Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập thị trường tài chính Việt Nam giai đoạn 2019-2025

Hội nhập thị trường tài chính (Financial market integration) là tiến

trình không thể đảo ngược trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay,

trong đó các quốc gia từng bước thực hiện mở cửa thị trường, tự do

hoá tài chính nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là trở thành một

phần của thị trường tài chính (TTTC) khu vực và thế giới. Các quốc

gia đều lựa chọn cho mình một lộ trình hội nhập TTTC theo điều kiện

kinh tế- chính trị mỗi nước. Theo đó, hội nhập TTTC bao giờ cũng

phải đặt trong mối quan hệ tỷ lệ hay khuôn khổ giới hạn nhất định

theo những điều kiện về không gian, thời gian của một nền kinh tế

nhất định, không thể có cái gọi là hội nhập TTTC hoàn toàn ở bất kỳ

quốc gia nào. Trong khuôn khổ hội nhập hiện nay, Việt Nam đã tham

gia ký kết các hiệp định thương mại FTA, cam kết hội nhập khu vực

ASEAN, ASEM, APEC Bài viết này sẽ hệ thống hoá lộ trình hội

nhập TTTC Việt Nam đến năm 2025 trên cơ sở những cam kết đã ký,

từ đó đề xuất chiến lược hội nhập phù hợp với điều kiện nội tại của

Việt Nam giai đoạn 2019-2025.

pdf 13 trang kimcuc 8960
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập thị trường tài chính Việt Nam giai đoạn 2019-2025", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập thị trường tài chính Việt Nam giai đoạn 2019-2025

Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập thị trường tài chính Việt Nam giai đoạn 2019-2025
56
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 200+ 201- Tháng 1&2. 2019
Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập Thị 
trường tài chính Việt Nam giai đoạn 2019-2025
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Trần Thị Xuân Anh
Ngô Thị Hằng
Ngày nhận: 17/12/2018 Ngày nhận bản sửa: 11/01/2019 Ngày duyệt đăng: 29/01/2019
Hội nhập thị trường tài chính (Financial market integration) là tiến 
trình không thể đảo ngược trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay, 
trong đó các quốc gia từng bước thực hiện mở cửa thị trường, tự do 
hoá tài chính nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là trở thành một 
phần của thị trường tài chính (TTTC) khu vực và thế giới. Các quốc 
gia đều lựa chọn cho mình một lộ trình hội nhập TTTC theo điều kiện 
kinh tế- chính trị mỗi nước. Theo đó, hội nhập TTTC bao giờ cũng 
phải đặt trong mối quan hệ tỷ lệ hay khuôn khổ giới hạn nhất định 
theo những điều kiện về không gian, thời gian của một nền kinh tế 
nhất định, không thể có cái gọi là hội nhập TTTC hoàn toàn ở bất kỳ 
quốc gia nào. Trong khuôn khổ hội nhập hiện nay, Việt Nam đã tham 
gia ký kết các hiệp định thương mại FTA, cam kết hội nhập khu vực 
ASEAN, ASEM, APEC Bài viết này sẽ hệ thống hoá lộ trình hội 
nhập TTTC Việt Nam đến năm 2025 trên cơ sở những cam kết đã ký, 
từ đó đề xuất chiến lược hội nhập phù hợp với điều kiện nội tại của 
Việt Nam giai đoạn 2019-2025. 
Từ khoá: Hội nhập thị trường tài chính, WTO, ASEAN, AEC, FTA.
1. Lộ trình hội nhập thị 
trường tài chính Việt Nam 
đến năm 2025
ể từ sau khi gia 
nhập WTO đến 
nay, Việt Nam 
đã hội nhập kinh 
tế quốc tế nói 
chung và lĩnh vực tài chính 
nói riêng tương đối đầy đủ và 
toàn diện trên tất cả các cấp độ 
đa phương, khu vực và song 
phương. Ở góc độ khu vực, 
Việt Nam tham gia ASEAN, 
ASEAN+3, ASEM, và tính 
đến 11/2018 Việt Nam đã 
tham gia đàm phán 16 FTA, 
trong đó có 10 FTA đã ký kết 
và đi vào thực thi, bao gồm 6 
FTA trong khuôn khổ hợp tác 
ASEAN nội và ngoại khối; 
và 4 FTA song phương (với 
Nhật Bản, Chi Lê, Hàn Quốc, 
Liên minh kinh tế Á- Âu). 
Tháng 12/2018, Việt Nam đã 
kết thúc đàm phán CPTPP và 
đang triển khai đàm phán 3 
FTA khác (VCCI, 2018). Các 
FTA thế hệ mới Việt Nam 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
57Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
đang đàm phán và tham gia 
gần đây có phương thức tiếp 
cận trong xây dựng các nội 
dung cam kết khác biệt so với 
phương thức tiếp cận của các 
hiệp định truyền thống điển 
hình là WTO. CPTPP áp dụng 
phương thức “chọn bỏ” thay 
vì phương thức “chọn cho” 
trong WTO hay các cam kết 
trong ASEAN. 
1.1. Lộ trình theo khuôn khổ 
hội nhập thị trường tài chính 
chung ASEAN
Kế hoạch chi tiết 2025 của 
Cộng đồng kinh tế ASEAN 
được các lãnh đạo ASEAN 
thông qua vào năm 2015 tiếp 
tục thực hiện và phát triển 
thêm các mục tiêu, nhiệm 
vụ từ Kế hoạch chi tiết 2015 
đã được thông qua vào năm 
2007. Kế hoạch AEC 2025 chỉ 
rõ lộ trình hội nhập kinh tế nói 
chung và hội nhập TTTC nói 
riêng của Khu vực ASEAN 
trong giai đoạn 2016- 2025 và 
theo đó, Chương trình hành 
động chiến lược hợp nhất (the 
Consolidated Strategic Action 
Plan- CSAP) cho từng nhóm 
mục tiêu hội nhập và từng 
phân khúc thị trường đã được 
xây dựng nhằm giúp các quốc 
gia thành viên nói riêng và 
khu vực ASEAN nói chung 
thực hiện, theo dõi, giám sát 
tiến hình hội nhập và sau 
cùng là hướng tới hoàn thành 
lộ trình hội nhập 2016- 2025 
theo Kế hoạch 2025. 
Theo kế hoạch 2025, ngoài 
lộ trình hội nhập thương mại 
hàng hoá, hội nhập thương 
mại dịch vụ, phát triển môi 
trường đầu tư khu vực, hỗ 
trợ sự dịch chuyển tự do của 
nguồn nhân lực chất lượng và 
đơn vị kinh doanh trong khu 
vực, việc tăng cường hội nhập 
về tài chính và TTTC khu vực 
là một trong những nhiệm vụ 
quan trọng trong lộ trình hội 
nhập kinh tế- tài chính trong 
Cộng đồng kinh tế ASEAN. 
Cụ thể, mục tiêu hội nhập 
TTTC khu vực được thống 
nhất trong Chương trình hành 
động chiến lược 2016- 2025 
là thúc đẩy hội nhập tài chính, 
phổ cập tài chính và ổn định 
tài chính để hỗ trợ tăng trưởng 
và ổn định kinh tế vĩ mô khu 
vực ASEAN. 
Trong số các mục tiêu chiến 
