Xác định luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

(WTO), các quan hệ phát sinh từ

hợp đồng mua bán hàng hóa có

yếu tố nước ngoài ngày càng trở

nên đa dạng và phức tạp. Sự khác

nhau về môi trường kinh doanh,

phong tục tập quán và khoảng cách

địa lý đã làm cho các bên tham gia

ký kết hợp đồng thường gặp khó

khăn trong việc tìm hiểu hệ thống

pháp luật của phía đối tác. Từ đó,

việc xác định luật áp dụng cho

hợp đồng cũng như để bảo vệ lợi

ích của doanh nghiệp VN khi giải

quyết các tranh chấp phát sinh từ

hợp đồng tất yếu sẽ gặp nhiều khó

khăn. Pháp luật là một trong những

yếu tố quan trọng nhất để đưa nền

kinh tế VN hội nhập ngày càng sâu

hơn vào hoạt động kinh tế thế giới.

pdf 5 trang kimcuc 7160
Bạn đang xem tài liệu "Xác định luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xác định luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Xác định luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Số 4 - Tháng 4/2010 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Doanh nghiệp & Thương mại quốc tế
29
Ngày nay, sự phát triển của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế đã và đang 
ngày càng khẳng định vai trò của 
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài. Tại VN, khi các hoạt 
động xuất nhập khẩu ngày càng trở 
nên tấp nập, cùng với sự kiện VN 
chính thức trở thành thành viên 
của Tổ chức Thương mại Quốc tế 
(WTO), các quan hệ phát sinh từ 
hợp đồng mua bán hàng hóa có 
yếu tố nước ngoài ngày càng trở 
nên đa dạng và phức tạp. Sự khác 
nhau về môi trường kinh doanh, 
phong tục tập quán và khoảng cách 
địa lý đã làm cho các bên tham gia 
ký kết hợp đồng thường gặp khó 
khăn trong việc tìm hiểu hệ thống 
pháp luật của phía đối tác. Từ đó, 
việc xác định luật áp dụng cho 
hợp đồng cũng như để bảo vệ lợi 
ích của doanh nghiệp VN khi giải 
quyết các tranh chấp phát sinh từ 
hợp đồng tất yếu sẽ gặp nhiều khó 
khăn. Pháp luật là một trong những 
yếu tố quan trọng nhất để đưa nền 
kinh tế VN hội nhập ngày càng sâu 
hơn vào hoạt động kinh tế thế giới. 
Chính vì vậy, để góp phần nâng 
cao năng lực cạnh tranh của doanh 
nghiệp VN cũng như góp phần đưa 
hệ thống pháp luật VN tiến gần 
hơn các chuẩn mực pháp lý chung 
của quốc tế, việc tìm hiểu vấn đề 
xác định luật áp dụng trong hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài là một 
điều cần 
thiết.
1. Sự cần 
thiết của việc 
xác định luật 
Về nguyên tắc, hợp đồng mua 
bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài, 
còn gọi là hợp đồng mua bán hàng 
hóa quốc tế, có nội dung tương tự 
như hợp đồng mua bán hàng hóa 
trong nước. Điểm khác biệt cơ bản 
của 2 loại hợp đồng này chính là 
sự xuất hiện của yếu tố nước ngoài 
trong hợp đồng mua bán hàng hóa 
quốc tế. Vì vậy, việc xác định “tính 
quốc tế” trong hợp đồng mua bán 
hàng hóa có yếu tố nước ngoài là 
điều cần thiết. Điều này không chỉ 
