Việt nam trong quan hệ Pháp - Trung năm 1884: Một góc nhìn Trung Quốc

Nam du nhật ký là ghi chép của Trịnh Quan Ứng – một trí thức - doanh

nhân Trung Quốc trong chuyến công du tới một số quốc gia ở vùng biển phía

nam quốc gia này vào năm 1884. Trong công vụ này, họ Trịnh đã tới đất Sài

Gòn của Việt Nam, qua Thái Lan (khi ấy được gọi là vương quốc Xiêm La),

Singapour và gặp gỡ những nhân vật Hoa kiều danh giá, thành đạt về địa vị

chính trị và năng lực kinh tế.

Theo lời nói đầu của Hạ Đông Nguyên khi biên tập ấn bản Trịnh Quan

Ứng tập năm 1982,(1) Trịnh Quan Ứng được đánh giá là nhà tư tưởng theo

khuynh hướng cải cách, một thành viên của giai cấp tư sản Trung Quốc thời cận

đại, thừa hưởng truyền thống môi giới thương mại của gia tộc ở Quảng Đông và

bản thân có thâm niên kinh doanh công thương nghiệp. Trong 65 năm tham

gia các hoạt động xã hội từ thập niên sáu mươi của thế kỷ XIX tới thập niên 20

của thế kỷ XX, Trịnh Quan Ứng từng đảm trách nhiều vị trí chủ chốt trong các

hoạt động kinh doanh hàng hải Anh Quốc và Trung Quốc. Kinh doanh chuyên

nghiệp song tư tưởng chủ đạo của họ Trịnh là “phú cường cứu quốc”. Điều này in

dấu rõ rệt trong mọi hành động và trước tác của ông. Nam du nhật ký thuộc tập

thượng của Trịnh Quan Ứng tập, là một tác phẩm thuộc nội dung ghi chép tư

tưởng và hoạt động xã hội của Trịnh Quan Ứng, trong tương quan với hệ thống

sáng tác khác về y dược và quan niệm mê tín phong kiến của ông.

 

pdf 12 trang kimcuc 14360
Bạn đang xem tài liệu "Việt nam trong quan hệ Pháp - Trung năm 1884: Một góc nhìn Trung Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Việt nam trong quan hệ Pháp - Trung năm 1884: Một góc nhìn Trung Quốc