lược và chương trình hành 
động cho khu vực tài chính 
trong giai đoạn thực hiện 
2016- 2025, có một số mục 
tiêu liên quan mật thiết tới 
TTTC và hội nhập TTTC 
trong khu vực ASEAN. Cụ 
thể, theo ASEAN (2017): 
Thứ nhất, tăng cường hội nhập 
tài chính để hỗ trợ thương mại 
và đầu tư nội khu vực ASEAN 
thông qua tăng cường vai trò 
của các ngân hàng nội địa 
quốc gia thành viên, gia tăng 
hội nhập thị trường bảo hiểm 
và phát triển các thị trường 
vốn với mức độ liên kết liên 
thị trường cao.
Thứ hai, thúc đẩy phổ cập tài 
chính để có thể cung cấp sản 
phẩm và dịch vụ tài chính 
tới phân khúc khách hàng 
chưa tiếp cận được rộng rãi 
hơn, bao gồm cả các doanh 
nghiệp quy mô vi mô, nhỏ và 
trung bình (Micro, small and 
medium enterprises- MSMEs).
Thứ ba, đảm bảo ổn định tài 
chính thông qua tiếp tục tăng 
cường cơ sở hạ tầng khu vực, 
đặc biệt trong thời điểm xuất 
hiện căng thẳng khu vực.
Thứ tư, hệ thống thanh toán 
sẽ tiếp tục được tăng cường 
trong một số khu vực như thúc 
đẩy chuẩn hoá và phát triển 
cơ sở hạ tầng thanh toán cho 
các giao dịch thị trường vốn 
xuyên biên giới.
Thứ năm, xây dựng năng lực 
sẽ giúp thu hẹp khoảng cách 
về mức độ phát triển TTTC 
của các nền kinh tế trong khu 
vực. 
Trên cơ sở các mục tiêu nêu 
trên, lộ trình hội nhập TTTC 
khu vực ASEAN nói chung 
và quốc gia thành viên Việt 
Nam nói riêng cho giai đoạn 
2016- 2025 tập trung ở một số 
điểm chính như: (i) Tự do hoá 
các dịch vụ tài chính; (ii) Phát 
triển thị trường vốn; (iii) Hội 
nhập thị trường tiền tệ- ngân 
hàng; (iv) Hội nhập thị trường 
bảo hiểm; (iv) Phát triển hệ 
thống thanh toán khu vực; (v) 
Tăng cường hợp tác giữa các 
quốc gia trong quá trình quản 
lý và giám sát thị trường nhằm 
đảm bảo ổn định TTTC quốc 
gia và khu vực. Trong đó các 
nội dung (iv) và (v) được triển 
khai kết hợp vào lộ trình tự do 
hoá các dịch vụ tài chính cũng 
như các lộ trình hội nhập thị 
trường tiền tệ- ngân hàng, thị 
trường vốn và bảo hiểm.
1.2. Lộ trình hội nhập các 
phân khúc thị trường tài 
chính ASEAN
Thị trường tiền tệ- ngân hàng
Đối với lộ trình hội nhập
cả ba phân khúc thị trường 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
ngân hàng, thị trường vốn và 
thị trường bảo hiểm của các 
quốc gia thành viên ASEAN, 
điểm đầu tiên được nhấn 
mạnh là mục tiêu tự do hoá 
việc cung ứng các dịch vụ tài 
chính theo Hiệp định Khung 
ASEAN về dịch vụ (ASEAN 
Framework Agreement on 
Services- AFAS). AFAS về 
cơ bản được xây dựng dựa 
trên Hiệp định GATS của Tổ 
chức Thương mại Thế giới 
(WTO). Theo lộ trình của các 
Gói cam kết AFAS, các thành 
viên ASEAN cam kết thực 
hiện tự do hoá các ngành và 
phân ngành dịch vụ tài chính 
trên cả bốn phương thức cung 
cấp dịch vụ: (i) Cung cấp dịch 
vụ tài chính qua biên giới; 
(ii) Tiêu dùng ở nước ngoài; 
(iii) Hiện diện thương mại; và 
(iv) Hiện diện thể nhân. Gói 
cam kết gần đây nhất về tự do 
hoá các dịch vụ tài chính là 
Gói cam kết thứ 7 được thông 
qua, ký kết vào 23/6/2016 và 
các nước thành viên ASEAN 
đã đưa ra bản thảo cải thiện 
trong Gói cam kết thứ 8 về 
các phân ngành thuộc lĩnh vực 
bảo hiểm, thị trường vốn và 
ngân hàng, và đã ký kết Nghị 
định thư thực hiện Gói cam 
kết thứ 8 vào tháng 10/2018 
tại Indonesia. 
Theo đó, đối với thị trường 
tiền tệ- ngân hàng, các dịch vụ 
được cam kết tự do hoá trong 
việc cung ứng gồm có: Chấp 
nhận tiền gửi; Cho vay đối với 
mọi đối tượng; Cho thuê tài 
chính; Dịch vụ chuyển tiền và 
thanh toán; Cam kết và Bảo 
đảm; Dịch vụ chuyển giao 
thông tin tài chính; và Dịch vụ 
tư vấn, trung gian tài chính và 
các dịch vụ phụ trợ khác.
Năm 2011, Thống đốc các 
Ngân hàng trung ương 
(NHTW) của các quốc gia 
thành viên ASEAN đã thông 
qua Khung hội nhập tài chính 
ASEAN (ASEAN Financial 
Integration Framework- AFIF) 
hướng tới mục tiêu về TTTC 
bán hội nhập vào năm 2020 
(semi-integrated financial 
market) dựa trên việc đánh 
giá mỗi quốc gia ASEAN có 
những điều kiện ban đầu riêng 
biệt và mỗi quốc gia có những 
mục tiêu, lộ trình riêng để đạt 
được mục tiêu cuối cùng của 
hội nhập TTTC Cộng đồng 
kinh tế ASEAN (AEC). 
Theo AFIF, một trong những 
kế hoạch quan trọng là hội 
nhập thị trường ngân hàng- 
tiền tệ trong khu vực theo 
Khung hội nhập ngân hàng 
ASEAN (ABIF) được các 
thống đốc NHTW các quốc 
gia thành viên ASEAN thông 
qua vào năm 2014. Theo 