có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn 
có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp 
lý. Bởi vì nếu là hợp đồng nội địa 
sẽ hoàn toàn do pháp luật trong 
nước điều chỉnh, còn nếu là hợp 
đồng quốc tế thì sẽ liên quan đến 
nhiều hệ thống pháp luật khác nhau 
có liên quan và khi đó vấn đề lựa 
chọn pháp luật áp dụng sẽ đặt ra 
như là một yêu cầu bắt buộc.
1.1 Khái niệm hợp đồng 
mua bán hàng hóa có 
yếu tố nước ngoài
Hiện nay, trong 
khoa học pháp lý 
VN chưa có một 
khái niệm thống 
nhất về hợp 
đồng mua 
bán hàng 
hóa quốc tế. 
Trong các 
văn bản 
p h á p 
luật của 
V N 
c h ỉ 
sử 
dụng thuật ngữ “hợp 
đồng mua bán hàng hóa với thương 
nhân nước ngoài”. Dưới góc độ 
pháp lý, hai thuật ngữ “Hợp đồng 
mua bán hàng hóa quốc tế” và 
“Hợp đồng mua bán hàng hóa với 
thương nhân nước ngoài” đều cùng 
có điểm chung là có sự tham gia 
của chủ thể nước ngoài. Do đó, 
một trong những tiêu chí thường 
được sử dụng để xác định “tính 
quốc tế” của hợp đồng mua bán 
hàng hóa là quốc tịch của chủ thể 
tham gia quan hệ hợp đồng mua 
bán đó. Khi chủ thể tham gia hợp 
đồng mua bán hàng hóa có quốc 
tịch khác nhau thì đó là hợp đồng 
mua bán hàng hóa quốc tế. Nhiều 
nước, trong đó có VN, áp dụng tiêu 
chí này. Bên cạnh đó, pháp luật một 
số nước khác lại xác định tính quốc 
 BÀNH QUỐC TUẤN*
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 4 - Tháng 4/2010
Doanh nghiệp & Thương mại quốc tế
30
tế của hợp đồng mua bán hàng hóa 
theo tiêu chí lãnh thổ. Theo đó, hợp 
đồng mua bán hàng hóa quốc tế là 
hợp đồng được ký kết bởi các chủ 
thể có trụ sở nằm trên lãnh thổ các 
quốc gia khác nhau. Tiêu chí này 
được nhiều điều ước quốc tế có liên 
quan đến hợp đồng mua bán quốc 
tế ghi nhận. Ví dụ: Công ước Viên 
1980 về hợp đồng mua bán hàng 
hóa quốc tế, Công ước Lahay 1986 
về luật áp dụng cho hợp đồng mua 
bán hàng hóa quốc tế được xây 
dựng trong phạm vi UNCITRAL, 
1.2 Tại sao phải xác định luật áp 
dụng trong hợp đồng mua bán 
hàng hóa có yếu tố nước ngoài
Mặc dù tiêu chí để xác định 
tính quốc tế của hợp đồng mua bán 
hàng hóa có thể khác nhau nhưng 
pháp luật của các quốc gia đều 
thừa nhận vấn đề lựa chọn pháp 
luật áp dụng đối với hợp đồng mua 
bán hàng hóa quốc tế là một công 
việc bắt buộc nếu muốn hợp đồng 
đó thực hiện trên thực tế. Khi một 
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài được ký kết và thực 
hiện trên thực tế thì hàng loạt vấn 
đề phát sinh đòi hỏi các bên phải 
giải quyết. Ví dụ: hình thức của 
hợp đồng, chủ thể có thẩm quyền 
ký kết hợp đồng, điều kiện có hiệu 
lực của hợp đồng,  Xuất phát từ 
yếu tố chủ quyền quốc gia, mỗi 
quốc gia đều ban hành hệ thống 
pháp luật để điều chỉnh các quan 
hệ xã hội và quy định của pháp 
luật các quốc gia khác nhau thì sẽ 
khác nhau trong việc điều chỉnh 
các quan hệ xã hội. Điều này xuất 
phát từ sự khác biệt về phong tục 
tập quán, trình độ phát triển kinh 
