Xây dựng chương trình tập luyện thể dục giữa giờ cho nữ nhân viên một số phòng, ban trường đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết đề cập thực trạng sức khỏe, thể lực và các yếu tố tác động gây ra hội chứng

bệnh văn phòng của các nữ nhân viên. Nghiên cứu này bước đầu xây dựng cũng như kiểm

chứng hiệu quả của chương trình tập luyện thể dục giữa giờ cho nữ nhân viên một số

phòng, ban ở Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP TPHCM).

pdf 12 trang thom 09/01/2024 500
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng chương trình tập luyện thể dục giữa giờ cho nữ nhân viên một số phòng, ban trường đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng chương trình tập luyện thể dục giữa giờ cho nữ nhân viên một số phòng, ban trường đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

Xây dựng chương trình tập luyện thể dục giữa giờ cho nữ nhân viên một số phòng, ban trường đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
140 
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TẬP LUYỆN THỂ DỤC GIỮA GIỜ 
CHO NỮ NHÂN VIÊN MỘT SỐ PHÒNG, BAN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
SẦM VĨNH LỘC*, PHAN THÀNH LỄ*, LÂM THANH MINH** 
TÓM TẮT 
Bài viết đề cập thực trạng sức khỏe, thể lực và các yếu tố tác động gây ra hội chứng 
bệnh văn phòng của các nữ nhân viên. Nghiên cứu này bước đầu xây dựng cũng như kiểm 
chứng hiệu quả của chương trình tập luyện thể dục giữa giờ cho nữ nhân viên một số 
phòng, ban ở Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP TPHCM). 
Từ khóa: thể dục giữa giờ, bệnh văn phòng. 
ABSTRACT 
Constructing break-time exercise program for female officers 
at Ho Chi Minh City University of Education 
The study discusses the reality of health, physical and impactful factors causing the 
office-disease of female officers. This research initially constructs as well as verifies the 
efficiency of break-time exercise program for female officers at Ho Chi Minh City 
University of Education. 
Keywords: break-time exercises, occupational disease. 
* ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM, Email: lept@hcmup.edu.vn 
** HVCH, Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao TPHCM 
1. Đặt vấn đề 
Ngày nay, công nghệ thông tin đã 
mang lại rất nhiều tiện ích và tăng hiệu 
suất làm việc cho viên chức văn phòng. 
Tuy nhiên, việc phải ngồi lâu trong một 
tư thế với thời gian dài, cơ thể ít được 
vận động đó là một trong những nguyên 
nhân chính gây nên một số bệnh thường 
gặp mà người ta quen gọi là bệnh văn 
phòng (occupational disease) [9]. Bệnh 
văn phòng được coi là bệnh của thời đại, 
ít vận động làm cho quá trình lưu thông 
máu trong cơ thể kém hơn, dịch nhầy tiết 
ra để bảo vệ các khớp cũng ít hơn dẫn 
đến các hiện tượng như khớp xương khô, 
sợi cơ không săn chắc, giảm sức mạnh 
của cơ và độ dẻo của cơ thể [7], [9]. Đặc 
biệt, các khớp ở đốt sống lưng và đốt 
sống cổ bị thoái hóa sẽ gây ra hội chứng 
đau lưng, đau cổ mà ngày nay người làm 
văn phòng thường gặp phải. [8] 
Rào cản lớn để nhân viên văn 
phòng (NVVP) đến với tập luyện vận 
động là không có thời gian [6]. Để khắc 
phục tình trạng này, giải pháp cơ bản là 
người làm văn phòng có thể tranh thủ giờ 
nghỉ giữa thời gian làm việc để tập luyện. 
Các bài tập cho người làm văn phòng 
cũng cần có yếu tố đặc thù như đơn giản, 
ít đòi hỏi không gian, thiết bị mà vẫn hiệu 
quả [3]. Trên cơ sở yêu cầu đó, nhóm 
nghiên cứu đã lựa chọn và xây dựng 
chương trình tập luyện thể dục giữa giờ 
và thiết kế nghiên cứu để đánh giá hiệu 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
141 
quả của chương trình này với bệnh nghề 
nghiệp và thể trạng – thể lực của các nữ 
NVVP. 
2. Cơ sở lí luận 
2.1. Thể dục lao động 
Thể dục trong lao động (TDLĐ) 
giúp củng cố và tăng cường sức khỏe cho 
người lao động, góp phần nâng cao năng 
suất lao động, ngăn ngừa và hạn chế sự 
phát sinh bệnh nghề nghiệp trong lao 
động [1]. Nhiều nghiên cứu cho thấy 
TDLĐ giúp rèn luyện, bồi dưỡng các tố 
chất chủ yếu cần thiết trong phạm vi nhất 
định, để củng cố tăng cường sức khỏe hỗ 
trợ cho tư thế và thao tác kĩ thuật lao 
động, để cơ thể thích nghi với môi trường 
lao động. 