ABIF, tăng cường hội nhập 
thị trường ngân hàng khu 
vực sẽ được thực hiện thông 
qua việc tạo lập các Ngân 
hàng ASEAN đủ tiêu chuẩn 
(Qualified ASEAN Banks- 
QABs) từ mỗi quốc gia thành 
viên dựa trên các tiêu chuẩn 
về năng lực tài chính, quản trị 
rủi ro, yêu cầu về tỷ lệ an toàn 
vốn tối thiểu và việc tuân thủ 
các tiêu chuẩn hoạt động an 
toàn. Các QABs sẽ hoạt động 
và tiếp cận thị trường tương 
tự như một ngân hàng nội địa 
tại quốc gia thành viên khác, 
cho phép các ngân hàng này 
có thể tiếp cận sâu rộng thị 
trường các nước ASEAN khác 
với mục tiêu tiến đến áp dụng 
những nguyên tắc tiếp cận, 
đối xử bình đẳng và một môi 
trường công bằng trong ngành 
ngân hàng (ASEAN, 2015b). 
Và hoạt động của QABs được 
kỳ vọng sẽ hỗ trợ tích cực cho 
tiến trình hội nhập TTTC và 
kinh tế trong khu vực ASEAN 
thông qua thúc đẩy cạnh tranh 
giữa các ngân hàng ASEAN, 
tạo điều kiện để phát triển 
rộng mạng lưới các ngân hàng 
khu vực ASEAN có đủ quy 
mô và năng lực cạnh tranh với 
các ngân hàng quốc tế. 
Việc thực hiện ABIF thông 
qua hình thành QABs và 
cung cấp QABs quyền hoạt 
động như ngân hàng nội địa 
ở quốc gia thành viên được 
tiến hành thông qua các hiệp 
định song phương tiếp cận 
giữa hai quốc gia bất kỳ trong 
ASEAN, và các thống đốc 
NHTW các quốc gia thành 
viên ASEAN đặt mục tiêu 
đạt được thoả thuận trong 
ASEAN 5 (Indonesia, Thái 
Lan, Singapore, Philippines 
và Malaysia) vào 2018 và 
giữa toàn bộ 10 nước tham 
gia cam kết (ASEAN 5 và 
nhóm BCLMV gồm Burunei, 
Campuchia, Lào, Myanmar, 
và Việt Nam) vào năm 2020 
(Yamadera, 2017). 
Thị trường vốn
Thị trường vốn, chủ yếu gồm 
thị trường cổ phiếu và thị 
trường trái phiếu, của các 
TTTC các quốc gia thành viên 
ASEAN đang ngày một phát 
triển và gia tăng mức độ hội 
nhập với thị trường khu vực 
và khu vực thế giới. 
Trước tiên, đối với cam kết tự 
do hoá các dịch vụ thị trường 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
59Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
vốn theo Hiệp định Khung 
ASEAN về dịch vụ (AFAS), 
các thị trường vốn ASEAN 
cam kết tự do hoá các dịch 
vụ vốn như: Giao dịch qua 
tài khoản; Phát hành tất cả 
các loại hình chứng khoán; 
Quản lý tài sản; Dịch vụ thanh 
toán bù trừ cho các tài sản tài 
chính; Dịch vụ chuyển giao 
thông tin tài chính; và Dịch vụ 
tư vấn, trung gian tài chính và 
các dịch vụ phụ trợ khác.
Đối với thị trường cổ phiếu, 
Kế hoạch thực hiện cho lộ 
trình Hội nhập thị trường vốn 
ASEAN (Implementation Plan 
for ASEAN Capital Market 
Integration) được phát triển từ 
năm 2009 để hướng dẫn phát 
triển và thực hiện các chương 
trình, kế hoạch tiến tới đạt 
được mức độ kết nối chặt chẽ 
hơn giữa các thị trường vốn ở 
ba khu vực ưu tiên quan trọng 
gồm: (i) Tạo lập môi trường 
thuận lợi cho hội nhập khu 
vực; (ii) xây dựng cơ sở hạ 
tầng thị trường, các trung gian 
và sản phẩm tập trung vào khu 
vực; (iii) tăng cường quy trình 
thực hiện. Cụ thể, các chương 
trình triển khai chính nhằm 
hiện thực hoá kế hoạch ở trên 
gồm có (Rillo, 2018):
- Phát triển khung bản cáo 
bạch chung cho phép các tổ 
chức phát hành đăng kí và sử 
dụng một khung bản cáo bạch 
duy nhất với các tiêu chuẩn 
công bố của ASEAN cho các 
phương án phát hành cổ phiếu 
và trái phiếu xuyên quốc gia 
với một quy trình phê duyệt 
thống nhất. Khu vực ASEAN 
đã tích cực, nỗ lực trong việc 
hài hoà, đồng bộ các tiêu 
chuẩn kế toán, tăng cường sự 
công nhận lẫn nhau về các 
điều khoản, tiêu chuẩn và quy 
định về chuyên gia thị trường 
vốn, tăng cường khuôn khổ 
giải pháp và pháp lý. 
- Sự công nhận lẫn nhau 
về các công cụ đầu tư tín 
thác (Collective Investment 
Schemes- CIS). Theo Khung 
CIS ASEAN (the ASEAN CIS 
Framework) được thông qua 
vào tháng 10/2013 và đưa vào 
thực hiện vào tháng 8/2014, 
các quỹ đầu tư tín thác được 
cấp phép tại một khu vực kinh 
tế sẽ được công nhận và hoạt 
động tại các khu vực kinh 
tế khác trong khu vực. Hiện 
nay, mới chỉ có 3 quốc gia, 
Malaysia, Singapore và Thái 
Lan, thực hiện kế hoạch này 
với 13 Quỹ đầu tư đã được 
triển khai và được công nhận 
theo tiêu chuẩn CIS và được 
phép hoạt động và cung cấp 
cho nhà đầu tư cá nhân tại các 
quốc gia thành viên.
- Để tăng cường tính minh 
bạch của các công ty đại 
chúng, Thẻ điểm quản trị 
doanh nghiệp ASEAN (the 
ASEAN Corporate Scorecard) 