tế xã hội, chế độ chính trị,  Đây 
chính là nguyên nhân dẫn đến hiện 
tượng cùng một vấn đề trong hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu tố 
nước ngoài nhưng cách giải quyết 
sẽ khác nhau dẫn đến kết quả cũng 
khác nhau khi áp dụng các hệ 
thống pháp luật của các quốc gia 
khác nhau. Những vấn đề cơ bản 
các bên có thể gặp phải và phải lựa 
chọn luật áp dụng để giải quyết khi 
tham gia hợp đồng mua bán quốc 
tế gồm:
- Hình thức của hợp đồng: Một 
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài phải đáp ứng được 
cả yêu cầu về nội dung và hình 
thức mà trước tiên là yêu cầu về 
hình thức. Pháp luật của hầu hết các 
nước đều có quy định về điều kiện 
hình thức của hợp đồng, theo đó, 
hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý và 
được pháp luật thừa nhận sự tồn tại 
khi có hình thức phù hợp với yêu 
cầu của pháp luật. Tuy nhiên, pháp 
luật các nước lại quy định về hình 
thức của hợp đồng khác nhau. Điều 
này dẫn đến cùng một hợp đồng 
mua bán hàng hóa quốc tế nhưng ở 
nước này được xem là có hình thức 
phù hợp và được công nhận nhưng 
ở nước kia lại không được công 
nhận vì không đáp ứng được điều 
kiện về hình thức do pháp luật của 
quốc gia đó quy định. Vấn đề đặt ra 
không phải là xem hệ thống pháp 
luật nào hợp lý hơn hệ thống pháp 
luật nào mà phải lựa chọn được hệ 
thống pháp luật nào có mối liên 
hệ mật thiết nhất và có liên quan 
nhất để từ đó đối chiếu hình thức 
của hợp đồng với quy định của hệ 
thống pháp luật này xem đã phù 
hợp hay chưa.
Để giải quyết vấn đề này có 
nhiều nguyên tắc được đưa ra. Các 
nước Đông Âu, Bắc Âu, Tây Âu, 
một số nước châu Mỹ áp dụng 
nguyên tắc “Luật nơi ký kết hợp 
đồng”, theo đó, pháp luật được 
áp dụng để xác định hình thức 
của hợp đồng là pháp luật nơi hợp 
đồng được ký kết. Nguyên tắc này 
cũng được ghi nhận tại Điều 770 
Bộ Luật dân sự năm 2005 của VN, 
theo đó: “Hình thức của hợp đồng 
phải tuân theo pháp luật của nước 
nơi giao kết hợp đồng”.
- Nội dung của hợp đồng: Đây 
là thành phần quan trọng nhất của 
một hợp đồng nói chung và hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài nói riêng. Một hợp 
đồng có nội dung càng chi tiết, cụ 
thể thì càng dễ thực hiện trên thực 
tế và khi phát sinh tranh chấp càng 
dễ giải quyết. Xuất phát từ nguyên 
tắc tự nguyện, bình đẳng trong giao 
kết hợp đồng, pháp luật các nước 
đều quy định trong hệ thống pháp 
luật nước mình nguyên tắc xác định 
tính hợp pháp của nội dung hợp 
đồng là nguyên tắc tự thỏa thuận 
của các bên tham gia. Như vậy, đối 
với một hợp đồng mua bán hàng 
hóa quốc tế, các bên tham gia đều 
có quyền thỏa thuận mọi vấn đề 
liên quan đến nội dung hợp đồng, 
trong đó quan trọng nhất là quyền 
và nghĩa vụ của các bên, biện pháp 
chế tài, thậm chí các bên còn có 
Tiến trình hội nhập đòi hỏi mỗi quốc gia phải 
hài hòa các vấn đề của quốc gia mình sao cho 