Bên cạnh đó, TDLĐ giúp con người 
duy trì và tăng cường sức khỏe, phát triển 
thể lực của người lao động một cách cân 
đối và toàn diện, nhanh chóng bước vào 
làm việc với năng suất cao. Quan trọng 
hơn là TDLĐ giúp uốn nắn sự sai lệch về 
tư thế do lao động, đề phòng và hạn chế 
sự phát triển của một số bệnh nghề 
nghiệp. Có 3 phân loại về TDLĐ: thể dục 
trước giờ lao động, thể dục giữa giờ lao 
động và thể dục sau giờ lao động. [1], [4] 
2.2. Khái quát về các bài tập thể dục 
giữa giờ dành cho NVVP 
Các bài tập thể dục văn phòng là 
một hệ thống các bài tập thể dục được 
chọn lọc, sáng tạo và thực hiện với 
phương pháp khoa học. Các bài tập được 
thực hiện tay không hoặc kết hợp với dây 
chun (elastic band) trong một chế độ nhất 
định nhằm phát triển nâng cao sức chịu 
đựng của cơ thể. 
Những bài tập thể dục giữa giờ 
dành cho nữ NVVP yêu cầu phải phù hợp 
về không gian làm việc, được kết hợp với 
các cử động nhẹ nhàng, dễ tập. Nếu có sự 
hỗ trợ âm nhạc sẽ giúp người tập thêm 
hứng thú. Khi biên soạn, cần lưu ý 3 
nguyên tắc chính: (i) Bài tập phải phù 
hợp với nơi làm việc, đối tượng; (ii) Bài 
tập biên soạn phải có tác dụng tốt đối với 
từng nhóm cơ, đặc biệt là các nhóm cơ 
cổ, vai, lưng, và chi; và (iii) Thời gian 
của bài tập phải phù hợp với đối tượng 
tập luyện. [4] 
Qua tham khảo các tài liệu, khi biên 
soạn bài tập thể dục giữa giờ dành cho nữ 
NVVP cần phải xác định mục đích chính, 
cần thiết của đối tượng luyện tập là: làm 
giảm mệt mỏi; làm giảm đau ở các cơ 
vùng cổ, vai, lưng, và chi; sửa chữa tư thế 
cơ bản; tăng cường thể lực – thể trạng. 
3. Thực trạng sức khỏe, thể lực và 
các yếu tố tác động gây ra các hội 
chứng bệnh văn phòng của nữ NVVP 
Trường ĐHSP TPHCM 
Qua quan sát sư phạm các buổi làm 
việc của 38 nữ NVVP một số phòng ban 
Trường ĐHSP TPHCM, chúng tôi nhận 
thấy đặc điểm làm việc của nữ NVVP tại 
Trường ĐHSP TPHCM đều mang các 
đặc tính riêng của công việc văn phòng, 
gồm: tư thế ngồi không đổi trong thời 
gian dài, tư thế cổ tay, bàn tay dùng 
phím, chuột không đổi và lặp đi lặp lại 
đơn điệu. Người làm văn phòng sử dụng 
nhiều nhất vẫn là hai tay, còn phần cổ, 
vai, lưng và hai chân hầu như không có 
nhiều vận động. Ngoài ra việc bố trí bàn, 
ghế, máy tính, và các dụng cụ làm việc 
khác chưa đảm bảo tính khoa học. Các 
tiêu chuẩn về tỉ lệ chiều cao bàn, ghế, góc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
142 
nhìn màn hình máy vi tính, góc bàn phím 
so với cánh tay, góc lưng tựa ghế ngồi, 
ánh sáng trong phòng làm việc đều chưa 
thật sự hợp lí. Nhân viên có chiều cao và 
hình thể rất khác nhau, nhưng tất cả các 
bố trí trên gần như là cùng một hệ quy 
chuẩn. Chi tiết kết quả quan sát và phỏng 
vấn được trình bày ở Bảng 1 sau đây: 
Bảng 1. Thực trạng về đặc điểm công việc của nữ NVVP Trường ĐHSP TPHCM 
TT Nội dung quan sát Kết quả quan sát 
1 
Điều kiện nơi làm 
việc 
Phòng làm việc có đủ diện tích đầy đủ cho bố trí bàn ghế, máy 
tính, chỉ một số phòng được trang bị máy lạnh 
2 Tổ chức và thời gian làm việc hàng ngày 
Thời gian làm việc theo giờ hành chính, mỗi ngày 8 giờ. Bắt 
đầu lúc 7 giờ sáng và kết thúc lúc 5 giờ chiều. Nghỉ trưa từ 11 
giờ đến 1 giờ. Có các quãng nghỉ ngắn tại chỗ tùy theo khối 
