Xây dựng mô hình trường gió trong bão và ứng dụng mô hình mô phỏng cơn bão Fritz
Mô hình trường gió trong mô hình SLOSH (Sea, Lake, and Overland Surges from Hurricanes)
xây dựng bởi Jelesnianski (1973) [5] được nghiên cứu và đơn giản hóa để giải trực tiếp góc lệch
hướng tâm. Các tham số đầu vào như vận tốc gió cực đại, kích thước cơn bão, bán kính đến vận
tốc gió cực đại được lựa chọn trong nghiên cứu để thiết lập mô hình. Mô hình được mô phỏng với
nhiều vĩ độ khác nhau nhằm tìm liên hệ giữa áp suất tâm bão và vận tốc gió cực đại theo vĩ độ,
hay còn gọi là liên hệ áp suất-vận tốc. Liên hệ này được hiệu chỉnh với liên hệ áp suất-vận tốc tìm
được từ số liệu thực của trung tâm khí tượng chuyên về bão Tokyo RSMC (Regional Specialized
Meteorological Center Tokyo) trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương. Mô hình trường gió trong
bão được ứng dụng mô phỏng cơn bão Fritz đổ bộ vào Đà Nẵng từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 09
năm 1997.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng mô hình trường gió trong bão và ứng dụng mô hình mô phỏng cơn bão Fritz
96 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät XÂY DỰNG MÔ HÌNH TRƯỜNG GIÓ TRONG BÃO VÀ ỨNG DỤNG MÔ HÌNH MÔ PHỎNG CƠN BÃO FRITZ. Lưu Trí Anh*, Võ Duy Long*, Trần Thu Tâm** TÓM TẮT Mô hình trường gió trong mô hình SLOSH (Sea, Lake, and Overland Surges from Hurricanes) xây dựng bởi Jelesnianski (1973) [5] được nghiên cứu và đơn giản hóa để giải trực tiếp góc lệch hướng tâm. Các tham số đầu vào như vận tốc gió cực đại, kích thước cơn bão, bán kính đến vận tốc gió cực đại được lựa chọn trong nghiên cứu để thiết lập mô hình. Mô hình được mô phỏng với nhiều vĩ độ khác nhau nhằm tìm liên hệ giữa áp suất tâm bão và vận tốc gió cực đại theo vĩ độ, hay còn gọi là liên hệ áp suất-vận tốc. Liên hệ này được hiệu chỉnh với liên hệ áp suất-vận tốc tìm được từ số liệu thực của trung tâm khí tượng chuyên về bão Tokyo RSMC (Regional Specialized Meteorological Center Tokyo) trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương. Mô hình trường gió trong bão được ứng dụng mô phỏng cơn bão Fritz đổ bộ vào Đà Nẵng từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 09 năm 1997. Từ khóa: Mô hình tham số gió, trường gió bão, liên hệ áp suất-vận tốc, số liệu best-track THE CONTRUCTION OF THE WIND FIELD MODEL AND THE ITS APPLICATION IN STIMULATING THE FRITZ STORM ABSTRACT The wind field model belongs SLOSH model (Sea, Lake, and Overland Surges from Hurricanes) was built by Jelesnianski (1973) [5]. This model was studied and simplified to resolve direction of axial angle. The parameters input of model such as maximum wind speed, size of storm, radius of maximum wind speed are chosen to set up model. Model is simulated with different latitude to determine the relationship between central pressure and maximum wind speed. The relationship from model is compared with the relationship from data which collected from best track data of Tokyo RSMC ( Regional Specialized Meteorological Center Tokyo) in North-West Pacific. The wind field model is applied to simulate the Fritz storm which impact Danang from 20 to 25 September in 1997. Keyworlds: The parameters wind field, wind field, relationship beteween central pressure – maximum wind speed, best track data. * ThS. Phòng thuỷ - hải văn công trình, Viện Vật Lý Thành Phố Hồ Chí Minh ** GV. Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh 97 1. Mở đầu Trường gió và trường áp suất là số liệu đầu vào của các mô hình tính sóng và mô hình nước dâng. Những số liệu này thường được lấy từ các mô hình toàn cầu có độ phân giải lớn (10 x 10) gần bằng kích thước của một cơn bão. Vì vậy mô hình trường gió đơn giản SLOSH [5] được xây dựng để thiết lập trường vận tốc gió trong bão. Hơn nữa, mô hình mô phỏng cơn bão chính xác hơn bằng cách xác định được góc lệnh hướng tâm của vận tốc gió. Trường vận tốc gió trong bão được mô phỏng với những vận tốc gió khác nhau để xác định liên hệ áp suất - vận tốc, mối liên hệ này được so sánh với liên hệ áp suất- vận tốc từ số liệu thực của trung tâm khí tượng chuyên về bão Tokyo. Mối liên hệ tổng quát có dạng như phương trình (1) W m =C(p n -p c )n (1) W m : vận