnh của Đảng trong quá trình đấu 
tranh giải phóng dân tộc và những năm 
đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện 
nay, trong sự cạnh tranh gay gắt của nền 
kinh tế thị trường, sự phá hoại của các 
thế lực phản động trong và ngoài nước, 
sự đoàn kết, thống nhất, tính tổ chức của 
Đảng đang đứng trước nguy cơ mai một. 
Một bộ phận đảng viên vì tranh giành 
địa vị, quyền lợi kéo bè cánh, phe nhóm, 
đặt mình lên trên tổ chức, đặc quyền, 
đặc lợi, không quan tâm đến lợi ích tập 
thể, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin 
của nhân dân đối với Đảng. 
Vì vậy, lúc này, giữ gìn sự đoàn kết, 
thống nhất trong Đảng là quan trọng hơn 
bao giờ hết. Thực hiện điều đó, cần tiếp 
tục thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập 
trung dân chủ. “Mở rộng, phát huy dân 
chủ thực sự... xây dựng và thực hiện 
thiết chế bảo đảm dân chủ thực sự trong 
tổ chức đảng, trong cơ quan lãnh đạo..., 
bảo đảm cho đảng viên, cán bộ và mỗi 
công dân đều có thể tham gia, giám sát 
công tác xây dựng Đảng”(10). Các cấp ủy 
và tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ 
sở cần cụ thể hóa nội dung nguyên tắc 
tập trung dân chủ, hoàn thiện chế độ tập 
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đảm 
bảo tất cả những vấn đề về quan điểm, 
đường lối, chủ trương, chính sách đều 
do tập thể cấp ủy các cấp bàn bạc, ra 
quyết định theo đa số. Sau khi ra quyết 
định, các cấp ủy Đảng phân công cho 
từng thành viên, mỗi công việc cụ thể do 
cá nhân chịu trách nhiệm. Tập thể lãnh 
đạo luôn đi đôi với cá nhân phụ trách và 
chịu trách nhiệm. 
Phê bình và tự phê bình cần được coi 
là nguyên tắc cơ bản và thường xuyên 
trong sinh hoạt của mọi tổ chức đảng, 
đồng thời vận động quần chúng thường 
xuyên phê bình cán bộ, đảng viên. 
(9) V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến 
bộ, Mátxcơva, tr. 220. 
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện 
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung 
ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
tr. 142. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(75) - 2014 
 8 
Trong phê bình và tự phê bình, cần khắc 
phục cách làm hình thức, chỉ phê bình 
mà không sửa chữa. Phê bình và tự phê 
bình phải bắt đầu từ mỗi cán bộ, đảng 
viên. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải 
gương mẫu và là trung tâm đoàn kết nội 
bộ tổ chức, không được nể nang né tránh, 
cũng như không được trù dập cá nhân. 
Thực hiện dân chủ hóa trong các tổ 
chức đảng, nhằm phát huy tính tích cực, 
chủ động và sáng tạo của mỗi đảng viên. 
Dân chủ là mục tiêu và động lực trong 
xây dựng và chỉnh đốn đảng. Muốn vậy, 
các cấp ủy đảng phải đảm bảo quyền 
của đảng viên: quyền tự do tư tưởng và 
dân chủ trong sinh hoạt đảng, quyền 
được thông tin, quyền được bảo lưu ý 
kiến, quyền phê bình, chất vấn lãnh 
đạo... Tuy nhiên, trong điều kiện nền 
kinh tế thị trường, hội nhập và mở cửa 
hiện nay, trong Đảng sẽ xuất xuất hiện 
nhiều ý kiến khác nhau về các vấn đề 
phát triển của đất nước. Các đảng viên 
cần biết tôn trọng, lắng nghe ý kiến của 
người khác, cùng nhau trao đổi theo 
nguyên tắc tập trung dân chủ. 
3. Đảng phải là một tổ chức chính 
trị cao nhất của giai cấp công nhân, đủ 
năng lực để đưa đất nước không ngừng 
phát triển bền vững và hội nhập 
Theo V.I.Lênin, để thực hiện được 
vai trò lãnh đạo toàn bộ phong trào, 
những người cách mạng phải vươn lên 
không ngừng, biểu hiện tính tự giác cao. 
