Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa Việt Nam

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là hiệp

định thương mại tự do thế hệ mới, đồng thời là một hiệp định đa phương quy mô lớn,

được Việt Nam thông qua vào ngày 14/1/2019. Mặc dù mang một diện mạo mới, các nội

dung của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trước đây vẫn được giữ

nguyên trong CPTPP. Điểm khác biệt duy nhất của CPTPP so với TPP là sẽ có một số

cam kết tạm hoãn, chưa thực thi. Nghiên cứu này sẽ phân tích một số nội dung cam kết

trong CPTPP ảnh hưởng đến lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam, những có hội và thách

thức đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, từ đó đưa ra một số khuyến nghị đối với

Nhà nước và doanh nghiệp trong nước nhằm tiếp tục mở rộng quy mô và tăng kim ngạch

xuất khẩu vào thị trường này.

pdf 9 trang kimcuc 17380
Bạn đang xem tài liệu "Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa Việt Nam

Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 74-82 
74 
Original Article 
Participating CPTPP: Opportunities and Challenges 
for Vietnam’s Exports of Goods 
Nguyen Thi Oanh* 
Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 18 March 2019 
Revised 28 March 2019; Accepted 28 March 2019 
Abstract: CPTPP is a new generation Free Trade Agreement (FTA) and a large-scale 
multilateral agreement adopted by Vietnam on January 14, 2019. Although it has a new 
face, the contents of the previous TPP remain in the CPTPP. The only difference in the 
CPTPP compared to the TPP is that there will be some commitments of postponement 
and unenforcement. This paper analyzes some of the contents committed to in the CPTPP 
that may affect Vietnam's export sector, and the opportunities and challenges for 
Vietnamese exports. This paper then makes some recommendations for the Vietnamese 
government and enterprises to further expand the scale of, and increase in export 
turnover. 
Keywords: Export, CPTPP, opportunity, challenge. 
*
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: oanhnguyen@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4209 
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 74-82 
75 
Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP: 
Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu hàng hóa Việt Nam 
Nguyễn Thị Oanh* 
Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 18 tháng 3 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 3 năm 2019 
Tóm tắt: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là hiệp 
định thương mại tự do thế hệ mới, đồng thời là một hiệp định đa phương quy mô lớn, 
được Việt Nam thông qua vào ngày 14/1/2019. Mặc dù mang một diện mạo mới, các nội 
dung của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trước đây vẫn được giữ 
nguyên trong CPTPP. Điểm khác biệt duy nhất của CPTPP so với TPP là sẽ có một số 
cam kết tạm hoãn, chưa thực thi. Nghiên cứu này sẽ phân tích một số nội dung cam kết 
trong CPTPP ảnh hưởng đến lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam, những có hội và thách 
thức đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, từ đó đưa ra một số khuyến nghị đối với 
Nhà nước và doanh nghiệp trong nước nhằm tiếp tục mở rộng quy mô và tăng kim ngạch 
xuất khẩu vào thị trường này. 
Từ khóa: Xuất khẩu, CPTPP, cơ hội, thách thức. 
1. Đặt vấn đề * 
Sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump 
tuyên bố rút khỏi TPP bên lề Hội nghị cấp cao 
APEC 2017 diễn ra tại Thành phố Đà Nẵng, 11 
nước còn lại (Australia, Brunei, Canada, Chile, 
Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, 
Peru, Singapore và Việt Nam) đã tiếp tục đàm 
phán và đạt được thỏa thuận về nội dung và tên 
gọi mới của TPP là CPTPP. Ngày 8/3/2018, 
CPTPP đã được ký kết tại Chile. CPTPP chính 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: oanhnguyen@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4209 
thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 đối với 
nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê 
chuẩn Hiệp định gồm Mexico, Nhật Bản, 
Singapore, New Zealand, Canada và Australia. 
Và ngày 14/1/2019, CPTPP chính thức có hiệu 
lực tại Việt Nam. 
1.1. Một số điểm mới của CPTPP so với TPP 
Về cơ bản, CPTPP kế thừa toàn bộ nội dung 
của TPP nhưng cho phép các nước thành viên 
tạm hoãn một số nghĩa vụ để bảo đảm sự cân 
bằng trong bối cảnh mới. Sự khác biệt về nội 
dung giữa CPTPP và TPP thể hiện ở một số 
điểm sau: 
N.T. Oanh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 74-82 
76 
Thứ nhất, TPP gồm 30 chương bao quát các 
lĩnh vực về thương mại, thuế quan, đầu tư, sở 
hữu trí tuệ, lao động, môi trường..., còn CPTPP 
giữ nguyên nội dung đã đàm phán của TPP 
nhưng có thay đổi như sau: Về đầu tư và mua 
sắm chính phủ trong CPTPP, cơ chế giải quyết 
tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà 
nước tiếp nhận đầu tư (ISDS) không điều chỉnh 
hợp đồng đầu tư và chấp thuận đầu tư. CPTPP 
nâng thời gian tạm hoãn việc đàm phán mở 
rộng phạm vi trong vòng 3 năm lên 5 năm. Đối 
với sở hữu trí tuệ, có 11 nghĩa vụ được tạm 
hoãn thực thi, bao gồm: bảo hộ quyền tác giả, 
bảo hộ dữ liệu thử nghiệm bí mật... Về dịch vụ 
tài chính, CPTPP không áp dụng cơ chế ISDS 
đối với vi phạm nghĩa vụ về tiêu chuẩn đối xử 
tối thiểu và nghĩa vụ cho phép doanh nghiệp 
khiếu nại quyết định của cơ quan quản lý trong 
lĩnh vực truyền thông cũng được tạm hoãn... 