tốc gió cực đại (m/s), C và n: các tham số kinh nghiệm, p n , p c : áp suất khí quyển trong điều kiện bình thường và áp suất tại tâm bão (mb). Phương trình (1) là dạng tổng quát về liên hệ áp suất- vận tốc. Các nghiên cứu về mối liên hệ này trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương và trên thế giới giới được tìm thấy trong báo cáo của Harper (2002) [1] 2. Mô hình trường gió trong bão Phương trình cơ bản: 21 sin sk Wdp dWW dr drr f = − (Dọc theo quỹ đạo), (2) 2 2 21 cos . cos sin n dp W d f W W k W dr r dr ff f f r = + − + (Vuông góc quỹ đạo), (3) trong đó r là bán kính tính từ tâm bão, f là tham số Coriolis, p(r) trường áp suất tính từ tâm bão, f(r) là góc lệch hướng tâm tính từ tâm bão, W(r) trường vận tốc gió. r là mật độ không khí (1.225 kg/m3). k s và k n là các hệ số ma sát theo mỗi phương và được xác định bằng phương trình (4) 1/24 m 10 . 1,15 0,3 60 w s n R k k W a − = = + (4) R w là bán kính đến vận tốc gió cực đại có đơn vị là miles (1 miles = 1 609.344 m), W m vận tốc gió cực đại xác định bằng miles trên giờ (1 mph= 0.447 m/s), hệ số a= 1 cho trường hợp đại dương và a = 4 22 / wR cho trường hợp hồ. Hai phương trình (2) và (3) dùng để xác định ba biến W(r), f(r), p(r), do vậy Jelesnianski đưa thêm giả thuyết về phân bố vận tốc gió để giải hệ phương trình ba biến [5]. m 2 2 2 . ( ) w w R r W r W R r = + (5) Từ phương trình (2) và phương trình (3) ta được sin . tan cos cos s n k W k Wf W dW dW r dr dr f ff f f = + + + − (6) Xây dựng mô hình . . . 98 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Số hạng d dr f trong phương trình (6) gây mất ổn định cho lời giải của phương trình, tuy nhiên có thể bỏ qua số hạng này cho lời giải giải xấp xỉ f bằng phương trình (7). sin . cos cos s n k W k Wf W dW r dr f f f = + + + (7) số hạng đạo hàm dW/dr được tính bằng giải tích từ phương trình (5) ( ) 2 2 m 22 2 ( ) 2 ww w R rdW r W R dr R r − = + (8) Phương trình (7) được giải trực tiếp tại mỗi giá trị r. Kết quả so sánh góc lệch hướng tâm f khi giải bằng phương trình (6) và phương trình (7) được trình bày trên hình (1) 2.1. Lựa chọn các thông số. Áp suất ngoại biên và kích thước cơn bão: Áp suất bên ngoài cơn bão trong điều kiện khí quyển ở trạng thái bình thường được lấy bằng 1010 hPa trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương (Holland, 2008)[3]. Kích thước của cơn bão được lấy theo thống kê trung bình của Liu và Chan (1999) ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, trung bình 3.7 độ (410km) Vận tốc gió cực đại và áp suất tâm bão: Từ hệ phương trình chủ đạo của mô hình SLOSH, vận tốc gió cực đại được xác định từ áp suất tâm bão hay ngược lại. Vì vậy mô hình chỉ cần một trong hai tham số này, vì lý do này vận tốc gió cực đại được chọn với những cấp gió khác nhau theo thang vận tốc gió Bea fourt. Bán kính đến vận tốc gió cực đại: Tham số này không có sẵn trong số liệu thực đo. Vì vậy bán kính đến vận tốc gió cực đại được chọn là 47 km trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương theo nghiên cứu của Hsu và Zhongde Yan [4]. Ngoài ra bán kính đến vận tốc gió cực đại cũng được xác định theo công thức của H.E.Willoughby và M.E.Rahn (phương trình 9) [10]. Cả hai lựa chọn này được thiết lập tính toán trong mô hình nhằm đưa ra bán kính đến vận tốc gió cực đại tốt nhất dùng để thiết lập cho mô hình. Kết quả tính toán cho thấy bán kính đến vận tốc gió cực đại lấy trung bình 47 km tốt hơn so với công thức thực nghiệm của H.E.Willoughby and M.E.Rahn (Hình 4) vì đường liên hệ áp suất vận- tốc gió từ R w trung bình gần với đường liên hệ áp suất- vận tốc từ số liệu thực hơn. R w = 46.29exp(-0.0153W m +0.0166j) (9) Vĩ độ: Khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương chọn 300 vĩ để thiết lập mô hình. 2.2. Kết quả của mô hình trường gió trong bão. Trong Hình 4, hai đường chấm gạch bên ngoài của chùm số liệu biểu thị độ tin cậy 95% của số liệu thực. Các đường B6, B7 biểu thị thang sức gió Beaufort. Mô hình cho kết quả khá tốt liên hệ áp suất vận tốc trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương khi so sánh với số liệu thực. 99 Khoảng cách từ tâm bão r/ R w Hình 3: Trường áp suất p(r) ứng với vận tốc gió cực đại khác nhau từ 5m/s đến 60 