Khi cao trào tự phát của quần chúng 
càng tăng lên và phong trào càng mở 
rộng thì càng cần có một ý thức cao 
trong công tác lý luận, chính trị và tổ 
chức của đảng. Vì vậy V.I.Lênin kịch 
liệt phê phán “Phái kinh tế” phủ nhận sự 
cần thiết phải có Đảng và vai trò lãnh 
đạo của Đảng, chủ trương công nhân chỉ 
đấu tranh kinh tế. Bọn cơ hội chủ nghĩa 
tuyên truyền rằng, hoạt động công liên 
chủ nghĩa “trong nhân dân” là hoàn 
thành được một nửa nhiệm vụ của cuộc 
đấu tranh, còn phê bình hợp pháp do các 
nhà trí thức tiến hành là hoàn thành một 
nửa nhiệm vụ còn lại. Họ cho cuộc đấu 
tranh của giai cấp công nhân chống chủ 
nghĩa tư bản được hoàn thành theo kiểu 
như vậy. Về tổ chức, chủ nghĩa cơ hội 
không cần một tổ chức tập trung thống 
nhất chặt chẽ mà bao gồm các tổ chức 
của công nhân phân tán. Nói cách khác, 
họ coi đảng, tổ chức của những người 
cách mạng cũng chỉ là một tổ chức giai 
cấp tầm thường, tổ chức đảng và tổ chức 
giai cấp là một. 
Trên cơ sở phê phán trào lưu cơ hội 
chủ nghĩa, V.I.Lênin cho rằng Đảng là 
một hình thức tổ chức cao nhất của giai 
cấp công nhân. Ngoài đảng ra, giai cấp 
công nhân còn có những tổ chức khác 
nữa như: công đoàn, đoàn thanh niên, 
các hợp tác xã, các tổ chức văn hóa-giáo 
dục... Những tổ chức này đều cần thiết 
đối với giai cấp công nhân. Nếu không 
có những tổ chức đó, giai cấp công nhân 
cũng sẽ không thể đấu tranh giành thắng 
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay... 
 9 
lợi. Vì vậy, đảng phải lãnh đạo các tổ 
chức này. V.I.Lênin viết: “các tổ chức 
đảng của chúng ta... mà càng mạnh mẽ 
bao nhiêu, và trong nội bộ đảng càng ít 
có tình trạng dao động và không kiên 
định bao nhiêu, thì ảnh hưởng của đảng 
đối với những người trong quần chúng 
công nhân chung quanh đảng và chịu sự 
lãnh đạo của đảng, sẽ càng rộng rãi, 
càng nhiều mặt, càng phong phú, càng 
hiệu quả bấy nhiêu”(11). Để thực sự là tổ 
chức chính trị cao nhất của giai cấp 
công nhân, đảng phải bao gồm những 
đại biểu ưu tú nhất, cách mạng nhất, có 
năng lực, kinh nghiệm và bản lĩnh trong 
đấu tranh cách mạng, “Một người cách 
mạng mà mềm yếu, do dự trong các vấn 
đề lý luận, không nhìn xa thấy rộng, lại 
lấy tính tự phát của phong trào quần 
chúng để biện hộ cho tinh thần ủy mị 
của mình; một người cách mạng mà 
giống như một thư ký hội công liên hơn 
là một người bảo vệ quyền lợi của nhân 
dân, mà không đưa ra một kế hoạch 
mạnh bạo có một quy mô lớn làm cho 
ngay cả kẻ thù cũng phải kính nể, một 
người cách mạng mà thiếu kinh nghiệm 
và vụng về trong nghệ thuật chuyên 
môn của mình... thì có phải là một người 
cách mạng không, - không! Đó chỉ là 
một người thủ công nghiệp khốn khổ 
thôi”(12). 
Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn 
Đảng ở Việt Nam hiện nay cũng chính 
là để củng cố, xây dựng Đảng về tư 
tưởng, tổ chức để nâng cao, bản lĩnh 
chính trị và năng lực lãnh đạo, nâng cao 
tính kỷ luật, đảm bảo sự dân chủ. Thực 
hiện những nội dung này phải xuất phát 
từ việc nâng cao“tâm đức và tài trí” của 
đảng viên.(11) 
“Tâm đức” của đảng viên là tình cảm 
trong sáng, tốt đẹp, nhân ái, chân thành, 
là cái gốc, xuất phát điểm để tạo nên 
những hành vi, phẩm chất tốt đẹp của 
con người lương thiện. Đối với đảng 
viên, ngoài cái tâm của một con người 
lương thiện, còn cần đến cái tâm của 
người lãnh đạo cách mạng là: trung với 
nước, hiếu với dân; Nhân, Nghĩa, Lễ, 
Trí, Tín; Cần, Kiệm, Liêm, Chính. “Tâm 
đức” của đảng viên hiện nay là sự kiên 
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ 
nghĩa xã hội; đó là lòng trung thành, sự 
gắn bó mật thiết với quần chúng nhân 
dân, luôn đại diện và đấu tranh cho lợi 
ích của nhân dân và dân tộc. “Tâm đức” 
còn được phản ánh rõ và trong sáng 
thông qua hành động phê bình và tự phê 
bình trong xây dựng Đảng; dám chịu 
trách nhiệm trước nhân dân về những 
hành vi của mình, dám đấu tranh và kiên 
quyết đấu tranh chống lại những hành vi 
tham nhũng, tha hóa đạo đức lối sống ở 
một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. 