Việt nam trong quan hệ Pháp - Trung năm 1884: Một góc nhìn Trung Quốc
145Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ PHÁP-TRUNG NĂM 1884: 
MỘT GÓC NHÌN TRUNG QUỐC
 Việt Anh*
Khai phá giá trị tư liệu du ký của Trịnh Quan Ứng
Nam du nhật ký là ghi chép của Trịnh Quan Ứng – một trí thức - doanh 
nhân Trung Quốc trong chuyến công du tới một số quốc gia ở vùng biển phía 
nam quốc gia này vào năm 1884. Trong công vụ này, họ Trịnh đã tới đất Sài 
Gòn của Việt Nam, qua Thái Lan (khi ấy được gọi là vương quốc Xiêm La), 
Singapour và gặp gỡ những nhân vật Hoa kiều danh giá, thành đạt về địa vị 
chính trị và năng lực kinh tế. 
Theo lời nói đầu của Hạ Đông Nguyên khi biên tập ấn bản Trịnh Quan 
Ứng tập năm 1982,(1) Trịnh Quan Ứng được đánh giá là nhà tư tưởng theo 
khuynh hướng cải cách, một thành viên của giai cấp tư sản Trung Quốc thời cận 
đại, thừa hưởng truyền thống môi giới thương mại của gia tộc ở Quảng Đông và 
bản thân có thâm niên kinh doanh công thương nghiệp. Trong 65 năm tham 
gia các hoạt động xã hội từ thập niên sáu mươi của thế kỷ XIX tới thập niên 20 
của thế kỷ XX, Trịnh Quan Ứng từng đảm trách nhiều vị trí chủ chốt trong các 
hoạt động kinh doanh hàng hải Anh Quốc và Trung Quốc. Kinh doanh chuyên 
nghiệp song tư tưởng chủ đạo của họ Trịnh là “phú cường cứu quốc”. Điều này in 
dấu rõ rệt trong mọi hành động và trước tác của ông. Nam du nhật ký thuộc tập 
thượng của Trịnh Quan Ứng tập, là một tác phẩm thuộc nội dung ghi chép tư 
tưởng và hoạt động xã hội của Trịnh Quan Ứng, trong tương quan với hệ thống 
sáng tác khác về y dược và quan niệm mê tín phong kiến của ông. 
Tác phẩm du ký của họ Trịnh được phương Tây biết tới nhờ khảo cứu của 
học giả Pháp, trước tiên là của Claudine Salmon và tiếp đó là công bố chung 
của bà cùng với Tạ Trọng Hiệp.(2) Qua đó, người đọc được biết về chuyến công 
du tới Nam Kỳ (Việt Nam) của Trịnh Quan Ứng vào năm 1884:
“ diễn ra vào đêm trước của cuộc chiến Pháp-Trung, có mục đích là sẵn 
sàng thế phòng vệ người Pháp ở Nam Kỳ, với hy vọng tiến hành công kích họ. 
Trịnh Quan Ứng (1842-1922) – nhà ái quốc chuyên môi giới kinh doanh đồng 
thời cũng là nhà cải cách – được giao nhiệm vụ đi nắm bắt thực lực của đối 
phương ở các nơi và mời gọi sự hợp tác tài chính của những đại thương gia 
Hoa kiều (Singapour, Pinang, Bangkok); thế nhưng có nhiều sự kiện diễn 
ra dồn dập và sứ mệnh của ông đã kết thúc một cách đột ngột. Tuy vậy du 
ký của ông mang tên “Nam du nhật ký” đã được gửi gắm cho các nhà chỉ huy 
quân sự ở Quảng Đông, những người đã ký thác cho ông sứ mệnh cũng như 
đã chứng thực với ông như một bước mở đầu cho trọng trách của dự định này. 
Văn bản này ban đầu rơi vào lãng quên, về sau đã được xuất bản ở Đài Loan 
* Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam.
TƯ LIỆU
146 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
với hình thức bản sao chụp vào năm 1965, rồi được tái bản sau đó ở Trung 
Quốc lục địa.”(3)
Các nhà khảo cứu tiên phong cho rằng văn bản Nam du nhật ký vào thời 
điểm mới ra đời đã bị quên lãng. Cần nhắc lại, đây là ghi chép trong một sứ 
mệnh có tính bảo mật theo chủ ý của những người lãnh đạo đương thời. Có 
thể chăng, việc xuất bản tác phẩm này như là một sự giải mật vào thời điểm 
thích hợp?
Dù sao, kết quả khảo cứu tư liệu du ký này của Claudine Salmon đóng góp 
đáng kể cho những nghiên cứu tiếp theo về Trung Quốc và các quốc gia liên 
quan, nhất là có ý nghĩa quan trọng đối với nghiên cứu về Việt Nam và Sài Gòn 
của Việt Nam giai đoạn thuộc Pháp. Có thể tìm thấy lời tưởng thưởng dành cho 
Claudine Salmon qua một bài viết của học giả Léon Vandermeersch được xuất 
bản năm 2008.(4) Trong đó, ông cho biết:
“Ghi chép về lịch sử Việt Nam được Trịnh Quan Ứng biên soạn trong 
phụ lục của ‘Nam du nhật ký’ là nội dung của một đoạn giới thiệu ngắn trong 