Thứ hai, CPTPP bổ sung thêm 2 phụ lục. 
Phụ lục 1: Danh mục 20 nghĩa vụ tạm hoãn 
thực thi của TPP và 4 nội dung cần đàm phán 
lại như đầu tư và cấp phép đầu tư; giải quyết 
tranh chấp viễn thông; điều kiện tham dự thầu; 
đối tượng có thể cấp bằng độc quyền sáng chế; 
minh bạch và công bằng về thủ tục đối với hàng 
hóa dược phẩm và thiết bị y tế 
Phụ lục 2: 7 điều liên quan đến những điểm 
kỹ thuật của hiệp định mới. 
Thứ ba, CPTPP bổ sung quy định về tính 
hiệu lực, quy trình rút lui, gia nhập, rà soát lại 
CPTPP trong tương lai. 
1.2. Một số cam kết trong CPTPP ảnh hưởng 
đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 
Hầu hết các cam kết như: tự do hóa và tạo 
thuận lợi đối với thương mại, quy tắc xuất xứ, 
hàng rào kỹ thuật, đầu tư đều có ảnh hưởng 
nhất định đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa 
của Việt Nam. Tuy nhiên, ảnh hưởng trực tiếp 
nhất đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam là 
các cam kết xóa bỏ thuế quan, các quy tắc xuất 
xứ và thuận lợi hóa thương mại. 
1.2.1. Xóa bỏ hàng rào thuế quan 
11 thành viên CPTPP đều cam kết xóa bỏ 
gần như toàn bộ các dòng thuế nhập khẩu đối 
với hàng hóa xuất khẩu của các nước đối tác là 
thành viên của CPTPP. 
Theo nội dung của Hiệp định, các cam kết 
về xóa bỏ và cắt giảm thuế quan nhập khẩu 
trong CPTPP được chia làm 3 nhóm chính: 
i) Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay sau 
khi CPTPP có hiệu lực; 
ii) Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ 
trình (các dòng thuế nhập khẩu sẽ được đưa về 
0% theo một lộ trình nhất định, từ 3-7 năm, tuy 
nhiên trong một số trường hợp, lộ trình có thể 
trên 10 năm, thậm chí 20 năm); 
iii) Nhóm áp dụng hạn ngạch thuế quan 
(thuế nhập khẩu chỉ xóa bỏ hoặc cắt giảm với 
một khối lượng hàng hóa nhất định, nếu vượt 
quá sẽ không được hưởng ưu đãi). 
Đối với Việt Nam, các nước thành viên 
CPTPP cam kết xóa bỏ hoàn toàn từ 97% đến 
100% số dòng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa 
có xuất xứ từ Việt Nam, tùy theo cam kết của 
từng nước. Trong đó, Canada cam kết xóa bỏ 
thuế nhập khẩu cho 95% số dòng thuế và 78% 
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt 
xóa bỏ thuế quan đối với 100% kim ngạch xuất 
khẩu thủy sản và 100% kim ngạch xuất khẩu 
gỗ; Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế đối với 86% 
số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực và 
gần 90% số dòng thuế sau 5 năm [1]. 
Đây là lần đầu tiên Nhật Bản cam kết xóa 
bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu cho đại đa số 
nông, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Bên 
cạnh đó, nhiều nước trong nhóm cũng cam kết 
xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với hàng hóa có xuất 
xứ từ Việt Nam với tỷ lệ cao như: Peru xóa bỏ 
80,7% số dòng thuế; Mexico xóa bỏ 77,2%; 
Chile xóa bỏ 95,1%; Australia xóa bỏ 93%; 
NewZealand xóa bỏ 94,6%; Singapore xóa bỏ 
hoàn toàn thuế quan; Malaysia xóa bỏ 84,7%; 
Brunei xóa bỏ 92%. 
Ở chiều ngược lại, Việt Nam cam kết một 
biểu thuế chung cho tất cả các nước CPTPP. 
Theo đó, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu 
đối với 66% số dòng thuế ngay khi Hiệp định 
có hiệu lực và 86,5% số dòng thuế sau 3 năm kể 
từ khi Hiệp định có hiệu lực. Các mặt hàng còn 
lại có lộ trình giảm thuế chủ yếu từ 5-10 năm. 
Đối với một số mặt hàng đặc biệt nhạy cảm 
như: bia, rượu, thịt gà, sắt thép, ô tô con dưới 
3.000 phân phối, Việt Nam có lộ trình giảm 
thuế trên 10 năm. Việt Nam áp dụng hạn ngạch 
N.T. Oanh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 74-82 77 
thuế quan đối với đường, trứng, muối (nằm 
trong lượng hạn ngạch WTO) và ô tô đã qua 
sử dụng. 