(11) V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến 
bộ, Mátxcơva, tr. 288 - 289. 
(12) V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến 
bộ, Mátxcơva, tr. 161 - 162. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(75) - 2014 
 10 
“Tâm đức” còn biểu hiện ở ý chí “đấu 
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt 
động “diễn biến hòa bình” của các thế 
lực thù địch, chủ động phòng ngừa, đấu 
tranh, phê phán biểu hiện “tự diễn biến”, 
“tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Giữ 
gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, 
sự đồng thuận trong xã hội”(13). 
“Tài trí” là sự hiểu biết sâu rộng và 
khả năng vận dụng sự hiểu biết đó vào 
trong hoạt động thực tiễn của con người. 
“Tài trí” của đảng viên phải là sự hiểu 
biết quy luật phát triển của xã hội, quy 
luật về cuộc đấu tranh của giai cấp công 
nhân chống áp bức bóc lột và vận dụng 
quy luật đó trong hoạch định đường lối 
lãnh đạo cuộc đấu tranh đó đi đến đích 
cuối cùng của nó - giải phóng con 
người. Trong giai đoạn mới hiện nay, 
“tài trí” của đảng viên thể hiện ở việc 
“nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát 
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng 
Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy 
truyền thống tiếp thu tinh hoa, tri thức 
nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng 
cao năng lực trí tuệ; phải xuất phát từ 
thực tiễn của đất nước, tiếp tục đổi mới 
mạnh mẽ tư duy lý luận, kiên định về 
nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt, sáng 
tạo về sách lược, phương pháp, chống 
giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc đổi mới 
vô nguyên tắc, chủ quan, nóng vội”(14). 
Nâng cao “tâm đức và tài trí” của 
Đảng là quá trình kết hợp giữa nhân tố 
cá nhân và xã hội. Khi “tâm đức” và “tài 
trí” được nâng cao thì tất yếu sẽ tạo nên 
“tầm” của Đảng để đáp ứng yêu cầu, đòi 
hỏi của sự nghiệp đổi mới vì sự phát 
triển và tiến bộ của đất nước. Do vậy, 
bản thân mỗi đảng viên phải không 
ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện bản 
thân. Các tổ chức đảng phải làm tốt hơn 
nữa công tác cán bộ, đảng viên. Kiên trì 
thực hiện tri thức hóa, chuyên môn hóa 
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lựa chọn 
những người vững vàng về chính trị, 
giỏi chuyên môn nghiệp vụ, uy tín quần 
chúng cao, có đạo đức cách mạng trong 
sáng, có ý thức tổ chức kỷ luật đảng cao 
vào trong cương vị lãnh đạo đất nước. 
Mặt khác, cần tăng cường công tác kiểm 
tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên 
để khắc phục tận gốc hiện tượng tham 
nhũng, thoái hóa, biến chất ở một bộ 
phận đảng viên của Đảng.(13) 
Suy ngẫm nghiêm túc về những nội 
dung của cuộc vận động xây dựng, 
chỉnh đốn Đảng ở nước ta hiện nay, 
chúng ta càng thấy rõ hơn giá trị bền 
vững trong quan điểm của V.I.Lênin về 
đảng kiểu mới và sự cần thiết phải quán 
triệt lý luận đó trong việc xây dựng và 
chỉnh đốn Đảng. 
(13) 
Hoi-nghi-Trung-uong-4-Mot-so-van-de-cap-bach-
ve-xay-dung-Dang-hien-nay/20121/125067.vgp. 
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 282. 
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay... 
 11 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_va_chinh_don_dang_hien_nay_theo_quan_diem_cua_v_i_l.pdf