tương thích với những chuẩn mực chung đã 
được thừa nhận trên thế giới.
Số 4 - Tháng 4/2010 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Doanh nghiệp & Thương mại quốc tế
31
quyền thỏa thuận chọn luật áp 
dụng để giải quyết tranh chấp. Tuy 
nhiên, trên thực tế khi một tranh 
chấp liên quan đến hợp đồng mua 
bán quốc tế phát sinh sẽ có trường 
hợp các bên không thỏa thuận luật 
áp dụng hoặc thỏa thuận chung 
chung, luật do các bên lựa chọn 
không được chấp nhận,  Trong 
những trường hợp như vậy, việc 
lựa chọn một hệ thống pháp luật áp 
dụng để giải quyết quyền và nghĩa 
vụ của các bên trong hợp đồng bắt 
buộc phải thực hiện nếu muốn giải 
quyết tranh chấp liên quan đến hợp 
đồng này.
Để giải quyết vấn đề này nhiều 
nguyên tắc được ghi nhận trong 
pháp luật các nước: Luật nơi thực 
hiện hợp đồng, theo nguyên tắc 
này luật áp dụng giải quyết quyền 
và nghĩa vụ của các bên trong hợp 
đồng là pháp luật của nước nơi hợp 
đồng được ký kết; Luật nước người 
bán, theo nguyên tắc này luật áp 
dụng sẽ là luật của nước nơi người 
bán mang quốc tịch; Luật có mối 
liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng; 
 Theo Điều 769 Bộ Luật dân sự 
năm 2005 của VN, trong trường 
hợp các bên không thỏa thuận luật 
áp dụng hoặc sự thỏa thuận không 
được chấp nhận thì quyền và nghĩa 
vụ của các bên theo hợp đồng được 
xác định theo pháp luật của nước 
nơi thực hiện hợp đồng, trừ trường 
hợp hợp đồng được giao kết có liên 
quan đến bất động sản tọa lạc tại 
VN thì phải áp dụng luật VN.
- Điều kiện có hiệu lực của hợp 
đồng: Hợp đồng mua bán quốc 
tế có hiệu lực tức là có khả năng 
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ 
của các bên tham gia hợp đồng. 
Tuy nhiên, những quyền và nghĩa 
vụ này chỉ có giá trị ràng buộc về 
mặt pháp lý và được pháp luật đảm 
bảo thực hiện khi hợp đồng được 
xem là hợp pháp, tức đáp ứng 
được các điều kiện có hiệu lực do 
pháp luật đặt ra. Chính vì vậy, việc 
xác định các điều kiện có hiệu lực 
của hợp đồng mua bán quốc tế sẽ 
quyết định toàn bộ kết quả thực 
hiện hợp đồng. Điều kiện có hiệu 
lực của hợp đồng mua bán hàng 
hóa quốc tế được quy định trong 
hệ thống pháp luật của các quốc 
gia và không phụ thuộc vào luật áp 
dụng cho nội dung của hợp đồng. 
Có hai vấn đề khi xem xét đến điều 
kiện có hiệu lực của một hợp đồng 
là: thời điểm nào một hợp đồng 
phát sinh hiệu lực và chủ thể tham 
gia ký kết hợp đồng phải đáp ứng 
những điều kiện gì thì có đủ năng 
lực ký kết hợp đồng. Pháp luật các 
nước có cách giải quyết khác nhau 
về hai vấn đề này:
Thứ nhất, để xác định thời điểm 
có hiệu lực của hợp đồng pháp luật 
các nước áp dụng nguyên tắc “Luật 
nơi ký kết hợp đồng”, theo đó, Luật 
của nước nơi ký kết hợp đồng sẽ 
được áp dụng để xác định thời 
điểm hợp đồng có hiệu lực.
Thứ hai, về năng lực của các 
bên tham gia ký kết hợp đồng, 
pháp luật các nước áp dụng nguyên 
tắc “Luật quốc tịch”, theo đó, luật 