lượng công việc 
3 Tư thế làm việc 
Đa số và thường xuyên làm việc trên máy tính, ít di chuyển 
khỏi vị trí làm việc, giữ nguyên tư thế trong thời gian dài. Khi 
có thời gian nghỉ ngắn thì tiếp tục các hoạt động khác trên 
máy tính hoặc thiết bị điện tử khác. Một số không chú ý đến tư 
thế ngồi xấu khi làm việc: thân người đổ về trước, ngực hóp, 
cột sống cong chữ C gây áp lực lên cột sống và xương chậu, 
hai chân co 
4 Thao tác lao động 
Mắt luôn quan sát màn hình, cổ duy trì tư thế đổ về trước, hai tay 
luân phiên sử dụng chuột, gõ bàn phím. Phần cổ, vai, hai chân ít 
hoạt động. Di chuyển khỏi chỗ ngồi, thay đổi tư thế là rất ít 
Sau khi quan sát, chúng tôi tiếp tục thực hiện phỏng vấn để tìm hiểu các triệu 
chứng đau khác nhau và thời gian xuất hiện của chúng sau khi bắt đầu làm việc buổi 
sáng và buổi chiều bằng bộ phiếu hỏi triệu chứng đau. Kết quả thể hiện ở Bảng 2 và 
Bảng 3 sau đây: 
Bảng 2. Các triệu chứng, vị trí, và mức độ đau 
STT Các triệu chứng, vị trí đau 
Hoàn toàn 
không đau 
(Tỉ lệ %) 
Hơi đau 
(Tỉ lệ %) 
Đau 
khó chịu 
(Tỉ lệ %) 
Rất đau 
(Tỉ lệ %) 
1 Đau đầu 26 39 21 14 
2 Mỏi mắt 13 68 16 3 
3 Đau đốt sống cổ 2 26 61 11 
4 Đau bả vai 8 32 52 8 
5 Mỏi cánh tay 5 45 47 3 
6 Mỏi bàn tay và các ngón tay 3 37 42 18 
7 Đau nhức xương sống lưng 7 68 13 12 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
143 
8 Đau thắt lưng 3 26 47 24 
9 Đau khớp gối 11 63 21 5 
10 Đau do chuột rút 42 37 18 3 
So sánh số liệu cho thấy tỉ lệ người được phỏng vấn trả lời rất đau ở thắt lưng là 
cao nhất (24%) so với rất đau ở các vị trí khác. Bên cạnh đó, số người trả lời thấy đau 
khó chịu ở thắt lưng cũng đồng thời chiếm tỉ lệ khá lớn (47%). Điều này chứng tỏ tư 
thế ngồi làm việc không đổi của NVVP ảnh hưởng rất lớn đến chứng đau thắt lưng của 
họ. Ngoài ra, có 61% người được hỏi cho biết họ thấy đau đến khó chịu vùng đốt sống 
cổ, kế đến là các vùng chi trên như vai, cánh tay, bàn tay. Như vậy, mức độ đau nghiêm 
trọng có ảnh hưởng đến công việc và chất lượng cuộc sống xảy ra thường xuyên ở các 
vùng cổ, thắt lưng và chi trên. 
Bảng 3. Thời gian xuất hiện mệt mỏi sau giờ làm việc 
Thời gian xuất hiện mệt mỏi Số người chọn Tỉ lệ % 
Buổi sáng sau 1g30 làm việc 30 79 
Buổi sáng sau 2g00 làm việc 8 21 
Buổi chiều sau 1g00 làm việc 27 71 
Buổi chiều sau 1g30 làm việc 11 29 
Chúng tôi nhận thấy thời gian xuất 
hiện mệt mỏi sau khi bắt đầu làm việc 
của buổi sáng là chậm hơn so với buổi 
chiều. Nguyên nhân của việc này có thể 
là áp lực làm việc cùng khối lượng công 
việc buổi chiều là khá lớn. Bên cạnh đó 
việc duy trì tư thế, hoạt động đơn điệu 
kéo dài đến chiều khiến các NVVP nhanh 
mệt mỏi hơn ở buổi sáng. 
Chúng tôi nhận được sự tình 
nguyện tham gia nghiên cứu như là đối 
tượng thực nghiệm từ 38 nữ NVVP 
Trường ĐHSP TPHCM. Sau khi kiểm 
tra, đánh giá các chỉ số hình thái, thể lực 
và thang điểm đau, chúng tôi chia ngẫu 
nhiên họ thành 2 nhóm nhằm tiến hành 
thực nghiệm kiểm chứng hiệu quả của 
việc có tập và không tập chương trình tập 
luyện thể dục giữa giờ mà nhóm chúng 
tôi đã phát triển trước đó. Kết quả có 2 
nhóm với các chỉ tiêu ban đầu khá tương 
đồng nhau, mỗi nhóm gồm 19 thành viên. 