1.2.2. Quy tắc xuất xứ 
So với các hiệp định thương mại tự do 
(FTA) mà Việt Nam đã ký kết và tham gia, quy 
tắc xuất xứ hàng hóa CPTPP có một số điểm 
mới gồm: Quy tắc xuất xứ bộ hàng hóa; quy tắc 
xuất xứ hàng tân trang, hàng tái chế tạo; công 
thức tính hàm lượng giá trị khu vực của hàng 
hóa (RVC). Ngoài công thức tính RVC gián 
tiếp và RVC trực tiếp, có thêm công thức tính 
RVC theo trị giá tập trung và công thức tính 
RVC theo chi phí tịnh (chỉ áp dụng với ô tô và 
phụ tùng ô tô). 
Bên cạnh đó, danh mục quy tắc xuất xứ đối 
với sản phẩm cụ thể (PSR) được quy định chi 
tiết theo công đoạn sản xuất cụ thể. CPTPP 
cũng đưa ra quy định “De Minimis” - đây là 
điều khoản quy định tỷ lệ “linh hoạt” cho phép 
nguyên liệu không có xuất xứ không đáp ứng 
quy tắc “chuyển đổi mã số hàng hóa” ở mức tối 
đa 10% so với trị giá của hàng hóa. Riêng mặt 
hàng dệt may có quy định “De Minimis” 
khác [1]. 
Về phương pháp xác định xuất xứ của một 
hàng hóa 
CPTPP quy định có 3 phương pháp để xác 
định xuất xứ của một hàng hóa, bao gồm: 
Thứ nhất, có xuất xứ thuần túy: Tức là hàng 
hóa được trồng, thu hoạch hoặc đánh bắt ở 
trong khu vực CPTPP. Ví dụ: lúa gạo, thịt lợn, 
tôm, cá được nuôi, trồng ở các nước CPTPP. 
Thứ hai, hàng hóa được sản xuất toàn bộ 
trong khu vực CPTPP và chỉ từ các nguyên liệu 
có xuất xứ từ CPTPP. Ví dụ, sản phẩm bánh 
ngọt được sản xuất tại Việt Nam từ các nguyên 
liệu sô-cô-la có xuất xứ Mexico, đường 
Australia và sữa New Zealand. 
Thứ ba, hàng hóa được sản xuất tại CPTPP, 
sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ CPTPP 
nhưng đáp ứng được các Quy tắc xuất xứ cụ thể 
mặt hàng quy định trong Phụ lục 3-D của 
Chương 3. Đây là trường hợp phổ biến nhất 
(trong bối cảnh sản xuất thường theo chuỗi, với 
các nguyên liệu có nguồn gốc và các công đoạn 
diễn ra ở nhiều nước trên thế giới). Tuy nhiên, 
đây cũng là nhóm quy tắc xuất xứ phức tạp nhất 
[4]. CPTPP quy định 3 phương pháp xác định 
xuất xứ cho trường hợp này, bao gồm: (i) Quy 
tắc chuyển đổi mã hàng hóa (Tariff Shift); (ii) 
Quy tắc hàm lượng giá trị nội khối (Regional 
Value Content); (iii) Quy tắc công đoạn sản 
xuất (Production Process). Với mỗi loại hàng 
hóa, quy tắc xuất xứ áp dụng cho từng trường 
hợp có thể là một, một số trong 3 loại trên, 
và/hoặc kết hợp 2, 3 loại trên. Đáng chú ý là 
mặc dù mỗi nước CPTPP đưa ra một Biểu cam 
kết thuế quan riêng, hệ thống quy tắc xuất xứ 
trong CPTPP là thống nhất, áp dụng chung cho 
toàn bộ các nước thành viên CPTPP [1]. 
Về thủ tục chứng nhận xuất xứ, CPTPP đã 
cho phép người xuất khẩu, người sản xuất và 
người nhập khẩu được tự chứng nhận xuất xứ. 
Đây là điểm rất mới so với các FTA truyền 
thống trước đây mà Việt Nam đã ký kết. Do 
hình thức tự chứng nhận xuất xứ còn khá mới 
mẻ, chưa được triển khai toàn diện và đại trà 
nên Việt Nam được áp dụng một khoảng thời 
gian chuyển đổi nhằm mục đích tạo cơ hội cho 
các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước 
quen dần với hình thức này. 