của nước nơi chủ thể ký kết mang 
quốc tịch sẽ được áp dụng để xác 
định năng lực chủ thể của bên ký 
kết; nguyên tắc “Luật nơi cư trú”, 
theo đó bên ký kết cư trú ở đâu sẽ 
áp dụng luật của quốc gia đó để xác 
định năng lực ký kết hợp đồng.
Theo pháp luật VN, điều kiện 
có hiệu lực của hợp đồng được xác 
định theo pháp luật của nơi ký kết 
hợp đồng hay luật nơi thực hiện 
hợp đồng. Nếu hợp đồng mua bán 
quốc tế đó có liên quan đến bất 
động sản thì áp dụng luật của nước 
nơi có bất động sản đó.
Phân tích ba vấn đề cơ bản của 
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc 
tế chúng ta thấy việc chọn luật 
áp dụng để điều chỉnh các vấn đề 
có liên quan là hoạt động xuyên 
suốt quá trình ký kết và thực hiện 
hợp đồng. Những vấn đề trên nếu 
không được giải quyết một cách 
triệt để thì hợp đồng mua bán hàng 
hóa quốc tế sẽ không thể thực hiện 
được trên thực tế hoặc nếu thực 
hiện thì khi phát sinh tranh chấp sẽ 
không thể giải quyết được. Chính 
vì vậy, việc lựa chọn hệ thống pháp 
luật để áp dụng cho hợp đồng mua 
bán hàng hóa quốc tế là một yêu 
cầu quan trọng đối với các bên khi 
tham gia vào hợp đồng này. 
2. Một số vấn đề phát sinh từ 
thực tiễn và đề xuất góp phần 
nâng cao khả năng xác định 
luật 
Những năm gần đây, cùng với 
việc ngày càng tham gia sâu hơn 
vào các hoạt động kinh tế quốc tế 
thì những yêu cầu về xác định luật 
áp dụng đối với hợp đồng mua bán 
hàng hóa quốc tế ở VN ngày càng 
trở nên cấp thiết khi mà vai trò của 
loại hợp đồng này ngày càng trở 
nên quan trọng và những vấn đề có 
liên quan cũng như tranh chấp liên 
quan đến loại hợp đồng này ngày 
càng nhiều và phức tạp. Nhiều vấn 
đề phát sinh trên thực tiễn đòi hỏi 
phải nghiên cứu một cách nghiêm 
túc để tìm giải pháp xử lý nhằm 
góp phần hoàn thiện pháp luật VN, 
thúc đẩy hoạt động mua bán quốc 
tế phát triển.
2.1 Xác định tính quốc tế của hợp 
đồng mua bán hàng hóa
Đây là một vấn đề có ý nghĩa 
về mặt lý luận nhưng lại liên quan 
mật thiết đến việc lựa chọn pháp 
luật áp dụng cho hợp đồng. Trong 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 4 - Tháng 4/2010
Doanh nghiệp & Thương mại quốc tế
32
xu thế phát triển ngày càng mạnh 
mẽ của hoạt động kinh tế quốc tế 
hiện nay, hoạt động thương mại 
quốc tế không còn bị giới hạn 
trong lĩnh vực mua bán hàng hóa 
mà còn được mở rộng sang lĩnh 
vực thương mại dịch vụ, sở hữu trí 
tuệ. Do đó, hợp đồng thương mại 
có yếu tố nước ngoài không còn 
giới hạn bởi các hợp đồng mua bán 
hàng hóa quốc tế mà còn nhiều loại 
hợp đồng khác như hợp đồng dịch 
vụ, hợp đồng chuyển nhượng các 
tài sản liên quan đến quyền sở hữu 
trí tuệ, nhưng hợp đồng mua bán 
hàng hóa quốc tế vẫn là loại hợp 
đồng thương mại có yếu tố nước 
ngoài quan trọng nhất. Tuy nhiên, 
tại VN hiện nay, để xác định một 
hợp đồng mua bán có yếu tố nước 
ngoài hay không là một vấn đề 
phức tạp.
Hiện nay trong khoa học pháp lý 