Chúng tôi gọi nhóm A là nhóm thực 
nghiệm, họ được tập theo chương trình 
thể dục giữa giờ trong 12 tuần, và nhóm 
B là nhóm đối chứng, họ được yêu cầu 
không tham gia bất kì loại hình tập luyện 
nào khác. Phân tích dữ liệu thu được từ 
quá trình kiểm tra, khám lâm sàng các 
nhóm, chúng tôi thu được kết quả như ở 
Bảng 4 và 5 sau đây: 
Bảng 4. Các chỉ số hình thái học nhóm thực nghiệm (n = 19) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
144 
Chỉ số X ± S Min – Max 
Tuổi 39,7 ± 8,1 27 – 53 
Chiều cao (cm) 157 ± 4,6 150 – 165 
Cân nặng (kg) 53,9 ± 5,6 45 – 69 
Chỉ số khối cơ thể (kg/m2) 21,84 ± 2,2 18,7 – 27,6 
Bảng 5. Các chỉ số hình thái học nhóm đối chứng (n = 19) 
Chỉ số X ± S Min – Max 
Tuổi 39,2 ± 9,9 23 – 53 
Chiều cao (cm) 158 ± 4,9 152 – 167 
Cân nặng (kg) 52,7 ± 5,9 42 – 68 
Chỉ số khối cơ thể (kg/m2) 20,01 ± 2,1 17,7 – 25,6 
So sánh các giá trị chỉ số hình thái 
của hai nhóm qua 2 bảng trên, chúng tôi 
nhận thấy khá tương đồng nhau và không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 
0,05). Chỉ số khối cơ thể là một chỉ tiêu 
quan trọng để xác định tính chất hình thái 
của các khách thể nghiên cứu. Theo tiêu 
chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) 
cho khu vực châu Á, thì chỉ số khối cơ 
thể trong khoảng từ 18,5 đến 22,4 được 
xác định là thể trạng bình thường, tức 
chiều cao và cân nặng có mối tương quan 
tốt. Nếu chỉ số khối cơ thể vượt trên 
ngưỡng giá trị 22,4 thì có nguy cơ béo 
phì và mắc các bệnh mãn tính, cấp tính 
liên quan như tiểu đường, tim mạch [2], 
[3]. Như vậy, tuy nhóm thực nghiệm có 
chỉ số khối cơ thể khá gần với ngưỡng 
trên chỉ tiêu bình thường [21,84 ± 
2,2(kg/m2)] nhưng nhìn chung tương 
quan chiều cao, cân nặng của cả nhóm 
thực nghiệm và đối chứng vẫn nằm trong 
ngưỡng tốt. 
Thực hiện kiểm tra các giá trị hình 
thái khác, chúng tôi tiến hành đo chu vi 
các phần cơ thể và nếp mỡ dưới da. Với 
chu vi các phần cơ thể, chúng tôi sử dụng 
giá trị vòng bụng, vòng mông, và tỉ lệ 
vòng bụng/vòng mông làm giá trị tham 
chiếu nhằm đánh giá một lần nữa tương 
quan chiều cao cân nặng và các nguy cơ 
đối với các bệnh nguy hiểm do thừa cân, 
béo phì [2], [10]. Với nếp mỡ dưới da, 
chúng tôi đo 3 vị trí, bao gồm: cơ tam 
đầu cánh tay, cơ chéo bụng và đùi. Giá trị 
tổng số của 3 nếp mỡ (SoS) được dùng 
để làm tham số tính toán giá trị các thành 
phần cơ thể trong phần sau [10]. Bảng 6 
và 7 sau đây thể hiện giá trị các chỉ số 
hình thái trên của 2 nhóm. 
Bảng 6. Các chỉ số vòng bụng, vòng mông, tỉ lệ vòng bụng trên vòng mông 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
145 
và tổng giá trị nếp mỡ dưới da (SoS) nhóm thực nghiệm (n = 19) 
Chỉ số X ± S Min - Max 
Vòng bụng (cm) 79 ± 4,5 69 – 87 
Vòng mông (cm) 94 ± 5,2 83 – 106 
Tỉ lệ vòng bụng trên vòng mông 0,84 ± 0,3 0,77 – 0,89 
Tổng giá trị nếp mỡ dưới da (mm) 64 ± 13,4 37,8 – 89,6 
Bảng 7. Các chỉ số vòng bụng, vòng mông, tỉ lệ vòng bụng trên vòng mông 
và tổng giá trị nếp mỡ dưới da (SoS) nhóm đối chứng (n = 19) 
Chỉ số X ± S Min - Max 
Vòng bụng (cm) 76,2 ± 4,9 67 – 84 
Vòng mông (cm) 92,8 ± 5,7 83 – 105 
Tỉ lệ vòng bụng trên vòng mông 0,82 ± 0,4 0,73 – 0,89 
Tổng giá trị nếp mỡ dưới da (mm) 51,2 ± 9,9 32 – 67,6 
Có thể thấy giá trị vòng bụng và 
mông trung bình giữa hai nhóm không có 
nhiều khác biệt. Tuy nhiên, khi so sánh 
chỉ số vòng bụng trên vòng mông, chúng 
tôi nhận thấy có sự khác biệt khá lớn. Chỉ 
số vòng bụng trên vòng mông được 
nghiên cứu trên cơ sở xác định sự tập 
trung của mô mỡ ở phần trên và phần 
dưới cơ thể. Từ đó, xác định tình trạng 
béo phì và các nguy cơ bệnh mãn tính, 
cấp tính có liên quan. Theo nghiên cứu 
của Bray and Gray (1988), xác định 
ngưỡng giá trị an toàn cho chỉ số vòng 
bụng trên vòng mông đối với nam giới là 
0,94 và nữ giới là 0,82. Điều này có ý 
nghĩa là nếu giá trị của chỉ số vòng bụng 
trên vòng mông tính được ở cá nhân nào 
>0,94 với nam giới và >0,82 với nữ giới 
thì cá thể đó có nguy cơ cao đối với các 
bệnh liên quan tới béo phì như tim mạch, 
tiểu đường. [10] 
Từ những dữ liệu trên, chúng tôi 
nhận thấy nhóm đối chứng đã ở ngưỡng 
thừa cân với giá trị chỉ số vòng bụng 
trên vòng mông trung bình là 0,82 ± 
0,4. Tuy nhiên, nhóm thực nghiệm tình 
trạng béo phì và nguy cơ mắc bệnh 
nguy hiểm còn rõ ràng hơn với chỉ số 
vòng bụng trên vòng mông trung bình 
là 0,84 ± 0,3. Điều này cũng giải thích 
lí do vì sao nếp mỡ dưới da đo được của 
các nữ NVVP nhóm thực nghiệm [64 ± 
13,4(mm)] cao hơn so với của nhóm đối 
chứng [51,2 ± 9,9(mm)]. Như vậy, nếu 
bài tập thể dục giữa giờ được thiết kế có 
thể kéo giảm chỉ số này ở nhóm thực 
nghiệm thì một mục tiêu nghiên cứu sẽ 
thành công. 