được ban hành năm 2011 dựa 
trên các nguyên tắc quản trị 
doanh nghiệp của Tổ chức 
phát triển và hợp tác kinh tế 
(OECD). 
Đối với thị trường trái phiếu, 
lộ trình hội nhập thị trường 
trái phiếu ASEAN hướng tới 
một số mục tiêu chính như: 
Công bố các chỉ số chuẩn 
thường xuyên, công bố thông 
tin giá trái phiếu sau giao dịch 
(hoặc cuối ngày giao dịch); 
Thông qua Bộ tiêu chuẩn công 
bố thông tin ASEAN đối với 
các chứng khoán nợ (ASEAN 
Debt Securities Disclosure 
Standards); Phát triển sự đa 
dạng của các loại chứng khoán 
trên thị trường (trong đó có 
Tài chính Xanh ASEAN); Cải 
thiện khả năng tiếp cận các 
thị trường trái phiếu (bao gồm 
cả thị trường trái phiếu doanh 
nghiệp và trái phiếu chính 
phủ) đối với nhà đầu tư bán 
lẻ; Duy trì ổn định tài chính 
và phát triển thị trường trên cơ 
sở chia sẻ cơ chế giảm thiểu 
rủi ro giữa các thị trường trái 
phiếu trong khu vực. 
Trong quá trình thực hiện 
hội nhập thị trường trái phiếu 
hướng tới mục tiêu hội nhập 
TTTC Cộng đồng kinh tế 
ASEAN (AEC) 2025, Sáng 
kiến thị trường trái phiếu 
Châu Á (the Asian Bond 
Markets Initiative- ABMI) 
được thông qua vào tháng 
12/2002 bởi ASEAN+3 
(gồm các quốc gia ASEAN 
và Trung Quốc, Nhật Bản, 
Hàn Quốc) nhằm phát triển 
thị trường trái phiếu phát 
hành bằng tiền tệ nội địa 
(local currency (LCY) bond 
markets) và thúc đẩy hợp tác 
TTTC khu vực cũng như góp 
phần giảm thiểu rủi ro đổ vỡ 
của các thị trường thành viên 
trước sự đảo chiều quy mô 
lớn của các dòng vốn nước 
ngoài. Theo ABMI, các nhà 
lãnh đạo từ các quốc gia thành 
viên ASEAN+3 đã thông qua 
lộ trình trung hạn vào năm 
2008, tập trung vào 4 mục tiêu 
chính: (i) thúc đẩy phát hành 
các trái phiếu bằng đồng nội 
tệ (LCY-denominated bonds) 
đối với cả trái phiếu doanh 
nghiệp và trái phiếu chính 
phủ; (ii) hỗ trợ phía cầu trái 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
phiếu phát hành bằng đồng 
nội tệ; (iii) tăng cường khuôn 
khổ pháp lý; (iv) cải thiện 
cơ sở hạ tầng thị trường trái 
phiếu (ADB, 2017). 
Cũng ... sử dụng (Ngô Trung Dũng, 
2017).
Do vậy trong thời gian tới, để 
thực hiện chiến lược hội nhập 
thị trường tài chính Việt Nam 
đến năm 2025, thì lộ trình hội 
nhập thị trường bảo hiểm Việt 
Nam nên tập trung vào: 
Giai đoạn 2018- 2025: Tăng 
cường năng lực cạnh tranh, 
cơ sở hạ tầng và an toàn tài 
chính của thị trường bảo hiểm 
trong nước và tiếp tục hội 
nhập thị trường bảo hiểm khu 
vực 
- Tăng cường năng lực trạnh 
tranh cho các đơn vị cung 
cấp sản phẩm bảo hiểm trong 
nước trước sự xâm nhập của 
các tổ chức bảo hiểm khu vực 
và quốc tế vào Việt Nam.
- Tiếp tục khuyến khích, thúc 
đẩy đa dạng hoá sản phẩm bảo 
hiểm, mở rộng kênh phân phối 
và mức độ bao phủ sản phẩm 
bảo hiểm trên thị trường nội 
địa tạo lợi thế cạnh tranh.
- Nâng cao hiệu quả hoạt 
động, chất lượng quản trị hoạt 
động và quản trị rủi ro của các 
đơn vị cung cấp dịch vụ bảo 
hiểm, trên cơ sở đó khuyến 
khích các công ty bảo hiểm 
cung ứng sản phẩm bảo hiểm 
sang các thị trường bảo hiểm 
trong khu vực, mở rộng quy 
mô hoạt động và nâng cao 
năng lực cạnh tranh trên thị 
trường khu vực.
- Tăng cường cơ chế thanh tra, 
giám sát hoạt động của đơn vị 
kinh doanh dịch vụ bảo hiểm 
để giảm thiểu rủi ro hệ thống 
toàn thị trường bảo hiểm và 
tăng khả năng chống đỡ trước 
rủi ro từ thị trường bảo hiểm 
khu vực.
- Tiếp tục tăng cường cơ sở 
hạ tầng thị trường bảo hiểm 
thông qua hoàn thiện khung 
pháp lý ngành bảo hiểm theo 
các tiêu chuẩn quản lý khu 
vực và quốc tế, tạo điều kiện 
dễ dàng cho việc khuyến 
khích hoạt động, quản lý, 
giám sát đối với hoạt động 
cung cấp dịch vụ bảo hiểm 
xuyên biên giới của đơn vị 
cung cấp sản phẩm dịch vụ 
bảo hiểm trong nước cũng như 
đối với đơn vị cung cấp bảo 
hiểm khu vực và quốc tế vào 
Việt Nam.
- Tiếp tục triển khai thực hiện 
các cam kết tự do hoá dịch vụ 
bảo hiểm theo Gói cam kết 
AFAS thứ 6 và thứ 7 và tăng 
cường kết nối, trao đổi thông 
tin cũng nhưng học hỏi kinh 
nghiệm phát triển các cơ chế 
giảm thiểu rủi ro bảo hiểm tại 
các thị trường khu vực.
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
66 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
chính sách công đến các khu 
vực kinh tế khác. Một số dự 
án sử dụng vốn đầu tư công 
hiệu quả thấp. Một số doanh 
nghiệp nhà nước hoạt động 
kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, 
nhiều dự án đầu tư lớn của các 
tập đoàn chậm tiến độ, thua 
lỗ, lãng phí, phải dừng đầu tư. 
Tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh 
nghiệp nhà nước, thoái vốn 
đầu tư ngoài ngành cần phải 
thực hiện quyết liệt và đẩy 
nhanh hơn.
Thứ ba, cung ứng vốn từ một 
hệ thống tài chính hiện đại 
hóa cần tiếp tục giữ vai trò 
chủ chốt trong tổng vốn đầu 
tư toàn xã hội, tiếp tục vai trò 
đòn bẩy hỗ trợ tăng trưởng ở 
mức cao và bền vững. Đây sẽ 
là một yêu cầu tất yếu khách 
quan trong bối cảnh đổi mới 
mô hình tăng trưởng và hội 
nhập kinh tế quốc tế ngày 
càng sâu rộng.
(2) Hội nhập TTTC phải đi 
đôi với ổn định tài chính nhằm 
kiểm soát hiệu quả rủi ro về 
kinh tế vĩ mô và tài chính. 
Hội nhập TTTC cần thực hiện 
trong mối quan hệ tăng cường 
giám sát rủi ro hệ thống tài 
chính. Trong quá trình hội 
nhập TTTC sâu rộng, việc 
thực hiện tự do hoá lĩnh vực 
tài chính- ngân hàng có độ 
nhạy cảm cũng như mức ảnh 
hưởng rất lớn đến sự ổn định 
của hệ thống tài chính quốc 
gia, và do vậy, ảnh hưởng lớn 
đến môi trường kinh doanh 
cho các doanh nghiệp hoạt 
động. “Để hạn chế các ảnh 
hưởng tiêu cực từ việc hội 
nhập tài chính nhằm ổn định 
tài chính và ngăn ngừa khủng 
hoảng, một trong các điều 
- Xây dựng kế hoạch cam kết 
và thực hiện cam kết tự do hoá 
thị trường bảo hiểm và tái bảo 
hiểm thảm hoạ (catastrophic 
insurance).
- Xây dựng cơ chế và khung 
giám sát thị trường bảo 
hiểm theo nguyên tắc lõi của 
Hiệp hội các đơn vị giám 
sát bảo hiểm quốc tế (the 
International Association of 
Insurance Supervisors- IAIS).
Giai đoạn 2022- 2025: Đẩy 
mạnh hợp tác khu vực và hội 
nhập khu vực về tự do hoá 
dịch vụ bảo hiểm
- Triển khai thực hiện cam kết 
tự do hoá dịch vụ bảo hiểm và 
tái bảo hiểm thảm hoạ.
- Triển khai thực hiện cơ chế 
và khung giám sát theo chuẩn 
nguyên tắc lõi của Hiệp hội 
các đơn vị giám sát bảo hiểm 
quốc tế (the International 
Association of Insurance 
Supervisors- IAIS) nhằm tăng 
cường an toàn tài chính và 
giảm thiểu rủi ro hội nhập cho 
thị trường bảo hiểm nội địa.
3. Đề xuất điều kiện thực 
hiện
Với lộ trình hội nhập TTTC 
nêu trên, nhóm tác giả đề xuất 
một số giải pháp điều kiện để 
thực thi hiệu quả chiến lược 
đề ra:
(1) Các yếu tố vĩ mô đóng vai 
trò nền tảng, không thể tách 
rời trong tiến trình hội nhập 
TTTC. Phát triển TTTC hiệu 
quả, đổi mới mô hình tăng 
trưởng và ổn định kinh tế vĩ 
mô là 3 trụ cột chính cho nền 
kinh tế tăng trưởng cao và bền 
vững. Do đó, những điều kiện 
vĩ mô cần thiết cho hội nhập 
TTTC hiệu quả sẽ là:
Thứ nhất, đổi mới mô hình 
tăng trưởng để nâng cao năng 
suất lao động của nền kinh 
tế và duy trì tăng trưởng bền 
vững. Trong giai đoạn 2018-
2020, đẩy mạnh và quyết 
liệt hơn tái cơ cấu nền kinh 
tế một cách thực chất, thực 
hiện thành công chuyển đổi 
mô hình tăng trưởng dựa trên 
năng suất hướng đến tích lũy 
tri thức, công nghệ, thay vì chỉ 
chú trọng quy mô tăng trưởng.
Theo Nghị quyết 24/2016/
QH14 về kế hoạch cơ cấu lại 
nền kinh tế giai đoạn 2016-
2020, mục tiêu tăng năng 
suất các nhân tố tổng hợp 
(TFP) giai đoạn 2016-2020 
đạt khoảng 30-35% và dần 
thu hẹp khoảng cách năng 
lực cạnh tranh quốc gia với 
ASEAN-4. Đồng thời, cần chú 
trọng phát triển động lực tăng 
trưởng kinh tế- khu vực doanh 
nghiệp trong nước; tiếp tục 
cải thiện môi trường đầu tư 
và kinh doanh của Việt Nam 
ngang tầm khu vực, năng lực 
cạnh tranh toàn cầu của Việt 
Nam cần được tăng lên rõ rệt.
Thứ hai, đi đôi với việc tăng 
trưởng kinh tế cao, cần tiếp 
tục củng cố ổn định vĩ mô, 
quyết liệt hơn trong thực hiện 
tái cơ cấu nền kinh tế nhằm 
củng cố tài khóa, xử lý dứt 
điểm những yếu tố đe dọa 
bất ổn vĩ mô như nợ xấu, xử 
lý các ngân hàng yếu kém 
Giải quyết các vấn đề liên 
quan đến nợ công và thâm 
hụt ngân sách như nợ đọng 
thuế còn lớn; giải ngân vốn 
trái phiếu chính phủ đạt thấp, 
làm giảm hiệu ứng lan tỏa của 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
67Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
Tài liệu tham khảo
1. ADB (2017), The ASIAN Bond Markets Initiative: Policy Maker Achievements and Challenges.Retrieved on December 9, 2018 
from: https://www.cbd.int/financial/greenbonds/adb-asianbondmarkets2017.pdf
2. ASEAN (2012a), ASEAN Economic Community 2025 Strategic Action Plan (SAP) For Financial Integration from 2016 – 2015. 