nghiên cứu xuất sắc của Claudine Salmon được mang tên ‘Trois regards chinois 
sur le Vietnam des années 1880-1890’ [Ba quan sát của người Trung Quốc về 
Việt Nam những năm 1880-1890].”(5)
Đoản văn mà Vandermeersch đề cập là một trong số phụ lục của Nam du 
nhật ký có tên “Việt Nam lập quốc thất quốc nguyên ủy” [Nguồn ngọn dựng nước 
mất nước của Việt Nam]. Đây là bài luận súc tích về lịch sử Việt Nam khởi từ 
thượng cổ tới nửa sau thế kỷ XIX. Hạn chế phân tích, bình luận sự kiện, Trịnh 
Quan Ứng rành mạch đi theo diễn tiến lịch đại để hệ thống hành trình lịch sử 
của nước Việt. Trong bài viết của mình, đối với phụ lục này, Vandermeersch đề 
cập theo nguồn của Claudine Salmon, cung hiến chế bản chữ Hán (tương đối 
khó đọc vì chữ nhỏ) và dịch, chú thích ra Pháp văn dựa vào nguyên bản Hán 
văn được ấn hành tại Thượng Hải năm 1982. 
Diễn dịch tư liệu du ký của Trịnh Quan Ứng
Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX đối diện và chứng kiến nhiều biến cố lịch sử 
lớn không chỉ với riêng nước Việt. Năm 1884, Việt Nam chính thức trở thành 
thuộc địa toàn phần của thực dân Pháp. Cùng thời điểm, cuộc chiến Pháp-Trung 
nổ ra. Năm này, Trung Quốc thêm một lần chấp nhận ký với Pháp bản điều ước 
Thiên Tân bất bình đẳng, trong đó có những điều khoản áp đặt tương tự như 
nhà Nguyễn của Việt Nam phải gánh chịu: nhượng địa, bồi thường chiến phí
Trước đó một năm, chính quyền nhà Thanh, đặc biệt là những người cai 
quản vùng đất Lưỡng Quảng (Quảng Đông-Quảng Tây) giáp Việt Nam đã cắt 
cử một công vụ mật tới Việt Nam và các quốc gia khác trong vùng biển phía 
nam để tìm cách đương đầu với sức mạnh Pháp. Từ công vụ mật này, một tác 
phẩm du ký có tên Nam du nhật ký được biên soạn vào năm 1884. Trong đó, 
đoản văn “Việt Nam lập quốc thất quốc nguyên ủy” tái hiện một cách cô đọng 
diễn tiến lịch sử nhiều biến động của Việt Nam trong tương quan với các nước, 
đồng thời phản ảnh sắc nét quan niệm của người Trung Quốc về vị thế của Việt 
Nam trong thế cuộc.
147Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
Sau đây là bản dịch Việt văn một số đoạn trong Nam du nhật ký có khả 
năng cung hiến tới độc giả nhiều tư liệu về chuyến công du mật năm 1884 của 
một tác giả Trung Quốc tới Việt Nam và quan điểm của tác giả về nước Việt, 
nhất là toàn bộ đoản văn về ngọn nguồn dựng nước, mất nước của Việt Nam từ 
truyền thuyết tới sử liệu.
Bài tự tựa sách “Nam du nhật ký”(6)
Từ khi hưng thịnh những sáng chế do người Tây phát minh về tàu thủy, 
đường sắt thì không nơi hiểm yếu nào không tới được, không chốn xa xôi nào 
không nối thông. Cho nên kẻ sĩ được thích chí bốn phương, thường coi việc đi 
khắp địa cầu là một thú vui lớn. Đại khái từ nay về sau được nhìn thấy những 
gì chưa từng thấy, được nghe thấu những gì chưa từng được nghe. Tôi rất 
ngưỡng mộ điều này, chỉ bởi việc công chồng chất chưa được toại nguyện.
Xuân này bọn mọi Pháp xâm chiếm đất Việt Nam [của] ta, Đại Tư mã 
Bành Ngọc Lân chuyên quản phòng thủ miền Quảng Đông có tâu [bề trên] xin 
điều Quan Ứng tới đất Điền Việt, truyền hịch đi Sài Gòn, Xiêm La để trinh 
thám tình hình quân địch. Riêng nghĩ người Pháp từ Paris tới miền Hoa Hạ, 
đường thủy tới hơn hai vạn lý, đáng lẽ không thể mãi kiêu căng, thế mà lại 
có thể thôn tính những nơi phên giậu [của ta], gây phiến loạn miền Hoa Hạ. 
Người ta chỉ thấy thế lực bành trướng của nó mà không thấy [hết] được cái khí 
chất đã mục ruỗng của nó, cho nên [nó] phải lấy đất Sài Gòn làm chốn hội tụ 
để lấy đường vận chuyển. Thế thì tôi cho rằng ngày nay muốn mưu tính [đương 
đầu] với Pháp, nếu không phải tính ở Sài Gòn thì còn tính ở đâu được đây? 
Tuy nhiên, không dễ dàng gì. Người Pháp từ niên hiệu Hàm Phong thứ 9 
[1859] chiếm đoạt Sài Gòn, đặt chức trách Thống đốc cai quản cả miền, kinh 
dinh kiến thiết 12 năm không chút ngơi tay, ngoài thời hòa hảo với lân bang, 
trong thời nuôi dã tâm thôn tính. Các đảo của Xiêm La, Miến Điện không biết 