VN, chưa có một cách thức thống 
nhất để xác định tính quốc tế của 
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài. Trên thế giới nhiều 
học giả đã cố gắng giải quyết vấn 
đề bằng cách đưa ra nhiều phương 
pháp khác nhau để xác định tính 
quốc tế của một hợp đồng. Ví dụ: 
Thuyết quốc tịch của chủ thể ký kết 
hợp đồng (điển hình là Anh, Mỹ), 
thuyết lãnh thổ của Công ước Viên 
1980,  Như đã trình bày ở phần 
trên, theo pháp luật VN, khi chủ 
thể tham gia hợp đồng mua bán 
hàng hóa có quốc tịch khác nhau 
thì đó là hợp đồng mua bán hàng 
hóa quốc tế. Tuy nhiên, trong thực 
tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng 
mua bán hàng hóa quốc tế, việc 
xác định tính quốc tế theo dấu hiện 
quốc tịch của chủ thể ký kết gặp 
rất nhiều khó khăn và trong một 
số trường hợp không thể xác định 
được. Cụ thể:
Pháp luật của nhiều quốc gia 
xác định quốc tịch của pháp nhân 
không giống nhau. Một số nước áp 
dụng “Thuyết nơi đăng ký” để xác 
định quốc tịch pháp nhân, theo đó, 
pháp nhân đăng ký ở quốc gia nào 
thì mang quốc tịch của quốc gia 
đó; Một số nước xác định quốc tịch 
pháp nhân theo “Thuyết nơi có trụ 
sở chính”, theo đó, pháp nhân đặt 
trụ sở chính ở nước nào sẽ mang 
quốc tịch của nước đó; Ngoài ra 
một số nước còn áp dụng “Thuyết 
nơi hoạt động”, theo đó, pháp nhân 
hoạt động chủ yếu ở nước nào sẽ 
mang quốc tịch của nước đó. Vấn 
đề sẽ phức tạp khi chủ thể của một 
nước có quan điểm xác định quốc 
tịch pháp nhân khác với VN ký kết 
hợp đồng mua bán hàng hóa với 
pháp nhân VN. Có thể theo pháp 
luật nước đó hợp đồng này là hợp 
đồng có yếu tố nước ngoài nhưng 
theo pháp luật VN hợp đồng này 
là hợp đồng hoàn toàn VN và phải 
được áp dụng pháp luật VN để điều 
chỉnh.
Nếu xác định tính quốc tế của 
hợp đồng dựa trên dấu hiệu quốc 
tịch trong một số trường hợp sẽ 
không giải quyết được vấn đề. Ví 
dụ: Công ty A được đăng ký thành 
lập trên lãnh thổ của Pháp nhưng 
lại có trụ sở chính tại Anh (Pháp 
là nước theo “Thuyết nơi có trụ sở 
chính”, Anh là nước theo “Thuyết 
nơi đăng ký”). Như vậy, theo pháp 
luật của Pháp, Công ty A có quốc 
tịch của Anh, còn theo luật của Anh 
Công ty A có quốc tịch của Pháp. 
Vậy khi Công ty A ký kết hợp đồng 
bán hàng cho một công ty VN và 
các bên thỏa thuận luật áp dụng là 
luật của nước người bán thì sẽ áp 
dụng luật của Pháp hay luật của 
Anh?
Chính vì những lý do trên mà 
trong thực tiễn thương mại quốc tế 
người ta không áp dụng nguyên tắc 
quốc tịch để xác định tính quốc tế 
của hợp đồng mua bán hàng hóa 
có yếu tố nước ngoài mà thường 
áp dụng nguyên tắc lãnh thổ. Theo 
nguyên tắc này, khi các bên ký kết 
hợp đồng mua bán hàng hóa có trụ 
sở chính ở các lãnh thổ khác nhau 
thì đó là hợp đồng mua bán hàng 
hóa có tính quốc tế bởi vì lãnh thổ 
của quốc gia thì có ranh giới rất rõ 
ràng và mang tính chủ quyền tuyệt 
đối. Trên thực tế không thể có một 