Retrieved on December 8, 2018 from: https://asean.org/storage/2012/05/SAP-for-Financial-Integration-2025-For-publication.pdf
3. ASEAN (2012b), ASEAN Debt Securities Disclosure Standards. Retrieved on December 9, 2018 from: https://www.asean.org/
uploads/2012/10/ASEAN-Debt-Standards.pdf
4. ASEAN (2014), The Principles for Product Transparency and Disclosure of Bank Charges. Retrieved on December 9, 2018 from: 
https://www.bot.or.th/Thai/PressAndSpeeches/Press/News_2558/n0258t_annex.pdf
5. ASEAN (2015a), Protocol to Implement the Sixth Package on Financial Services under the ASEAN Framework Agreement on Services. 
Retrieved on December 8, 2018 from:https://asean.org/storage/2016/12/Consolidated-AFAS-6-SOCs-with-ABIF-Commitments.pdf
6. ASEAN (2015b), Joint Statement of the ASEAN Finance Ministers’ and Central Bank Governnors’ Meeting (AFMGM). 
Retrieve on December 9, 2018 from: https://asean.org/wp-content/uploads/2012/05/ANNEX-13.1-Joint-Statement-1st-AFMGM-21-
kiện quan trọng là tăng cường 
giám sát rủi ro hệ thống, 
bởi vì, việc tham gia vào thị 
trường tài chính quốc tế bản 
thân nó không gây ra khủng 
hoảng tài chính nhưng việc 
thiếu vắng một cơ chế giám 
sát tài chính thích hợp và hiệu 
quả thì hội nhập tài chính 
có thể tạo ra nhiều vấn đề 
đáng lo ngại” (Đỗ Việt Hùng, 
2016).
(3) Sự tự do lưu chuyển các 
nguồn lực là một trong những 
điều kiện cơ bản của tiến trình 
hội nhập TTTC, trong đó vốn 
là nguồn lực chính (Vũ Chí 
Dũng, 2008). Để thực hiện 
được điều này cần phải có một 
khung pháp lý tài chính lành 
mạnh, đặc biệt là một vị thế 
tài chính vững chắc; không có 
những biến dạng lớn trong giá 
cả do chính sách bảo hộ quá 
mức; và quan trọng hơn cả 
là phải xây dựng được chính 
sách kiểm soát được dòng vốn 
để cho các nhà đầu tư nắm 
bắt. Một khi được kết hợp 
với những chính sách kinh tế 
vĩ mô khác, kiểm soát vốn sẽ 
làm thay đổi một cách hợp lý 
kết cấu của dòng vốn chảy vào 
theo hướng chúng ta ngầm 
khuyến khích các dòng vốn 
dài hạn.
(4) Xây dựng vững chắc cơ 
sở hạ tầng thị trường bao 
gồm các tiện nghi trong lĩnh 
vực ngân hàng và dịch vụ tài 
chính. Những tiêu chuẩn quốc 
tế về cơ sở hạ tầng trên TTTC 
là những chuẩn mực cần được 
tham khảo và vận dụng cho 
phù hợp. Có hai vấn đề cần 
phải lưu ý đến trong quá trình 
hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ 
tầng của TTTC: (1) Cải thiện 
tốc độ thanh toán thường gắn 
liền với mức độ rủi ro trong 
hệ thống thông tin và (2) mặc 
dù cần thiết phải đẩy nhanh 
tốc độ phát triển của các định 
chế tài chính trung gian để 
tăng khả năng cạnh tranh 
nhưng việc đề cao những tiêu 
chuẩn mà các thành viên tham 
gia thị trường phải đáp ứng 
đầy đủ cũng rất quan trọng, 
bởi lẽ nó làm tăng tính an toàn 
của thị trường và cải thiện 
niềm tin của nhà đầu tư.
(5) TTTC trong nước phải 
có năng lực cạnh tranh cao. 
Hội nhập sâu rộng tạo ra áp 
lực cạnh tranh lớn cho các tổ 
chức tài chính trong nước. Sự 
tham gia của các ngân hàng 
nước ngoài, các công ty chứng 
khoán, công ty bảo hiểm và 
các định chế tài chính khác 
vào thị trường trong nước 
làm tăng mức độ cạnh tranh. 
Nhiều tổ chức tài chính nước 
ngoài có quy mô lớn, năng 
lực tài chính mạnh, trình độ 
công nghệ, quản lý cao, hệ 
thống sản phẩm đa dạng và 
có chất lượng cao đáp ứng 
đa dạng nhu cầu khách hàng. 
Các tổ chức này sẽ cạnh tranh 
trực tiếp với các tổ chức tài 
chính trong nước, đe doạ các 
tổ chức tài chính yếu kém. Do 
đó, tăng cường năng lực cạnh 
tranh luôn là điều kiện mà thị 
trường cần có khi tham gia hội 
nhập quốc tế nhằm tránh nguy 
cơ bị thất thế, chèn ép và thôn 
tính bởi các nhân tố bên ngoài 
(Vũ Chí Dũng, 2008).
(6) TTTC trong nước sẽ dần 
trở thành một phần của TTTC 
khu vực và thế giới, trong 
đó biến động lãi suất, tỷ suất 
sinh lời của các tài sản tài 
chính sẽ theo quy luật một 
giá trong khu vực hội nhập. 
Để thực hiện được điều này, 
điều kiện đặt ra là quá trình 
hội nhập TTTC nói chung 
và từng bộ phận TTTC nói 
riêng đều hướng tới các chuẩn 
mực, thông lệ quốc tế về giao 
dịch, quản lý, công bố thông 
tin, chuẩn mực trong kế toán, 
kiểm toán ■
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
March-2015_final.pdf
7. ASEAN (2015c), Insurance Sector Integration: Supporting Growth through Better Risk Management. Retrieved on December 