Để xác định các thành phần cơ thể 
ở mức chi tiết, như: phần trăm lượng mỡ 
(%BF), lượng mỡ cơ thể (BF) và lượng 
nạc (cơ, xương và các thành phần khác) 
có nhiều phương pháp khác nhau. 
Jackson và cộng sự (2009) đã xác định 
phương pháp đo nếp mỡ dưới da có độ 
tương quan rất cao với phương pháp đo 
DXA (r=0,91). Vì vậy, sử dụng phương 
pháp đo nếp mỡ trong điều kiện thiết bị 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
146 
hạn chế là hoàn toàn hợp lí. 
Đối với nghiên cứu này, chúng tôi 
tiến hành đo 3 nếp mỡ ở các vị trí sau: cơ 
tam đầu cánh tay, cơ chéo bụng và đùi. 
Sau đó chúng tôi dùng tổng giá trị 3 nếp 
mỡ [SoS(mm)] đo được để tính chỉ số 
mật độ cơ thể [Body Density – Db(g/cc)] 
theo công thức đã được nhóm nghiên cứu 
của Jackson phát triển vào năm 1980 như 
sau [10]: 
Db = 1.0994921-0.0009929 x SoS 
+ 0.0000023 x SoS - 0.0001392 x Ag 
Db: Mật độ cơ thể (g/cc); SoS: Tổng 
giá trị 3 nếp mỡ (mm); Ag: Tuổi (năm) 
Sau đó, chúng tôi dùng phương 
pháp quy đổi (được phát triển bởi 
Heyward và Wagner) từ mật độ cơ thể 
sang phần trăm lượng mỡ (%BF) [10] 
dành cho người châu Á như sau: 
%BF = (5.01/U36) – 4.57 
Căn cứ trên %BF, tiếp tục tính giá 
trị lượng mỡ cơ thể và các thành phần 
còn lại. Từ đây, chúng tôi theo dõi tác 
động của bài tập thể dục giữa giờ lên 
chúng để xác định hiệu quả của bài tập. 
Kết quả phân tích các giá trị như trên 
trước thực nghiệm được thể hiện ở Bảng 
8 và 9 sau đây: 
Bảng 8. Thành phần cơ thể nhóm thực nghiệm (n = 19) 
Chỉ số X ± S Min – Max 
Phần trăm lượng mỡ (%) 29,2 ± 6,2 17 – 41 
Lượng mỡ cơ thể (kg) 15,9 ± 4,2 7,56 – 23,04 
Lượng nạc (kg) 37,9 ± 3,6 32,96 – 47,67 
Bảng 9. Thành phần cơ thể nhóm đối chứng (n = 19) 
Chỉ số X ± S Min – Max 
Phần trăm lượng mỡ (%) 26,1 ± 3,9 20 – 32 
Lượng mỡ cơ thể (kg) 13,8 ± 3,1 9,67 – 18,67 
Lượng nạc (kg) 38,8 ± 3,7 32,06 – 49,33 
Bảng 8 và 9 cho thấy nhóm thực 
nghiệm ngay từ đầu đã có lượng mỡ cơ 
thể [15,9 ± 4,2(kg)] khá cao so với nhóm 
đối chứng [13,8 ± 3,1(kg)]. Điều này 
hoàn toàn phù hợp với phân tích chỉ số 
Wa/H mà chúng tôi đã trình bày và dự 
báo ở trên. Vì vậy, chúng tôi sẽ dùng chỉ 
tiêu này để so sánh giữa 2 nhóm sau khi 
kết thúc thực nghiệm để xem xét tác động 
của bài tập tới thành phần cơ thể và đánh 
giá xem chúng có thể giúp người tập 
giảm nguy cơ mắc bệnh nguy hiểm hay 
không. 
4. Thiết kế chương trình, bài tập thể 
dục giữa giờ cho nữ NVVP 
Một chương trình tập thể dục giữa 
giờ gồm 4 nhóm bài tập dành cho nữ 
NVVP Trường ĐHSP TPHCM được thiết 
kế sau khi tham khảo ý kiến chuyên gia có 
kết cấu như sau: 
- Nhóm bài tập thể dục văn phòng 1: 
Khởi động (8 động tác); 
- Nhóm bài tập thể dục văn phòng 2: 
Các động tác tay không (10 động tác); 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
147 
- Nhóm bài tập thể dục văn phòng 3: 
Các động tác với dây chun (10 động tác tập 
với 2 loại dây chun nhẹ và dây chun nặng); 
- Nhóm bài tập thể dục văn phòng 4: 
Các động tác căng cơ thả lỏng (10 động 
tác). 