1.2.3. Hải quan và thuận lợi hóa thương mại 
Bên cạnh các quy định của WTO, các nước 
tham gia CPTPP nhất trí thúc đẩy việc tạo thuận 
lợi cho thương mại, nâng cao tính minh bạch 
của hải quan, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp trong 
khối. Các nước cũng nhất trí minh bạch hóa các 
quy tắc, trong đó có việc công bố các luật và 
quy định về hải quan, quy định về giải phóng 
hàng hóa, ký quỹ hoặc thanh toán bắt buộc 
trong trường hợp hải quan chưa đưa ra quyết 
định về số thuế hoặc phí phải trả. Các nước sẽ 
áp dụng những quy định thông báo trước về xác 
định trị giá hải quan nhằm giúp doanh nghiệp 
chủ động trong việc xác định mức thuế và tính 
toán hiệu quả kinh doanh [1]. Các quy định liên 
quan tới xử phạt hải quan để bảo đảm các hình 
thức xử phạt này được thực hiện một cách công 
bằng và minh bạch. Bên cạnh đó, vì tầm quan 
trọng của chuyển phát nhanh đối các lĩnh vực 
kinh doanh, các bên cũng đồng thuận về quy 
định hải quan đối với chuyển phát nhanh. Chính 
quyền các nước cũng sẽ cung cấp thông tin khi 
được yêu cầu để hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực 
thi luật trong lĩnh vực này. 
N.T. Oanh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 74-82 
78 
2. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu 
hàng hóa của Việt Nam 
Mặc dù không có sự tham gia của Mỹ, 
CPTPP vẫn sẽ mở ra những cơ hội lớn cho các 
nước thành viên, trong đó có Việt Nam. Xét 
riêng về lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa, CPTPP 
sẽ mang lại một số cơ hội và những thách 
thức mới. 
2.1. Những cơ hội mới 
Thứ nhất, tham gia CPTPP giúp Việt Nam 
tăng quy mô, kim ngạch xuất khẩu và mở rộng 
cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. 
Khi CPTPP có hiệu lực, các quốc gia thành 
viên sẽ mở cửa thị trường theo cam kết, tạo cơ 
hội cho nhiều ngành hàng xuất khẩu chủ lực 
của Việt Nam có thể tăng quy mô và kim 
ngạch, đặc biệt là các lĩnh vực xuất khẩu lớn 
như điện thoại, máy vi tính, dệt may, giày dép, 
thủy sản, đồ gỗ, phương tiện vận tải, hàng nông 
sản hoặc các mặt hàng thủy sản trước đây 
chưa được cam kết xóa bỏ thuế quan trong Hiệp 
định Việt Nam - Nhật Bản và ASEAN - Nhật 
Bản sẽ được hưởng thuế 0% khi xuất khẩu sang 
Nhật Bản (một số loài cá tuyết, surimi, tôm, 
cua... sẽ được hưởng thuế suất 0%). Theo 
Thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2018, 
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 
các nước CPTPP đạt 36.809 tỷ USD, tăng 
khoảng 5,6% so với năm 2017. Đối với một số 
thị trường chính trong CPTPP, năm 2017 có 5 
nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị 
trường Nhật Bản đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở 
lên. Trong CPTPP, Nhật Bản là thị trường lớn 
nhất của hàng xuất khẩu Việt Nam, hàng hóa 
xuất khẩu của nước ta tập trung vào những 
ngành hàng truyền thống như dệt may, thủy sản, 
đồ gỗ hay hàng hóa trong lĩnh vực công nghiệp 
chế tạo là phương tiện vận tải, máy móc thiết 
bị. Trong đó, dệt may là ngành hàng xuất khẩu 
lớn nhất với trị giá kim ngạch lên đến hơn 3,1 
tỷ USD; tiếp đến là phương tiện vận tải đạt 
2.177 tỷ USD; máy móc thiết bị đạt 1.718 tỷ 
USD; thủy sản 1,3 tỷ USD; gỗ đạt 1.022 tỷ 
USD [2]. Việc chuyển hướng xuất khẩu các mặt 
hàng nói trên từ Mỹ sang Nhật Bản, giúp chúng 
ta lấp lỗ hổng thị trường khi CPTPP không 
có Mỹ. 
Bảng 1 cho thấy, tổng kim ngạch xuất khẩu 
của Việt Nam sang 10 nước CPTPP tăng dần từ 
năm 2015-2017, riêng 9 tháng đầu năm 2018 
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 79,6% 
so với năm 2017. Đồng thời, theo thống kê 
chưa đầy đủ, năm 2018, kim ngạch xuất khẩu 
của Việt Nam sang các nước CPTPP đạt 36,8 tỷ 
USD, tăng gần 7,7%. 
Cũng theo Bảng 1, tổng kim ngạch xuất 
khẩu của Việt Nam sang CPTPP năm 2017 là 
khoảng 34,1 tỷ USD, tập trung vào các nhóm 
hàng nông sản (11%), sản phẩm chế tạo (27%), 
máy móc và thiết bị (33%) với các thị trường 
chủ yếu là Nhật Bản (48,6%), Malaysia 
(12,3%), Singapore (11,2%) và Australia 
(10%). Đồng thời, các mặt hàng xuất khẩu quan 
trọng như dệt may, giày dép, thủy sản cũng tiếp 
tục có cơ hội lớn thâm nhập vào Canada, Chile, 
Australia khi CPTPP chính thức có hiệu lực. 