9, 2018 from: https://www.asean.org/storage/images/2015/October/outreach-document/Edited%20Insurance%20Sector%20
Integration-1.pdf
8. ASEAN (2015d), ASEAN Framework Agreement on Services. Retrieved on December 8, 2018 from: https://www.asean.org/
storage/images/2015/september/Articles-on-AEC-2015/Edited%20AFAS.pdf
9. ASEAN (2016), Protocol to Implement the Seventh Package on Financial Services under the ASEAN Framework Agreement on Services. 
Retrieved on December 8, 2018 from: https://seven02.s3.amazonaws.com/2S58/1498966163.8d20511b22ea67b71437f32545739cb0.pdf
10. ASEAN (2017), ASEAN Economic Community 2025 Consolidated Strategic Action Plan. Retrieved on December 8, 2018 from: 
https://asean.org/storage/2017/02/Consolidated-Strategic-Action-Plan.pdf
11. Do, T. K. Hao., Chu, K. Lan., Nguyen, M. Phuong (2017). Vietnam Banking System in the Context of ASEAN Financial 
Integration. Retrieved on December 9, 2018 from: 
12. Ngọc Hà (2016). Khát vọng hội nhập thị trường trái phiếu ASEAN. Truy cập ngày 9/12/2018 từ: https://tinnhanhchungkhoan.vn/
trai-phieu/khat-vong-hoi-nhap-thi-truong-trai-phieu-asean-174063.html
13. Ngô, Trung Dũng (2017), Bảo hiểm thời hội nhập: Được nhiều hơn mất. Truy cập ngày 10/12/2018 từ: https://
tinnhanhchungkhoan.vn/bao-hiem/bao-hiem-thoi-hoi-nhap-duoc-nhieu-hon-mat-174375.html
14. Ravi Menon (2015), ASEAN Financial Integration: Where Are We, Where Next. Retrieved on December 9, 2018 from: http://
www.mas.gov.sg/news-and-publications/speeches-and-monetary-policy-statements/speeches/2015/asean-financial-integration-
where-are-we-where-next.aspx
15. Rillo, A. D. (2018). ASEAN Financial Integration: Opportunities, Risks, and Challenges. Policy Research Institute, Ministry of 
Financie, Japan, Public Policy Reviews, Vol. 14, No. 5.
16. Suryasnia, S., Primiana, I., Scherly, S., and Herwany, A. (2016). Banking Strategy and Implementation of Banking ASEAN 
Integration Framework(ABIF)in ASEAN Community (AEC)’s Era 2020 ERA 2020. Retrieved on December 9, 2018 from: https://
mpra.ub.uni-muenchen.de/73303/1/MPRA_paper_73303.pdf
17. VCCI (2018), Tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến tháng 11/2018. Truy cập 
tong-hop-cac-fta-cua-viet-nam-tinh-den-thang-112018
18. Yamadera, S. T. (2017). ASEAN Financial Integration towards ASEAN 2025: Call for A Well-Coordinated Supervisor and 
Regulatory Framework. Retrieved on December 9, 2018 from: https://www.uniglobalunion.org/sites/default/files/files/news/4.
presentation_by_satoru_yamaders_adb_0.pdf
Thông tin tác giả
Trần Thị Xuân Anh, Tiến sĩ
Email: anhttx@hvnh.edu.vn
Ngô Thị Hằng, Thạc sĩ
Email: ngohang@hvnh.edu.vn
Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng
Summary
Determining Strategy and Roadmap for Financial Market Integration of Vietnam for the period 2019- 2025
Financial market integration is highly considered a foreseeable future for any country living in the world of globalization, 
in which involving countries gradually and proactively take steps into opening up the their markets and liberalizing 
financial areas, aiming to reaching the final goal of deeply integrating into the global and regional financial markets. 
To implementing those steps and realizing that goal, countries will obviously establish their appropriate pathways 
tailored to their specific economic and political conditions. Therefore, the financial market integration process has 
been always sticked to a particular space and time span, and there is nothing so-called full financial integration 
at any single country. Vietnam, on the way to financial market integration state, has been participating a series of 
FTA, agreements and commitments of ASEAN, ASEM, APEC,  . In this regard, this paper will comprehensively 
introduce the financial integration roadmap of Vietnam under committed agreements, and eventually propose the 
viable strategy and roadmap for Vietnam’s financial integration for the period 2019- 2015. 
Key words: Financial market integration, WTO, ASEAN, AEC, FTA.
Anh Thi Xuan Tran, PhD. 
Hang Thi Ngo, M.Ec. 
Organization of all: Finance Faculty, Banking Academy 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_chien_luoc_va_lo_trinh_hoi_nhap_thi_truong_tai_chin.pdf