đoàn kết, bị rơi vào túi tham của kẻ đó. Nếu có thể uyển chuyển không ngừng 
tìm mưu tính kế, hợp cùng Trung Quốc chung sức chế ngự kẻ mạnh bên ngoài 
thì không chỉ người Pháp không đáng sợ mà cả người Anh cũng không dám 
kiêu hùng chiếm ngự đất Nam Dương.
Chuyến đi này của tôi: đầu tiên tới Sài Gòn, tiếp đó sang Xiêm La [Thái 
Lan], sau nữa tới Kim Biên [Phnom Penh], cũng muốn từ Sài Gòn theo tàu biển 
tới các xứ Tân Châu, Quảng Ngãi, Hội An; rồi vào Hà Nội, ra Hải Phòng, về 
lại vùng Bắc Hải của Liêm Châu.(7) Muốn nắm bắt tận cùng hình thế, duyên 
hải, ranh giới Trung-Việt, thấu hiểu hết thảy căn cơ cốt yếu thực lực của kẻ di 
mọi. Tiếc là Lạng Sơn khởi loạn,(8) rong ruổi chưa khắp, bị trở ngại phải trở ra, 
điều này thực trong dạ không thỏa nguyện. Thế nhưng xem những hang ổ của 
người Pháp, những thiết kế thực thi của nước di mọi, quy mô đại lược nói chung 
như vậy thì cũng đáng là mối lo muôn một đó! Nếu thói thường coi việc thăm 
thú quả đất tròn là cuộc đại du lịch, thì chắc hẳn có phần thẹn ở chuyến này.
Niên hiệu Quang Tự năm thứ 10 [1884], năm Giáp Thân, tháng mạnh thu 
[tháng 8], Hương Sơn Trịnh Quan Ứng kính cẩn đề tại trai phòng Dung Kinh 
Chú Sử(9) thuộc thư viện Ứng Nguyên tại Dương Thành.(10)
148 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
Ngọn nguồn dựng nước, mất nước của Việt Nam(11)
 [Các vấn đề] thế hệ, diên cách của Việt Nam đã được Tổng đốc [Quảng 
Tây] Từ Hiểu Sơn(12) nói kỹ trong tác phẩm “Việt Nam tập lược”. Đại để, thời 
thượng cổ đã có tên là Giao Chỉ, tự xưng là hậu duệ của Thần Nông, sau hiệu 
là Lạc Hùng thị. Thời nhà Chu có họ Việt Thường sống ở phía nam Giao Chỉ, 
vương tử nhà Thục diệt họ Lạc Hùng xưng An Dương Vương. Tần Thủy Hoàng 
thâu tóm vùng đất này, đặt làm ba quận. Đầu đời Hán, Nam Việt Vương diệt 
An Dương Vương. Đến lượt [đời Hán] Vũ Đế diệt Nam Việt, đặt [chế độ] quận 
huyện; đến thời đại Ngũ quý(13) đều là quận huyện của Trung Quốc. Thời Đường 
đặt ra đạo An Nam, khởi tên An Nam từ đó, đương thời tương đương các vùng 
An Đông, An Tây, An Bắc. Đầu niên hiệu Càn Đức (963-968) đời Tống, phong 
Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương, thế là thành đất di mọi [chư hầu của 
thiên triều]. Giữa niên hiệu Thuần Hy [1174-1189],(14) tiến phong Lý Thiên Tộ 
làm An Nam quốc vương. Danh xưng An Nam trở thành tên nước bắt đầu từ 
đó. Từ đời Tống tới đời Minh, năm họ Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ nối nhau đều 
nhận phong từ Trung Quốc. Khoảng giữa niên hiệu Vĩnh Lạc [1402-1424](15) 
thảo phạt cha con Hồ Nhất Nguyên,(16) bình định nước này, đưa trở lại [chế độ] 
quận huyện. Lê Lợi phản nghịch, rồi biết quay đầu nhận tội, được [thiên triều] 
trao quyền quản An Nam quốc sự, vậy là thành cát cứ. Khoảng giữa niên hiệu 
Chính Thống [1435-1449],(17) phong con của Lợi là Lân(18) làm An Nam quốc 
vương. Đến triều đại [Thanh quốc] đương thời, hai họ Lê, Nguyễn đều chịu 
sách phong [từ Trung Quốc]. Từ niên hiệu Thuần Hy đời Tống tới nay, nước 
này đều mang tên là An Nam. Tên gọi Việt Nam được khởi từ Thái Tổ của 
vương triều hiện tại.
Ban đầu, hậu duệ của bề tôi vương triều nhà Lê là Nguyễn Kim lập quốc 
ở miền Nông Nại,(19) đời con cháu suy vi, trước đó bị An Nam vương Nguyễn 
Quang Bình(20) bức bách phải nương thân miền biên cảnh Xiêm La; đến đời 
Nguyễn Phúc Ánh khởi binh nơi đảo Phú Quốc thuộc tỉnh Hà Tiên, có điềm lạ 
là đôi kình ngư bảo hộ tàu thuyền,(21) thế là khôi phục được địa bàn cũ đồng 
thời diệt được An Nam quốc vương Nguyễn Quang Bình. Rồi dâng biểu tới 
[thiên triều] xin được phong, nói rằng nước này là đất cũ của họ Việt Thường, 
nay gồm cả An Nam, xin lấy tên Việt Nam làm tên nước; liền được phong làm 
Việt Nam quốc vương, khi ấy là niên hiệu Gia Khánh(22) năm thứ sáu [1801]. Ấy 
là Thái Tổ Cao vương [nhà Nguyễn], niên hiệu Gia Long, tại vị 18 năm. Người 