Đây là những nhóm hàng xuất khẩu lớn, quan 
trọng. Trong khi đó, điện thoại, máy tính cũng 
sẽ có cơ hội hơn trong việc tiếp tục nâng cao 
kim ngạch xuất khẩu sang Malaysia, Indonesia, 
Singapore, Mexico, New Zealand 
Hiệp định CPTPP quy định các mặt hàng 
như dệt may, da giày, đồ gỗ muốn được 
hưởng thuế suất ưu đãi như cam kết của các 
nước thành viên thì phải sử dụng nguyên liệu 
nội khối. Việt Nam cũng đã cam kết mua gỗ 
của Canada, New Zealand, Australia, nên các 
đối tác sẵn sàng nhập khẩu sản phẩm của 
Việt Nam.Như vậy, cơ hội dành cho các sản 
phẩm gỗ xuất khẩu là khá rõ. Ngay trước khi 
CPTPP chính thức có hiệu lực, các đơn đặt 
hàng đối với ngành gỗ đến từ các nước trong 
CPTPP như Canada, Nhật Bản, New Zealand, 
Australia, Peru đã tăng lên khá nhiều. Ví dụ, 
xuất khẩu gỗ sang Canada trước đây rất ít, chưa 
đến 100 triệu USD/năm, nhưng hiện các doanh 
nghiệp ngành gỗ đã ký hợp đồng xuất khẩu 
sang Canada giá trị khoảng 200-300 triệu USD 
trong năm 2019 [4]. 
1 
N.T. Oanh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 74-82 79 
 Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP (2015 -9/2018) 
TT Quốc gia 
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP (đơn vị: nghìn USD) 
2015 2016 2017 9 tháng, 2018 
1 Brunei 25.521 20.052 21.569 8.800 
2 Canada 2.407.624 2.652.547 2.718.584 2.200.000 
3 Chile 649.500 805.234 999.891 611.000 
4 Nhật Bản 14.100.300 14.671.489 16.851.386 13.728.000 
5 Malaysia 3.577.100 3.341.986 4.197.303 3.094.000 
6 Mexico 1.545.500 1.888.366 2.339.333 1.702.000 
7 New Zealand 325.000 359.911 458.924 361.000 
8 Australia 2.905.600 2.864.858 3.295.539 2.989.000 
9 Peru 238.235 277.475 332.962 193.000 
10 Singapore 3.256.600 2.419.889 2.962.585 2.332.000 
Tổng cộng 29.030.980 29.301.807 34.178.076 27.218.800 
Nguồn: Trade map - UN Comtrade. 
Thứ hai, tự do hóa thương mại trong 
CPTPP góp phần giúp Việt Nam tiếp cận các 
thị trường mới. 
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công 
thương), dung lượng thị trường của 11 thành 
viên trong CPTPP năm 2017 có nhu cầu nhập 
khẩu hàng hóa vào khoảng 2.445 tỷ USD; trong 
đó nhập khẩu từ Việt Nam đạt hơn 34 tỷ USD, 
chiếm tỷ trọng 1,4% [3]. Nếu tính riêng 6 nước 
đã phê chuẩn CPTPP (gồm Mexico, Nhật Bản, 
Singapore, New Zealand, Canada, Australia), 
mỗi năm nhập khẩu khoảng 2.142 tỷ USD, 
trong đó nhập khẩu từ Việt Nam đạt gần 29 tỷ 
USD, chiếm 1,34%. Tuy nhiên, trong 10 nước 
đối tác của CPTPP thì Việt Nam đã có FTA với 
7 nước theo hình thức song phương hoặc đa 
phương hoặc cả hai. Cụ thể, với Australia và 
New Zealand, Việt Nam có FTA đa phương 
Khu vực thương mại tự do ASEAN-Australia-
New Zealand (AANZFTA). Với Brunei, 
Malaysia và Singapore, đều là thành viên của 
AEC. Với Chile, Việt Nam có FTA song 
phương là Hiệp định thương mại tự do Việt 
Nam - Chile; với Nhật Bản, Việt Nam vừa có 
FTA song phương Hiệp định Đối tác Kinh tế 
Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA), vừa có FTA đa 
phương Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện 
ASEAN - Nhật Bản (AJCEP). 
Như vậy, CPTPP sẽ mang lại một số cơ hội 
cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường 
các nước Canada, Mexico và Peru, bởi đây là 
các nước lần đầu tiên có FTA với Việt Nam. 
Hiện tại, Canada và Mexico đang có nhu cầu 
cao với các mặt hàng nhiệt đới như thủy sản, 
nông sản... Trong khi đó, Việt Nam lại có tiềm 
năng và thế mạnh xuất khẩu các mặt hàng này. 