vùng lãnh thổ vừa thuộc về chủ 
quyền của quốc gia này lại vừa 
thuộc về chủ quyền của quốc gia 
khác. Công ước Viên 1980 về hợp 
đồng mua bán hàng hóa quốc tế 
cũng áp dụng nguyên tắc lãnh thổ 
khi xác định một hợp đồng mua 
bán hàng hóa có yếu tố quốc hay 
không. Đây là một vấn đề VN cần 
xem xét đưa vào pháp luật quốc gia 
khi điều chỉnh quan hệ hợp đồng 
mua bán hàng hóa quốc tế.
2.2 Xác định pháp luật áp dụng để 
điều chỉnh thẩm quyền đại diện của 
doanh nghiệp tham gia ký kết hợp 
đồng.
Chủ thể tham gia ký kết hợp 
đồng mua bán hàng hóa quốc 
tế tại VN thường là các doanh 
nghiệp. Và một điều đương nhiên, 
khi tham gia các giao dịch doanh 
nghiệp phải có người đại diện và 
phải thông qua người đại diện. Tuy 
nhiên, pháp luật các nước quy định 
về người đại diện của doanh nghiệp 
khác với pháp luật VN và vấn đề sẽ 
phức tạp khi doanh nghiệp của các 
nước đó ký kết hợp đồng mua bán 
hàng hóa với doanh nghiệp VN. 
Thực tiễn pháp lý VN gần đây cho 
thấy những tranh chấp liên quan 
đến thẩm quyến đại diện của doanh 
nghiệp trong quan hệ mua bán 
Số 4 - Tháng 4/2010 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Doanh nghiệp & Thương mại quốc tế
33
quốc tế xảy ra ngày càng nhiều và 
để giải quyết vấn đề cần phải trả lời 
cho được câu hỏi pháp luật nước 
nào sẽ áp dụng để xác định thẩm 
quyền đại diện. Để chứng minh, 
tác giả xin nêu ra một ví dụ:
Ngày 20/4/1993 Công ty Novus 
của Nga ký hợp đồng và hai phụ 
lục hợp đồng với Công ty Vinatex 
của VN. Theo nội dung các văn 
bản trên, Công ty Novus sẽ bán cho 
Công ty Vinatex một số lượng thép 
xây dựng. Đại diện phía Nga ký 
hợp đồng là ông Malitski – Tổng 
giám đốc Công ty Novus và đại 
diện phía VN là ông Bàng – đại 
diện thương mại Công ty Vinatex 
tại Nga. Thời gian sau hai bên phát 
sinh tranh chấp và chiều hướng 
bất lợi thuộc về phía công ty Nga. 
Vì vậy, trong quá trình giải quyết 
tranh chấp phía Nga cho rằng ông 
Bàng không có đủ thẩm quyền ký 
kết hợp đồng và phụ lục hợp đồng 
vì theo pháp luật của Nga chỉ có 
Tổng giám đốc mới có toàn quyền 
ký kết tất cả các văn bản, hợp đồng 
của công ty và phía Nga yêu cầu 
tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu 
vì người ký kết không đủ thẩm 
quyền. Phía VN phản đối vì cho 
rằng ông Bàng là đại diện thương 
mại của Công ty Vinatex và được 
phân công phụ trách những vấn đề 
thương mại của công ty tại Nga, 
đây là một dạng ủy quyền thường 
xuyên, nên theo pháp luật VN ông 
Bàng hoàn toàn có đủ tư cách ký 
kết hợp đồng.
Để biết ông Bàng có thẩm quyền 
ký kết giao dịch trên hay không 
chúng ta phải xác định được pháp 
luật nước nào sẽ được áp dụng để 
giải quyết vấn đề thẩm quyền đại 
diện của doanh nghiệp. Ở đây có 
hai hệ thống pháp luật đều có thể 
được sử dụng: pháp luật Nga và 
pháp luật VN. Kết quả của việc lựa 
chọn pháp luật này rất quan trọng 
vì nó quyết định toàn bộ quá trình 
gảii quyết tranh chấp. Nếu pháp 