m/s. Áp suất tại tâm [hPa] Hình 4: So sánh liên hệ áp suất vận tốc gió từ kết quả mô hình và từ số liệu thực đo. 3. Liên hệ áp suất- vận tốc từ số liệu thực. Số liệu lịch sử của các cơn bão trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương từ năm 1977 đến năm 2010 được sử dụng. Có tất cả 20293 cặp số liệu (W m , p c ) được mô phỏng trên Hình 4. Sử dụng phương trình dạng (1), kết quả đường liên hệ áp suất- vận tốc khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương được trình bày bằng phương trình 10, với hệ số tương quan R2= 0.9395 W m =4.919(1010-p c )0.5204(10) 4. Mô phỏng cơn bão Fritz đổ bộ vào miền trung Việt Nam. Khu vực được chọn trong nghiên cứu có toạ độ (100N-16.50N; 106.70E-110.90E). Địa hình đáy được down từ trang web GTOPO30 (Global Topographic Data), trường vận tốc gió đầu vào sử dụng mô hình trường gió trong bão đã xây dựng. Mô hình tính trường sóng Swan được chọn để mô phỏng trường sóng hình thành bởi cơn bão Fritz từ ngày 20 đến 25 tháng 9 năm 1997. Trong báo cáo này, mô hình Swan không được trình bày cụ thể. Xây dựng mô hình . . . 100 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Hình 9: So sánh độ cao sóng có nghĩa từ kết quả mô hình Swan và số liệu thực đo 101 Độ cao sóng có nghĩa từ kết quả mô hình được hiệu chỉnh và so sách với số liệu quan sát thực tế khu vực cảng Đà Nẵng (16011’34”N, 108015’27.7”E). Chênh lệch biên độ về độ cao sóng giữa kết quả mô hình và số liệu thực đo là không đáng kể, đồng thời mô hình cũng cho khuynh hướng tương tự số liệu thực đo về sự phát triển của sóng trong bão. 5. Kết luận. Mô hình trường gió trong mô hình SLOSH (Jelesnianski et al, 1992) được hiệu chỉnh với các thông số đơn giản và xác định được góc lệch hướng tâm tại mỗi vecto vận tốc gió. Mô hình dùng để mô phỏng trường gió làm số liệu đầu vào cho mô hình tính sóng và mô hình nước dâng khá hiệu quả, và đã được kiểm chứng với kết quả thực đo tính toán độ cao sóng có nghĩa khu vực cảng Đà Nẵng. Liên hệ áp suất- vận tốc gió cực đại được xác định trong khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương từ số liệu các cơn bão lịch sữ của RSMN. Mối liên hệ này được xác định như sau: W m =4.919(1010-p c )0.5204 Liên hệ này dùng để xác định một cách nhanh chóng vận tốc gió khi biết được áp suất tại tâm bão mà không cần chạy mô hình số./. Xây dựng mô hình . . . Lễ tổng kết công tác HSSV. 102 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät TÀI LIỆU THAM KHẢO. Bài báo khoa học. [1] Harper B. (2002). Tropical Cyclone Parameter Estimation in the Australian Region, Win-Pressure relationships and related issues for Engineering Planning and Design – A discussion paper. Report No. J0106-PR003E November, SEA Systems Engineering Australia Pty Ltd. [2] Holland G. J. (1980). An analytic model of the wind and pressure profiles in hurricanes. American Meteorological Society, Monthly Weather Review, vol. 108, August, pp. 1212 to 1218. [3] Holland G. J. (2008). A Revised Hurricane Pressure-Wind Model. American Meteorological Society, Monthly Weather Review, vol. 136, September, pp. 3432-3445. [4] Hsu. S. A and Zhongde Yan (1998). A Note on the Radius of Maximum Wind for Hurricanes. Journal of Coastal Research. Vol. 14, No. 2, Spring, pp. 667-668. [5] Jelesnianski C. P., Chen J., Shaffer W. A (1992). SLOSH: Sea, Lake, and Overland Surges from Hurricanes. NOAA Technical Report NWS 48, April. [9] Liu K. S., Johnny C. L. Chan (1999). Size of Tropical Cyclones as Inferred from ERS-1 and ERS-2 Data. American Meteorological Society, Monthly Weather Review, vol. 127, December, pp. 2992–3001. [10] Nguyễn Minh Huấn, “ Nghiên cứu thử nghiệm mô phỏng hình thế bão cho các mô hình thủy động lực dự báo sóng và nước dâng ”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ, 27, pp 115-125, 2011. [11] Ueno T. (1981). Numerical computations of the storm surges in Tosa bay. Journal of Oceanographical Society of Japan, vol. 37, pp. 61 to 73. Số liệu. RSMC-Tokyo best track data available at: besttrack.html TEDI, 1999: Nghiên cứu quy hoạch phát triển cảng phục vụ khu kinh tế mở Chu Lai (báo cáo định hướng phát triển khu vực.
File đính kèm:
- xay_dung_mo_hinh_truong_gio_trong_bao_va_ung_dung_mo_hinh_mo.pdf