Đối với Canada, từ ngày 14/1/2019, Canada 
đã cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu cho 100% 
kim ngạch xuất khẩu thủy sản, đồ gỗ, thì các 
mặt hàng này càng có cơ hội gia tăng năng lực 
cạnh tranh để xâm nhập mạnh hơn vào thị 
trường. Năm 2018, Canada tiêu thụ 240 triệu 
USD hàng hải sản và 166 triệu USD đồ gỗ của 
Việt Nam. Bên cạnh đó, mặt hàng gạo của Việt 
Nam cũng có khả năng cao tiếp cận và tăng 
trưởng tại thị trường Canada. Các mặt hàng 
khác như chè, hạt tiêu, hạt điều sẽ được hưởng 
mức thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu 
lực. Thuế đối với cà phê hạt arabica và cà phê 
chế biến giảm 50% so với mức thuế hiện hành 
vào năm thứ 5 và năm thứ 10 kể từ khi Hiệp 
định có hiệu lực. Trong nhóm này, điều là mặt 
hàng chiếm giá trị lớn nhất với khoảng 108 
triệu USD từ Việt Nam. Hạt tiêu và cà phê chỉ 
đạt khoảng 10 triệu USD. Bên cạnh đó, Canada 
cũng là thị trường rất tiềm năng của Việt Nam 
với kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may khoảng 
13,3 tỷ USD/năm. Trong thời gian qua, do Việt 
Nam chưa ký FTA với Canada, nên kim ngạch 
xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Canada 
còn rất khiêm tốn, chỉ đạt khoảng 550 triệu 
USD/năm. Do đó, việc cắt giảm thuế quan sẽ 
N.T. Oanh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 74-82 
80 
thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 
sang thị trường này trong những năm tới. Trước 
đây, thuế MFN của Canada trung bình từ 
17-18%, nhưng khi CPTPP có hiệu lực thì tất cả 
các dòng thuế thuộc các chương từ HS50-60 
(xơ, sợi, vải) và một số dòng thuộc HS61, 62 sẽ 
về 0%. Một số dòng thuế Việt Nam xuất khẩu 
nhiều sang Canada như áo khoác ngoài, các loại 
áo gió, bộ quần áo trượt tuyết hầu hết được 
triệt tiêu thuế về 0% từ năm thứ 4 kể từ khi 
Hiệp định có hiệu lực. 
Đối với Mexico, nước này cam kết xóa bỏ 
77,2% số dòng thuế ngay từ ngày 14/1/2019, 
tương đương 36,5% kim ngạch nhập khẩu từ 
Việt Nam. Đến năm thứ 3, các mặt hàng xuất 
khẩu như cá tra, basa là những mặt hàng xuất 
khẩu lớn sang Mexico cũng sẽ được hưởng thuế 
0%. Năm 2018, Việt Nam xuất khẩu sang 
Mexico đạt 2,24 tỷ USD. Các mặt hàng thủy 
sản xuất khẩu đạt 115 triệu USD, cà phê đạt 56 
triệu USD, giày dép đạt 275 triệu USD [3]. Với 
việc Hiệp định CPTPP có hiệu lực, các sản 
phẩm thăn/phi lê cá ngừ đông lạnh của Việt 
Nam sẽ được giảm thuế theo lộ trình 3 năm, từ 
mức thuế cơ sở 20% xuống còn 0%. Ngoài ra, 
các sản phẩm cá ngừ chế biến đóng hộp sẽ giảm 
thuế theo lộ trình 16 năm, trong đó sẽ giữ ở 
mức thuế cơ sở 20% từ năm thứ nhất đến năm 
thứ 5 và sẽ được xóa bỏ hoàn toàn trong 11 năm 
kể từ năm thứ 6, và hàng hóa đó sẽ được miễn 
thuế kể từ ngày 01/01 năm thứ 16. Như vậy, 
việc CPTPP có hiệu lực sẽ tạo điều kiện thuận 
lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, 
trong đó mặt hàng cá ngừ của Việt Nam, gia 
tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường 
Mexico, nhất là đối với mặt hàng thăn/phi lê cá 
ngừ đông lạnh. 
Đối với Peru, mặc dù Peru chưa phê chuẩn 
Hiệp định CPTPP, nhưng quốc gia này được 
đánh giá là thị trường tiềm năng với Việt Nam. 
Cho đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu hai 
chiều của Việt Nam với Peru còn khá khiêm tốn 
(chỉ chiếm chưa đầy 1% trong các nước 
CPTPP). Năm 2018, nước này chỉ nhập khẩu 
0,25 triệu USD hàng hóa từ Việt Nam. Khi 
CPTPP có hiệu lực, đồ gỗ nội, ngoại thất của 
Việt Nam xuất khẩu sang Peru sẽ được hưởng 
mức thuế suất 0% ngay lập tức. Thuế suất đối 
với mặt hàng giày dép sẽ được giảm dần đều và 
xóa bỏ vào năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có 
hiệu lực. Các ngành hàng thế mạnh khác của 
Việt Nam cũng được giảm dần thuế suất theo lộ 
trình. Peru cam kết xóa bỏ 80,7% số dòng thuế 
ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 
62,1% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam. Quốc 
gia này cũng sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 99,4% 
số dòng thuế vào năm thứ 17. Với lộ trình này, 
hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ gia tăng dần 
tại thị trường Peru. 