con trai kế thừa là Nhân vương Phúc Noãn,(23) niên hiệu Minh Mệnh, tại vị 21 
năm. Người con trai kế thừa là Chương vương Phúc Miên,(24) niên hiệu Thiệu 
Trị, tại vị 7 năm. Người con trai kế thừa là vị vương đương nhiệm Phúc Thì, 
niên hiệu Tự Đức. Niên hiệu Quang Tự thứ 9 tức là năm Tự Đức thứ 35 (1882), 
[vị vua này] không có con, dự định chọn trong số ba người cháu ruột lựa lấy 
người hiền để lập làm thừa kế.
Đầu niên hiệu Hàm Phong,(25) giáo sĩ Pháp Quốc đi truyền giáo ở Việt 
Nam, người hùa theo đông lắm, khác biệt so với Nho giáo, khi ấy hai bên công 
kích nhau, từng giết năm vị giáo sĩ người Pháp. Pháp Quốc tính dấy binh hỏi 
tội mà chưa có kết quả. Đến khi người Anh gây việc ở Trung Quốc, quân Pháp 
149Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
cũng dự vào. Sau hòa ước [Thiên Tân 1858] được lập, người Pháp chuyển quân 
tấn công Việt Nam, niên hiệu Hàm Phong thứ tám [1858] chiếm lấy trấn Hội 
An thuộc tỉnh Quảng Nam, nay mang tên là Tourane [Độ Dan].(26) Khi tiến 
công Thuận Hóa, binh lính [Pháp] không hợp thủy thổ, nhiều phần tử vong 
và thương tích, [quân Pháp] bèn chuyển hướng sang Gia Định, đến niên hiệu 
Hàm Phong thứ chín (1859) thì chiếm trọn miền đất này. Người Pháp nuôi chí 
giữ hận báo thù, ban đầu không muốn chiếm cứ đất này, rồi sau thấy đất đai 
màu mỡ, tàu buôn tấp nập, rất đáng giá đất lành cho việc thông thương. Khi 
ấy người Anh đã sở hữu Singapour, Hông Kông, người Pháp cũng manh nha ý 
định chiếm cứ [thuộc địa]. Bèn tâu xin Hoàng đế Pháp Quốc cho lấy Gia Định, 
thiết lập bến tàu. Rồi đề nghị với Espagne [Y Sĩ Ban quốc] tức Đại Lữ Tống 
quốc để mượn quân. Nữ hoàng nước ấy có quan hệ hôn nhân thân thiết với 
Hoàng đế nước Pháp,(27) liền khởi mấy ngàn binh ở Tiểu Lữ Tốn ...  mất nước tức là khi tuột khỏi sự phụ thuộc của Trung 
Quốc, rơi vào sự dẫn dắt của chủ thể khác.
Vị thế chiếu dưới của Việt Nam trong thế cuộc chính trị đương thời hiển 
hiện rành mạch trong ghi chép của Trịnh Quan Ứng - một học giả Trung Quốc 
153Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
có xu hướng hoạt động chính trị. Dù vậy, qua góc nhìn khắt khe cố hữu của một 
người Trung Quốc có tầm vóc đa quốc gia về tư tưởng và độ từng trải, không ít 
chiêm nghiệm dành cho Việt Nam có thể rút ra. 
Tám thập niên kể từ giữa thế kỷ XIX khi người Pháp từng bước chiếm hữu 
Việt Nam, cũng là chừng ấy thời gian người Trung Quốc – hiện hữu là các lực 
lượng quân sự bạo loạn thất thế từ Trung Quốc tràn sang – khuấy nhiễu khắp 
Bắc Kỳ. Những cánh tàn quân này, đồng thời với việc gây rối đời sống nhân 
dân địa phương, cũng đem đến không ít tổn thất quân sự-kinh tế cho người 
Pháp. Như thể hiện trong đoản văn “Việt Nam lập quốc thất quốc nguyên ủy” 
của Trịnh Quan Ứng, đây chính là những lực lượng Trung Quốc duy trì được 
trong nhiều năm hoạt động tấn công-phòng ngự người Pháp ở Bắc Kỳ. Cho đến 
khi họ (quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, quân viện trợ từ Lưỡng Quảng sang) 
thất thế thoái lui về mạn biên giới phía bắc Việt Nam, “Thế là các tỉnh Bắc Kỳ 
của Việt Nam đều thuộc về tay người Pháp”.
Bắc Kỳ về vị trí địa lý có nhiều tỉnh là biên giới Việt-Trung, là những 
vùng đất mà Trung Quốc am hiểu tường tận và nhiều lần xâm phạm qua hằng 
thế kỷ. So với Nam Kỳ, miền Bắc nước Việt gần hơn cho Trung Quốc khi cần 
can thiệp quân sự để điều khiển chính trị. Việt Nam trong truyền thống cũng 
bao phen dốc sức toàn quốc bảo vệ biên giới phía bắc. Trịnh Quan Ứng từ Trung 
Quốc nhưng có cái nhìn khác: nung nấu chí hướng công kích sức mạnh Pháp, 
chấn hưng Trung Quốc, tái thiết vị thế quốc gia trên thế giới, ông nhận ra tầm 
quan trọng thiết yếu của miền Nam Việt Nam, cụ thể là Sài Gòn. Đây là nơi 
chính người Pháp đã phát hiện và nhanh chóng kiến thiết cơ sở đứng chân, 
thể chế hóa thành thuộc địa để tận dụng những ưu thế thiên thời địa lợi nhằm 