Các bài tập thể dục trên đã được 
chúng tôi in thành tranh ảnh, video ghi 
hình tập huấn cho các tình nguyện viên. 
Sau đó, trong 4 tuần đầu, nhóm thực 
nghiệm tập dưới sự hướng dẫn của các 
chuyên gia và các tình nguyện viên, 8 
tuần còn lại họ tự tập với các tranh ảnh, 
video ghi hình hướng dẫn. 
4.1. Tác động với hình thái (xem Bảng 
10, 11, 12) 
Bảng 10. So sánh về hình thái học giữa nhóm thực nghiệm (nhóm A) 
và nhóm đối chứng (nhóm B) (n = 38) 
Chỉ tiêu 
Nhóm A 
(n=19) 
Nhóm B 
(n=19) X A - X B T P 
X A ± S X B ± S 
Chỉ số khối cơ thể 
(kg/m2) 
21,57 ± 2,14 21,7 ± 2,27 -0,13 -0,18 0,861 
Tỉ lệ vòng bụng/vòng 
mông 
0,83 ± 0,3 0,83 ± 0,4 0,005 0,37 0,714 
Lượng mỡ cơ thể (kg) 15,2 ± 3,7 17,6 ± 4,5 0,76 -1,83 0,076 
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05. 
Chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh 3 chỉ 
tiêu trên giữa hai nhóm qua 12 tuần thực nghiệm (p > 0,05). Tuy nhiên khi so sánh các 
chỉ tiêu hình thái giữa mỗi nhóm trước và sau thực nghiệm, xuất hiện một xu thế chung 
đó là có sự giảm chỉ số khối cơ thể, tỉ lệ vòng bụng/vòng mông và lượng mỡ cơ thể với 
nhóm thực nghiệm (Bảng 11). Nhóm đối chứng, không tập gì, thì ngược lại với nhóm 
thực nghiệm, họ gia tăng đều ở các chỉ số trên (Bảng 12). Số liệu được so sánh lần nữa 
giữa thời điểm trước và sau thực nghiệm của mỗi nhóm để đánh giá sự khác biệt trên. 
Bảng 11. So sánh về hình thái học trước thực nghiệm và sau thực nghiệm 
của nhóm thực nghiệm (n = 19) 
Chỉ tiêu 
Trước TN Sau TN 
X 1 – X 2 T P X 1 ± S X 2 ± S 
Chỉ số khối cơ thể (kg/m2) 21,84 ± 2,2 21,57 ± 2,14 0,27 2,6 0,018 
Tỉ lệ vòng bụng/vòng 
mông 0,84 ± 0,3 0,83 ± 0,4 0,008 3,8 0,001 
Lượng mỡ cơ thể (kg) 15,9 ± 4,2 15,2 ± 3,7 0,74 3,4 0,003 
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05. 
So sánh các chỉ số hình thái của nhóm thực nghiệm trước và sau 12 tuần tập luyện 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
148 
thể dục giữa giờ, chúng tôi nhận thấy chỉ số khối cơ thể, tỉ lệ vòng bụng/vòng mông và 
lượng mỡ cơ thể đều khác biệt có ý nghĩa thống kê với p lần lượt là 0,018; 0,001; và 
0,003. Chỉ số khối cơ thể giảm khoảng 0,27 (kg/m2); tỉ lệ vòng bụng/ vòng mông giảm 
0,008; và lượng mỡ cơ thể giảm 0,74 (kg). Như vậy, có thể nói, chương trình tập luyện 
thể dục giữa giờ đã có tác động tích cực đối với việc điều chỉnh tương quan chiều cao, 
cân nặng, giảm nguy cơ béo phì của người tham gia tập. 
Bảng 12. So sánh về hình thái học trước thực nghiệm và sau thực nghiệm 
của nhóm đối chứng (n = 19) 
Chỉ tiêu 
Trước TN Sau TN 
X 1 – X 2 t P X 1 ± S X 2 ± S 
Chỉ số khối cơ thể 
(kg/m2) 
21,07 ± 2,1 21,7 ± 2,3 -0,63 -6,4 0,00 
Tỉ lệ vòng bụng/vòng 
mông 
0,82 .± 0,04 0,83 ± 0,04 -0,006 -1,6 0,131 
Lượng mỡ cơ thể (kg) 13,8 ± 3,1 17,6 ± 4,5 -3,8 -5,9 0,00 
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05. 