2.2. Những thách thức 
Thứ nhất, đối với một số mặt hàng xuất 
khẩu chủ lực quan trọng của Việt Nam như dệt 
may, da giày. Để được hưởng lợi ích từ việc cắt 
giảm thuế quan, các sản phẩm dệt may Việt 
Nam phải chứng minh được xuất xứ “từ sợi trở 
đi”. Nghĩa là nguyên liệu từ sợi trở đi phải được 
nhập khẩu từ chính các nước CPTPP thì sản 
phẩm dệt may của Việt Nam mới được hưởng 
ưu đãi thuế quan. Trong khi đó, hiện nay, ngành 
dệt may của Việt Nam đa phần là thực hiện may 
gia công, nguồn vải nhập khẩu đều do các đối 
tác chỉ định [5]. Do đó, việc đáp ứng điều kiện 
“từ sợi trở đi” trong quy tắc xuất xứ đối với 
hàng dệt may của Việt Nam là vấn đề không hề 
dễ dàng. Mặc dù CPTPP có một số ngoại lệ như 
quy tắc nguồn cung thiếu hụt hay một số quy 
tắc quy định cho cả set, bộ quần áo cho phép 
không cần đáp ứng theo quy tắc về xuất xứ và 
vẫn có thể hưởng ưu đãi về thuế nhưng khả 
năng khai thác các ngoại lệ này cũng rất hạn 
chế, bởi các loại sợi, vải quy định trong danh 
sách nguồn cung thiếu hụt cũng rất đặc biệt, 
mang tính kỹ thuật, ít dùng cho sản xuất các 
loại quần áo đại trà. Trong CPTPP chỉ có 3 
nhóm hàng được áp dụng quy tắc cắt may, 
không bắt buộc phải có nguyên liệu là vải hay 
sợi ở nước sở tại gồm: vali, túi xách, áo ngực 
phụ nữ và quần áo trẻ em bằng sợi tổng hợp. 
Tuy nhiên, những mặt hàng này lại không phải 
là mặt hàng thế mạnh của dệt may Việt Nam. 
Thứ hai, thách thức về hàng rào phi thuế 
quan của các nước CPTPP. Trong nhiều lĩnh 
vực như sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, 
lĩnh vực nào cũng gặp khó khăn bởi các tiêu 
chuẩn được nâng lên, các yêu cầu thực thi 
N.T. Oanh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 74-82 81 
nghiêm ngặt hơn. Đồng thời, chủ nghĩa bảo hộ 
và các vụ kiện phòng vệ thương mại cũng có xu 
hướng gia tăng. Trong khi đó, các hàng hóa 
xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng tốt 
hàng rào kỹ thuật của các nước nên sẽ tiếp tục 
phải đối mặt với các rào cản này. Để thâm nhập 
và chiếm lĩnh được những thị trường giá trị cao 
và quy mô lớn như Nhật Bản, Australia, các 
nông sản Việt Nam đang có lợi thế xuất khẩu 
như gạo, cà phê, tiêu, điều, thủy sản cần vượt 
qua được các hàng rào kỹ thuật và các biện 
pháp kiểm dịch vệ sinh, an toàn thực phẩm để 
chiếm lĩnh được các thị trường này. Nếu không, 
dù thuế suất nhập khẩu của các thị trường này 
bằng 0%, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam 
cũng không thể tiếp cận, mở rộng thị trường. 
3. Một số khuyến nghị 
3.1. Đối với Nhà nước 
Thứ nhất, bên cạnh giao nhiệm vụ cho các 
Bộ, ngành liên quan, Chính phủ cần tiếp tục 
triển khai sửa đổi các văn bản quy phạm pháp 
luật cần thiết để thực thi các cam kết của 
CPTPP; đẩy nhanh cải cách thể chế trong nước, 
thúc đẩy vận hành nền kinh tế thị trường một 
cách toàn diện, tạo môi trường đầu tư - kinh 
doanh thông thoáng, minh bạch. 
Thứ hai, đẩy mạnh cải cách và đơn giản hóa 
thủ tục hành chính, tạo sự liên thông giữa các 
Bộ, ngành để nâng cao tính cạnh tranh của môi 
trường kinh doanh, thúc đẩy kết nối và hợp tác 
giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. 
Thứ ba, xây dựng một chiến lược về công 
tác tuyên truyền, phổ biến, cung cấp thông tin 
về Hiệp định cũng như chương trình hành động, 
xác định rõ nhiệm vụ của từng bộ phận để có 
huy động sự tham gia chủ động. Bộ Công 
Thương cần phối hợp với các Bộ, ngành liên 
quan sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đặc 
biệt trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản, thực 
phẩm thủy sản Đồng thời, tăng cường phổ 
biến các thông tin, cơ hội xuất nhập khẩu sang 
một số thị trường tiềm năng mà trước khi tham 
gia CPTPP, Việt Nam chưa có cơ hội khai thác 
như Canada, Mexico, Peru 
Thứ tư, đối với những sản phẩm mà Việt 
Nam có lợi thế xuất khẩu, cần thúc đẩy các hoạt 
động mở rộng thương mại, xúc tiến đầu tư giữa 
nhà đầu tư thuộc CPTPP với Việt Nam, giữa 
nhà đầu tư Việt Nam với đối tác thuộc các nước 
CPTPP để tìm kiếm cơ hội hợp tác, liên kết 
hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu. 
Thứ năm, Chính phủ cần chủ động xây 
dựng kế hoạch hành động bài bản, dựa trên lộ 
trình cắt giảm thuế quan của CPTPP. Đồng 
thời, trong các kế hoạch đó, cần có lộ trình cải 
thiện các vấn đề theo từng nhóm, ngành cụ thể. 