súc tích tiềm lực kinh tế, phát huy lợi thế hàng hải quân sự từ miền Trung. 
Sài Gòn trong hệ thống tương quan với các quốc gia có biển như Thái Lan, 
Singapour, Malaysie, Mianma chiếm vị trí đắc địa. Thêm một yếu tố đáng kể, 
hệ thống các địa phương lợi thế về hàng hải này là những địa bàn kinh doanh 
lâu năm và hữu hiệu của nhiều thương gia Trung Quốc nói chung và Hoa kiều 
nói riêng. So sánh với các lực lượng quân sự gốc Hoa ở Bắc Kỳ, thực lực của 
đội ngũ thương gia gốc Hoa này có lẽ là giải pháp thích đáng cho sức mạnh 
Trung Quốc ở Nam Kỳ của Việt Nam. Một trong những mục đích của công vụ 
mật năm 1884 của Trịnh Quan Ứng là tận dụng quan hệ với những nhân vật 
như thế – những thương gia có viễn kiến chính trị, giàu có về tài chính, am 
hiểu Việt Nam và thực lực người Pháp ở Việt Nam. Lữ Thành được Trịnh Quan 
Ứng nhắc tới trong Nam du nhật ký là một nhân vật tiêu biểu, người “từ nhỏ 
buôn bán ở Nam Dương, qua lại Xiêm, Việt, [tính người] hào hoa trượng nghĩa, 
đồ đảng rất đông, từng bị người Pháp gây khó dễ nhiều lần tại Sài Gòn, từng 
trình bày mưu kế khôi phục, rành rọt sáng rõ. Tôi rất hòa hợp với người ấy, 
muốn thu phục làm việc cho nước nhà, khiến thâm nhập vào những nơi trọng 
yếu của Xiêm, Việt để thám sát tình hình”.(45)
Không chỉ thực hiện quyết sách cầu kiếm và hội tụ sức mạnh kinh tế-
chính trị của Hoa kiều, Trịnh Quan Ứng nhìn ra thế mạnh liên kết các quốc 
gia để đương đầu với phương Tây. Trong nhật ký, ông viết:
154 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
 “Nay người Pháp tỏ ra hung mạnh, chiếm cứ An Nam, diệt Phnom Penh 
[Kim Biên]; người Anh ngang ngược âm mưu, chiếm cứ Ấn Độ, đoạt Miến Điện, 
lại thôn tính cả các đảo miền Nam Dương ngoài lãnh hải. Lúc này đều cứ giả 
danh là thông thương, truyền giáo, kỳ thực ắt là thâm tâm tính kế. Việt Nam 
đã chịu tiếng ngu, ắt sớm sẽ bị thuận theo mà khuất phục bạo lực. Nếu Xiêm 
La còn ngờ vực nhìn quanh, không liên kết với Miến Điện để phụng sự Trung 
Quốc, tương lai ắt sẽ dẫm phải vết đi trước của Việt Nam, không bị người Anh 
làm loạn thì cũng bị người Pháp tiêu diệt.(46)
Không thoát khỏi quan niệm độc tôn Trung Quốc, song họ Trịnh nhận 
rõ tầm quan trọng của việc liên kết các nước trong khu vực để đương đầu với 
phương Tây. Tự coi Trung Quốc là trung tâm và đòi hỏi các nước chung quanh 
tìm về xin quy phục, tâm thế đó không che phủ được kỳ vọng liên minh đa quốc 
gia của nhà hoạt động chính trị kiêm thương gia này. Có điều, nếu hình thành 
được mô hình liên minh các chính phủ như vậy, Trung Quốc của Trịnh Quan 
Ứng phải ngồi ở chiếu trên. Với tư tưởng bá chủ tiêu biểu, một khi tự hiểu và 
tự tìm được chiến lược phục hưng cho quốc gia mình, người Trung Quốc đầy sắc 
sảo như Trịnh Quan Ứng đương nhiên nhận thức sâu sắc một chiến lược khác 
áp dụng cho các nước láng giềng. Nói cụ thể, nếu trên lãnh thổ Việt Nam, người 
Pháp từng áp dụng kế sách chia để trị, thì trong đường lối ngoại giao đối với 
láng giềng, Trung Quốc cũng không hoan nghênh các liên kết quốc gia thoát 
Trung, càng không mong muốn địa vị thiên triều của mình bị xóa bỏ. 
 Mối lo này của họ chính là nhược điểm của họ!
 V A
CHÚ THÍCH
(1) Nguyên bản Hán văn có tên Trịnh Quan Ứng tập, Thượng Hải Nhân dân xuất bản xã, 1982. 
Văn bản Nam du nhật ký được sử dụng trong bài viết nằm trong ấn bản này (tr. 941-1009).
(2) Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp, “Les récits de voyage chinois comme source pour 
l’étude du Vietnam (Xe-XXe)”, trong Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient (BEFEO), 
năm 1996, tập 83, số 83, tr. 67-87.
(3) BEFEO, đã dẫn, tr. 77 (V.A. dịch).
(4) Léon Vandermeersch, “Une note chinoise de 1884 sur l’Histoire du Vietnam”, trong Monde 
du Viêt Nam [Thế giới của Việt Nam], Les Indes Savantes, 2008, tr. 243-251. Đây là tập hợp 