Theo dõi ở nhóm đối chứng sau 12 
tuần thực nghiệm không tham gia tập 
luyện, chỉ số khối cơ thể tăng 0,63 
(kg/m2), gấp gần 2 lần so với mức giảm 
chỉ số này đo được ở nhóm thực nghiệm, 
điều này cho thấy các nữ NVVP thuộc 
nhóm đối chứng có sự gia tăng cân nặng 
khá cao. Điều này cũng phù hợp khi 
lượng mỡ cơ thể của họ cũng đồng thời 
tăng trung bình là 3,8 (kg). Tất cả những 
sự khác biệt này sau 12 tuần thực nghiệm 
đều có ý nghĩa thống kê (p = 0,00 < 
0,05). Sự gia tăng cân nặng này có thể do 
tác động của việc ít vận động do phải làm 
việc văn phòng, và một yếu tố ảnh hưởng 
khác là tác động của quá trình lão hóa khi 
mà tuổi trung bình của các đối tượng 
nghiên cứu vào khoảng 39 tuổi, là 
ngưỡng mà quá trình lão hóa ở phụ nữ 
diễn ra với tốc độ khá nhanh. 
4.2. Tác động với thể lực 
So sánh các chỉ tiêu sức mạnh và 
sức bền cơ giữa 2 nhóm qua các bài kiểm 
tra khác nhau, chúng tôi nhận thấy sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Lực cơ của 
nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối 
chứng trung bình khoảng 4,5 (kg) với chi 
trên; 8,7 (kg) với chi dưới; và 7,6 (kg) 
với cơ lưng. Tất cả sự khác biệt ấy đều 
được xác định có ý nghĩa thống kê với p 
= 0,002; 0,044; và 0,039 < 0,05. Để đánh 
giá sức bền cơ, chúng tôi sử dụng bài 
kiểm tra nằm ngửa gập bụng tính số lần 
tối đa. Qua so sánh giữa 2 nhóm, sức bền 
cơ của nhóm thực nghiệm tốt hơn so với 
nhóm đối chứng sau 12 tuần tập luyện. 
Các thành viên nhóm thực nghiệm thực 
hiện bài kiểm tra gập bụng với số lần 
trung bình cao hơn nhóm đối chứng xấp 
xỉ 5 lần và sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê p = 0,022 < 0,05. Kết quả được 
trình bày ở Bảng 13 dưới đây: 
Bảng 13. So sánh về sức mạnh và sức bền cơ giữa nhóm thực nghiệm (A) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
150 
và nhóm đối chứng (B) (n = 38) 
Chỉ tiêu 
Nhóm A 
(n=19) 
Nhóm B 
(n=19) X A - X B t p 
X A ± S X B ± S 
Lực cơ chi trên (kg) 26,7 ± 4,3 22,2 ± 4,1 4,5 3,3 0,002 
Lực cơ chi dưới (kg) 58,6 ± 12 44,8 ± 13,8 8,7 2,1 0,044 
Lực cơ lưng (kg) 44,9 ± 9,9 37,26 ± 12 7,6 2,1 0,039 
Nằm ngửa gập bụng (lần) 9,7 ± 5,9 4,8 ± 6,7 4,9 2,4 0,022 
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05. 
Như vậy với mục tiêu ban đầu trong 
thiết kế bài tập thể dục giữa giờ cho các 
nữ NVVP là tăng cường sức mạnh và sức 
bền cơ, thì chương trình tập luyện này đã 
tạo được những hiệu quả tích cực. Sức 
mạnh và sức bền cơ của người tập thể 
dục giữa giờ được cải thiện đáng kể nhờ 
duy trì việc tập luyện hợp lí. 
Tiếp tục so sánh dữ liệu về độ dẻo 
(Bảng 14), chúng tôi nhận thấy nhóm 
thực nghiệm sau 12 tuần tập luyện thể 
dục giữa giờ có độ dẻo tốt hơn so với 
nhóm đối chứng. Nhóm thực nghiệm 
thực hiện bài kiểm tra ngồi thẳng chân 
gập dẻo thân (SRT) tốt hơn nhóm đối 
chứng xấp xỉ 5,07 (cm), và bài kiểm tra 
giãn nếp da đốt sống thắt lưng (SDT) cao 
hơn nhóm đối chứng khoảng 1,6 (cm). 
Tất cả sự khác biệt đó đều có ý nghĩa 
thống kê với p được xác định lần lượt là 
0,020 và 0,002 < 0,05. Như vậy, có thể 
nói, chương trình tập thể dục giữa giờ đã 
giúp tăng cường độ dẻo cho người tập 
một cách hiệu quả. 
Bảng 14. So sánh về độ dẻo giữa nhóm thực nghiệm (A) 
và nhóm đối chứng (B) (n = 38) 
Chỉ tiêu 
Nhóm A 
(n=19) 
Nhóm B 
(n=19) X A - X B t P 
X A ± S X B ± S 
Ngồi thẳng chân gập dẻo 
thân (cm) 15,9 ± 6,3 10,8 ± 6,6 5,07 2,4 0,020 
Giãn nếp da đốt sống thắt 
lưng (cm) 5,5 ± 1,3 3,9 ± 1,5 1,6 3,4 0,002 
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05. 
Bảng 15. So sánh về mức đau giữa nhóm thực nghiệm (A) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
150 
và nhóm đối chứng (B) (n = 38) 
Mức đau 
các vùng 
Nhóm A 
(n=19) 
Nhóm B 
(n=19) X A - X B t p 
X A ± S X B ± S 
Cổ 3,4 ± 1,4 4,4 ± 1,2 -1 -2,3 0,025 
Lưng 4,6 ± 0,8 5,4 ± 1 -0,8 -2,6 0,013 
Chi 2,6 ± 0,8 3,7 ± 1,3 -1,1 -3,1 0,005 
*Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05. 