Bởi, Chính phủ nhìn ở góc độ chung, song 
doanh nghiệp chỉ nhìn ở nhóm ngành hàng. 
Ngoài ra, kế hoạch đó cũng phải đi sâu làm rõ 
vấn đề cụ thể mà từng ngành phải hành động. 
Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp mới có thể tự 
vạch kế hoạch cho chính mình. 
3.2. Đối với doanh nghiệp 
Thứ nhất, để chủ động trong việc thâm nhập 
thị trường các nước CPTPP, các doanh nghiệp 
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam cần chủ động 
hơn trong việc xây dựng các kế hoạch kinh 
doanh cho giai đoạn trung và dài hạn nhằm thúc 
đẩy dòng chảy của hàng hóa vào các thị trường 
đối tác trong CPTPP. Trong đó, cần tích cực 
tìm hiểu thông tin về thị trường các nước đối 
tác trong CPTPP, đặc biệt là thông tin về các ưu 
đãi thuế quan theo Hiệp định này đối với những 
mặt hàng mà doanh nghiệp đang có thế mạnh 
hoặc có nhiều tiềm năng xuất khẩu trong thời 
gian tới. 
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ 
động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối 
tác trong các nước CPTPP để thu hút mạnh mẽ 
đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng 
hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công 
nghệ từ các tập đoàn lớn. Đây cũng chính là cơ 
hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia 
sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng khu vực và 
toàn cầu. 
Thứ ba, thực tế phần lớn các doanh nghiệp 
Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, 
công nghệ lạc hậu, khả năng tiếp cận thị trường 
xuất khẩu còn hạn chế, nguồn vốn đầu tư thiếu, 
dẫn đến việc đầu tư, đổi mới và mở rộng quy 
mô sản xuất khó khăn, việc ứng dụng công 
nghệ cao còn chậm nên năng suất lao động 
thấp Vì vậy, cùng với sự hỗ trợ của Nhà 
N.T. Oanh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 74-82 
82 
nước, bản thân các doanh nghiệp xản xuất và 
xuất khẩu hàng hóa phải thay đổi tư duy kinh 
doanh thích nghi với bối cảnh mới, tích cực tìm 
hiểu, nắm bắt thông tin và linh hoạt trong việc 
tiếp cận, tận dụng cơ hội. Song song với đó, 
việc đầu tư xây dựng nguồn nhân lực chất 
lượng cao là yếu tố quan trọng hàng đầu trong 
chiến lược phát triển của mỗi doanh nghiệp khi 
tham gia vào thị trường CPTPP. 
Thứ tư, để giải quyết bài toán về quy tắc 
xuất xứ hàng hóa buộc chúng ta phải có lộ trình 
chủ động nguyên liệu trong nước. Hiện nay đa 
số doanh nghiệp nhập nguyên liệu đầu vào từ 
các nước ngoại khối. Do đó, đã đến lúc phải 
nhanh chóng chuyển sang nhập nguyên liệu từ 
các nước tham gia Hiệp định CPTPP để đủ điều 
kiện quy tắc xuất xứ. Về lâu dài, các doanh 
nghiệp cũng cần tính đến việc đầu tư, thu hút 
liên kết đầu tư vùng nguyên liệu tạo ra các 
chuỗi giá trị sản xuất trong nước. 
4. Kết luận 
CPTPP là hiệp định thương mại tự do đa 
phương quy mô lớn và là bước đột phá cho 
thương mại tự do giữa các nước thành 
viên. Theo dự báo, Việt Nam vẫn sẽ là nước 
nhận được nhiều lợi ích khi CPTPP được thực 
thi. Song, để tận dụng được cơ hội, đòi hỏi 
Chính phủ và bản thân các doanh nghiệp Việt 
Nam cần phải nỗ lực rất lớn. Hy vọng với việc 
CPTPP được triển khai đồng bộ trong tất cả các 
quốc gia thành viên, các doanh nghiệp và cơ 
quan nhà nước của Việt Nam sẽ tranh thủ thời 
gian “vàng” sắp tới để có được sự chuẩn bị tốt 
nhất cho hiệp định quan trọng này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] 
kien-hiep-dinh-cptpp 
[2] Công ty Cổ phần Đầu tư Chứng khoán BIDV - 
BSC, Tác động của Hiệp định CPTPP tới các 
ngành kinh tế, Báo cáo nghiên cứu, 2018. 
[3] Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, “Tận dụng 
cơ hội xuất khẩu từ CPTPP”, 
khau-tu-cptpp-578951.html, 4/1/2019. 
[4] Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, Đánh giá tác động 
của hiệp định CPTPP đến một số ngành kinh tế 
của Việt Nam, 2018. 
[5] Ngân hàng Thế giới, “Đánh giá tác động CPTPP 
đối với Việt Nam”, https://theleader.vn/world-
bank-danh-gia-chi-tiet-tac-dong-cua-hiep-dinh-
cptpp-den-kinh-te-viet-nam-
20180309133945501.htm, 9/3/2018. 
O 
p 

File đính kèm:

  • pdfviet_nam_tham_gia_hiep_dinh_cptpp_co_hoi_va_thach_thuc_doi_v.pdf