nghiên cứu của nhiều học giả quốc tế dành để tôn vinh thành tựu khoa học của Giáo sư sử 
học Nguyễn Thế Anh.
(5) V.A. dịch.
(6) Nguyên văn chữ Hán dựa vào ấn bản của Thượng Hải, đã dẫn. Thượng sách, tr. 941-942.
(7) Tên gọi trước của đất Hợp Phố, thuộc khu tự trị Choang ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
(8) Chỉ trận Bắc Lệ (còn được gọi là trận chiến cầu Quan Âm) tại Lạng Sơn. Sự kiện này xảy ra 
từ ngày 23 tháng 6 tới mùng 3 tháng 7 năm 1884, trong bối cảnh người Pháp vì tự tin vào trật 
tự được định đoạt sau hiệp ước Việt-Pháp và điều ước Pháp-Thanh đều được ký kết trong 
nửa đầu tháng 6, đã kéo quân lên tiếp quản các tỉnh thành Lạng Sơn, Cao Bằng. Không ngờ, 
lực lượng liên minh quân sự Việt-Trung đồn trú quanh thành Bắc Lệ, cầu Quan Âm đã không 
nhượng bộ, tấn công mãnh liệt gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp.
(9) Dung kinh chú sử: nghĩa là sôi kinh nấu sử.
(10) Thuộc thành phố Quảng Châu (Trung Quốc).
(11) Nguyên văn chữ Hán dựa vào ấn bản của Thượng Hải, đã dẫn. Thượng sách, tr. 985-988.
155Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
(12) Tức Từ Diên Húc (?-1884), khi ấy là Tổng đốc Quảng Tây.
(13) Ngũ quý: tức 5 triều đại Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu ở Trung Quốc 
(907-979).
(14) Niên hiệu đời vua Tống Hiếu Tông (Trung Quốc).
(15) Niên hiệu đời vua Minh Thái Tông (Trung Quốc).
(16) Tức Hồ Quý Ly.
(17) Niên hiệu đời vua Minh Anh Tông (Trung Quốc).
(18) Minh sử của Trung Quốc chép người con nối ngôi của Lê Lợi tên là Lân, tức là Hoàng Thái 
tử Lê Nguyên Long, sau khi lên ngôi được truy phong miếu hiệu là Lê Thái Tông.
(19) Vùng đất nằm phía đông bắc Nam Bộ, nay thuộc thành phố Biên Hòa.
(20) Chỉ Nguyễn Huệ (1753-1792), một trong những thủ lãnh của phong trào Tây Sơn, sau lên 
ngôi Quang Trung Hoàng đế.
(21) Theo diễn giải của Léon Vandermeersch, đây là cách diễn đạt đầy văn chương của một thực 
tế là khi ấy, Nguyễn Phúc Ánh có được sự trợ giúp đắc lực của hai sức mạnh: một là hai tàu 
lớn từ châu Âu tới viện trợ theo đề nghị của giáo sĩ Pigneau de Behaine và một là những đội 
tàu chiến dũng mãnh do chính Nguyễn Phúc Ánh lập ra để chiến đấu với quân Tây Sơn, 
giành lại vương quyền của tiền nhân là các chúa Nguyễn.
(22) Niên hiệu đời vua Thanh Nhân Tông (Trung Quốc). Chính xác là năm Gia Khánh thứ 9 (1804).
(23) Ở đây có sự nhầm lẫn của tác giả Trung Quốc Trịnh Quan Ứng. Theo Nguyễn Phúc tộc thế 
phả, vua Gia Long ngoài tên húy là Ánh còn có các tên gọi khác là Noãn và Chủng. Như vậy, 
Nguyễn Phúc Noãn chính là Nguyễn Phúc Ánh. Nối ngôi của Nguyễn Phúc Ánh là vị vua có 
niên hiệu Minh Mệnh. Đây là người con trai thứ tư của Nguyễn Phúc Ánh, húy là Đảm, cũng 
có tên gọi là Kiểu. Léon Vandermeersch cho rằng có sự nhầm lẫn về tự dạng giữa chữ Noãn 
暖 và chữ Kiểu 皎 (tuy nhiên ông phiên âm chữ 皎 là Giao).
(24) Tên chính xác là Nguyễn Phúc Miên Tông, tức vua Thiệu Trị.
(25) Hàm Phong (1851-1861): Niên hiệu một vị vua Trung Quốc đời nhà Thanh.
(26) Từ đây tới cuối bài, các danh từ riêng trong ngôn ngữ Latin vốn được Trịnh Quan Ứng phiên 
âm bằng chữ Hán sẽ được đặt trong ngoặc vuông ngay sau danh từ đã được trả về nguyên 
âm của nó.
 Tourane là tên mà người Pháp đặt cho cảng Đà Nẵng. Ở đây, có lẽ Trịnh Quan Ứng có sự 
nhầm lẫn giữa Tourane (tức Đà Nẵng) và Hội An. Năm 1858, người Pháp nhiều lần uy hiếp 
quân sự và tấn công Đà Nẵng. Cuối năm này, quân Pháp bị cầm chân tại Đà Nẵng, chưa 
vào được tới Hội An.
(27) Khi ấy, công nương Eugénie de Montijo làm vợ của Hoàng đế Napoléon III. Bà là con gái của 
một vị Bá tước xứ Espagne.
(28) Tức xứ Manille (Philippinne), đương thời là thuộc địa của Espagne.
(29) Tức Sài Gòn.
(30) Niên hiệu vua nhà Thanh (Trung Quốc), tức năm 1867.
(31) Trung Quốc.
(32) Trong sử sách Việt Nam, nhân vật này được biết tới với tên gọi Lưu Vĩnh Phúc.
(33) Tức địa phận tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).