Sử dụng bộ phiếu phỏng vấn kiểm 
tra mức độ đau do Đại học McGill phát 
triển [8], chúng tôi kiểm tra và cho 
điểm mức độ đau tại 3 vị trí khác nhau, 
gồm: cổ, lưng và chi. Thang điểm sử 
dụng từ 0 tương ứng “hoàn toàn không 
đau” đến 10 “cực kì đau không thể cử 
động được”. 
Qua bảng dữ liệu trên, có thể thấy 
mức độ đau của nhóm thực nghiệm sau 
thời gian tập 12 tuần thấp hơn hẳn so với 
nhóm đối chứng. Mức đau vùng cổ và chi 
trên, chi dưới thấp hơn xấp xỉ 1 điểm. 
Mức đau vùng lưng thấp hơn xấp xỉ 0,8 
điểm. Tất cả các sự khác biệt đó đều có ý 
nghĩa thống kê khi p được xác định lần 
lượt là 0,025; 0,005; và 0,013 < 0,05. 
Như vậy, bài tập thể dục giữa giờ đã có 
tác động nhất định đối với việc giảm các 
cơn đau vùng cổ, vùng lưng và chi trên, 
chi dưới tốt hơn so với chỉ làm việc mà 
không tập. Tác động này có thể đến từ 
việc sức mạnh, sức bền cơ và độ dẻo 
được tăng cường khá tốt. 
5. Kết luận 
Từ kết quả nghiên cứu này, chúng 
tôi nhận thấy: (i) Không có sự khác biệt 
về thể trạng của 2 nhóm sau thực nghiệm 
[p > 0,05]; (ii) Sức mạnh, sức bền cơ, và 
độ dẻo của nhóm tập luyện thể hiện tốt 
hơn nhóm không tập và sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê [p < 0,05]; (iii) 
Nhóm tập cho biết cảm giác đau các vùng 
cổ, lưng, và tay chân giảm rõ rệt sau tập 
luyện so với nhóm không tập [p < 0,05]. 
Tập thể dục giữa giờ có thể làm giảm đau 
cơ khớp và tăng cường thể trạng, thể lực 
cho nữ NVVP. Các nghiên cứu trong 
tương lai có thể cân nhắc thực hiện với 
nam giới và sử dụng thêm các kiểm tra, 
đánh giá sức khỏe, cơn đau bằng khám y 
khoa chuyên sâu. 
Chương trình tập luyện thể dục giữa 
giờ được phát triển bởi nghiên cứu này là 
khoa học và phù hợp cho nữ NVVP 
Trường ĐHSP TPHCM. Bước đầu, 
những bài tập này giúp tăng cường sức 
mạnh, sức bền cơ, độ dẻo và giảm mức 
độ đau do các hội chứng bệnh văn phòng 
gây ra đối với sức khỏe của nữ NVVP. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Sầm Vĩnh Lộc và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
151 
1. Lương Kim Chung (1979), Chuyên đề thể dục nghề nghiệp, Ban Khoa học Kĩ thuật 
Tổng cục Thể dục thể thao. 
2. Lê Đức Chương, Lưu Quang Hiệp, Vũ Chung Thủy (2002), Y học thể dục thể thao, 
Nxb Thể dục Thể thao. 
3. Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên (1995), Sinh lí học thể dục thể thao, Nxb Thể dục 
Thể thao, Hà Nội. 
4. Lê Văn Lẫm, Nguyễn Xuân Sinh, Trần Phúc Phong, Trương Anh Tuấn (1994), Thể 
dục, Sách giáo khoa dùng trong các trường đại học thể dục thể thao, Nxb Thể dục 
Thể thao, Hà Nội. 
5. Carolyn Richardson, Paul Hodges, and Julie Hides (2004), Therapeutic Exercise for 
Lumbopelvic Stabilization, Elsevier Saunders. 
6. J. Larry Durstine and Geoffrey E. Moore (2003), ACSM’s Exercise Management for 
Persons with Chronic Diseases and Disabilities, Human Kinetics. 
7. Linda Rosenstock, Mark R. Cullen, Carl A. Brodkin, and Carrie A. Redlich (2005), 
Textbook of Clinical Occupational and Enviromental Medicine, Elsevier Saunders. 
8. Nalini Vadivelu, Richard D. Urman, and Roberta L. Hines (2011), Essentials of Pain 
Management, Springer Science. 
9. Victor R. Preedy and Ronald R. Watson (2010), Handbook of Disease Burdens and 
Quality of Life Measures, Springer Science. 
10. Vivian H. Heyward (2010), Advanced Fitness Assessment and Exercise Prescription, 
Human Kinetics. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 19-4-2016; ngày phản biện đánh giá: 20-6-2016; 
ngày chấp nhận đăng: 23-7-2016) 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_chuong_trinh_tap_luyen_the_duc_giua_gio_cho_nu_nhan.pdf