luật của Nga được áp dụng rõ ràng 
hợp đồng đã ký kết sẽ bị tuyên bố 
vô hiệu còn nếu pháp luật VN được 
lựa chọn hợp đồng được công nhận 
và tòa án sẽ tiếp tục giải quyết 
tranh chấp về nội dung hợp đồng. 
Tuy nhiên, dựa trên nguyên tắc nào 
để xác định luật của Nga hay luật 
của VN sẽ được áp dụng là câu hỏi 
không dễ trả lời.
Thực trạng pháp luật VN hiện 
nay chưa đưa ra một nguyên tắc 
thống nhất để chọn luật áp dụng. 
Để hiểu rõ vấn đề hơn, tác giả xin 
nêu ra một số nguyên tắc giải quyết 
trên thế giới đã được áp dụng:
- Giải pháp thứ nhất, áp dụng 
pháp luật của nước nơi ký kết hợp 
đồng. Theo giải pháp này, pháp 
luật được áp dụng để giải quyết 
tranh chấp về thẩm quyền ký kết 
hợp đồng là pháp luật của nước nơi 
hợp đồng được ký kết. Giải pháp 
này thuận lợi ở chỗ rất dễ dàng để 
xác định nơi hợp đồng được ký kết 
và như như vậy dễ dàng xác định 
được luật áp dụng. Tuy nhiên, một 
số ý kiến cho rằng giải pháp này 
không hợp lý bởi vì trên thực tế có 
rất nhiều trường hợp hợp đồng ký 
kết ở một nước nhưng lại thực hiện 
hoàn toàn ở một nơi khác mà phần 
lớn các tranh chấp liên quan đến 
hợp đồng là tranh chấp về nội dung 
hợp đồng, tức kết quả của quá trình 
thực hiện hợp đồng. Nên nếu áp 
dụng luật nơi ký kết, mà nơi ký kết 
lại không liên quan gì đến kết quả 
thực hiện hợp đồng, để giải quyết 
tranh chấp là không có cơ sở.
- Giải pháp thứ hai, áp dụng 
pháp luật của nước nơi hợp đồng 
được thực hiện để xác định luật áp 
dụng giải quyết tranh chấp về thẩm 
quyền. Giải pháp này do những 
người có quan điểm đối lập với 
giải pháp trên đề ra. Theo quan 
điểm của giải pháp này, các bên 
tham gia hợp đồng chủ yếu quan 
tâm đến nội dung của hợp đồng 
và kết quả thực hiện nội dung đó 
trên thực tế, còn hình thức của hợp 
đồng và những vấn đề khác không 
liên quan đến nội dung hợp đồng 
không có vai trò quyết định đối với 
kết quả thực hiện hợp đồng cũng 
như những lợi ích mà các bên có 
thể đạt được từ hợp đồng. Vì vậy, 
để giải quyết mọi vấn đề có liên 
quan đến hợp đồng, kể cả việc lựa 
chọn luật áp dụng phải xuất phát từ 
nội dung của hợp đồng.
Mỗi giải pháp đều có cơ sở lý 
luận riêng của mình. Tuy nhiên, 
xuất phát từ góc độ pháp lý chúng 
ta dễ dàng nhận thấy vấn đề thẩm 
quyền ký kết hợp đồng không liên 
quan đến nội dung hợp đồng mà 
thuộc về phạm vi chủ thể của hợp 
đồng. Do vậy, để giải quyết các 
tranh chấp liên quan đến vấn đề 
chủ thể không nên và cũng không 
thể áp dụng pháp luật nơi thực hiện 
hợp đồng bởi như đã trình bày ở 
trên, nơi thực hiện hợp đồng trên 
thực tế thường không liên quan gì 
đến nơi ký kết hợp đồng. Vì vậy, 
theo quan điểm tác giả, pháp luật 
VN nên ghi nhận nguyên tắc nơi 
ký kết hợp đồng là nguyên tắc xác 
định luật áp dụng giải quyết vấn đề 
thẩm quyền ký kết hợp đồng.
(Xem tiếp trang 48)

File đính kèm:

  • pdfxac_dinh_luat_ap_dung_trong_hop_dong_mua_ban_hang_hoa_co_yeu.pdf