(34) Thụy Lân (?-1874), người Mãn Châu, khoảng niên hiệu Đồng Trị được bổ nhiệm Tổng đốc 
Lưỡng Quảng.
(35) Tức Francis Garnier (1839-1873). Trong thư tịch Việt Nam, tên của ông thường được phiên 
âm là Ngạc Nhi.
(36) Trong bài “Une note chinoise de 1884 sur l’Histoire du Vietnam” đã dẫn, Léon Vandermeersch 
cho rằng Trịnh Quan Ứng nhầm với trận đánh thành Hà Nội lần thứ hai vào năm 1882 do 
quân Pháp gây ra, khi ấy Tổng đốc thành Hà Nội là Hoàng Diệu.
156 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 9 (126) . 2015
 Trong sự kiện thành Hà Nội thất thủ bởi quân Pháp năm 1873 được Trịnh Quan Ứng đề cập, 
Nguyễn Tri Phương (1800-1873) với trọng trách Khâm mệnh đại thần tại Bắc Kỳ là người đã 
quyết tử tại thành.
(37) Tức cảng Thị Nại, người Trung Quốc gọi là Tân Châu. Đoạn này ngụ ý chỉ khoản XI của hòa 
ước Giáp Tuất (1874) buộc triều đình Huế phải mở cửa Thị Nại (Quy Nhơn), cửa Ninh Hải 
(Hải Phòng), thành Hà Nội và Sông Hồng cho người ngoại quốc vào buôn bán.
(38) Niên hiệu vua nhà Thanh (Trung Quốc), 1875-1908.
(39) Tức Jules Blanscubé (1834-1888). Ông đến Nam Kỳ năm 1865, là thành viên của Hội Tam 
điểm và phóng viên, cũng là một chiến binh cho tới cuối cuộc chiến Đông Dương. Sau được 
bổ làm Thị trưởng Sài Gòn vào những năm 1879-1880, rồi Nghị viên.
(40) Tức Trung tá Carreau.
(41) Chỉ vùng đất mới khai hoang lấn biển thuộc tỉnh Nam Định.
(42) Tức Henri Rivière (1827-1883).
(43) Tức Alexandre Eugène Bouët (1833-1887).
(44) Claudine Salmon (1996), đã dẫn, tr. 225.
(45) Trịnh Quan Ứng tập, thượng sách (1982), đã dẫn, tr. 946-947.
(46) Như trên.
TƯ LIỆU THAM KHẢO (trích yếu)
1. Trịnh Quan Ứng [Zheng Guanying] (1884), “Nam du nhật ký”, trong Trịnh Quan Ứng tập, Tái 
bản: Thượng Hải Nhân dân xuất bản xã, 1982. 
2. Claudine Salmon (1996), “Trois regards chinois sur le Vietnam des années 1880-1890”, 
trong Récits de voyage des Asiatiques, Paris: EFEO, 1996, tr. 223-251.
3. Claudine Lombard-Salmon và Tạ Trọng Hiệp (1996), “Les récits de voyages chinois comme 
source pour l’étude du Viêtnam (Xe-XXe siècle)”, trong BEFEO, tập 83, tr. 67-87.
4. Léon Vandermeersch (2008), “Une note chinoise de 1884 sur l’Histoire du Vietnam”, trong 
Monde du Viêt Nam-Vietnam World. Hommage à Nguyên Thê Anh, Frédéric Mantienne và 
Keith W. Taylor chủ biên, Paris: Les Indes Savantes, 2008, tr. 243-251.
TÓM TẮT 
Du ký Việt Nam được biên soạn bởi tác giả Trung Quốc từ lâu nay được đánh giá là nguồn 
sử liệu hữu hiệu để nghiên cứu về Việt Nam và các nước liên quan. Nam du nhật ký được Trịnh 
Quan Ứng thực hiện năm 1884 là một ví dụ tiêu biểu, từng được học giả Pháp khám phá và khảo 
cứu. Kế thừa thành tựu đó ở phương diện tận dụng văn bản Hán văn của tác giả họ Trịnh, bài viết 
gồm ba phần: Khái lược quá trình khám phá giá trị tư liệu du ký của Trịnh Quan Ứng; Giới thiệu, 
phiên dịch, chú giải một số nội dung tư liệu liên quan Việt Nam trong Nam du nhật ký; Việt Nam 
trong nhận thức chính trị của Trịnh Quan Ứng.
ABSTRACT
VIETNAM IN THE FRANCE-CHINA RELATIONS IN 1884: VIEWPOINT OF A CHINESE
So far, traveler’s notes on Vietnam compiled by Chinese authors have been regarded 
as an essential historical source to do research on Vietnam and relevant countries; “Nam du 
nhật ký” (Diary about the Travel to the South), which was written by Trịnh Quan Ứng in 1884, 
discovered and studied by French scholars, is a typical example. The article, inheriting previous 
achievements and takingadvantage of the Chinese text by Trịnh Quan Ứng, includes three parts: 
Summarizing the process of finding out the documentary value of Trịnh Quan Ứng’s travel diary; 
Introducing, translating and annotating some contents related to Vietnam in “Nam du nhật ký”; 
Vietnam in Trịnh Quan Ứng’s political viewpoint.

File đính kèm:

  • pdfviet_nam_trong_quan_he_phap_trung_nam_1884_mot_goc_nhin_trun.pdf