Việt Nam hướng tới tham gia Hiệp định mua sắm chính phủ (GPA) của WTO: Những thách thức từ góc độ minh bạch hóa

Hiệp định mua sắm chính phủ (Government Procurement Agreement – GPA) trong khuôn khổ

WTO là một hiệp định nhiều bên, các thành viên có thể tham gia một cách tự nguyện để tăng cơ

hội tiếp cận thị trường mua sắm chính phủ của các nền kinh tế thành viên GPA. Việt Nam đã trở

thành quan sát viên của Hiệp định từ tháng 12/2012 và đang cân nhắc khả năng trở thành thành

viên chính thức. Trong 3 nguyên tắc chính của GPA (bao gồm không phân biệt đối xử, minh

bạch và công bằng thủ tục) thì nguyên tắc minh bạch là thách thức rất lớn cho các nước khi

tham gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, bởi bên cạnh những tác động

tích cực của minh bạch hóa theo yêu cầu của Hiệp định, thì việc khó thực thi về mặt kỹ thuật,

cũng như những tác động tiêu cực trong ngắn hạn của minh bạch hóa đối với nền kinh tế cũng

cần được cân nhắc. Bài viết sẽ tập trung phân tích yêu cầu minh bạch hóa của Hiệp định GPA,

khoảng cách với hiện trạng của Việt Nam và những thách thức nảy sinh của Việt Nam khi thực

hiện minh bạch hóa theo yêu cầu của Hiệp định. Những phân tích này sẽ là căn cứ quan trọng

cho Việt Nam trong việc cân nhắc tham gia Hiệp định một cách chính thức.

pdf 14 trang kimcuc 20360
Bạn đang xem tài liệu "Việt Nam hướng tới tham gia Hiệp định mua sắm chính phủ (GPA) của WTO: Những thách thức từ góc độ minh bạch hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Việt Nam hướng tới tham gia Hiệp định mua sắm chính phủ (GPA) của WTO: Những thách thức từ góc độ minh bạch hóa

Việt Nam hướng tới tham gia Hiệp định mua sắm chính phủ (GPA) của WTO: Những thách thức từ góc độ minh bạch hóa
1 
Việt Nam hướng tới tham gia Hiệp định mua sắm chính phủ (GPA) của WTO: những 
thách thức từ góc độ minh bạch hóa 
Vũ Thị Hiền1 
Tóm tắt: 
Hiệp định mua sắm chính phủ (Government Procurement Agreement – GPA) trong khuôn khổ 
WTO là một hiệp định nhiều bên, các thành viên có thể tham gia một cách tự nguyện để tăng cơ 
hội tiếp cận thị trường mua sắm chính phủ của các nền kinh tế thành viên GPA. Việt Nam đã trở 
thành quan sát viên của Hiệp định từ tháng 12/2012 và đang cân nhắc khả năng trở thành thành 
viên chính thức. Trong 3 nguyên tắc chính của GPA (bao gồm không phân biệt đối xử, minh 
bạch và công bằng thủ tục) thì nguyên tắc minh bạch là thách thức rất lớn cho các nước khi 
tham gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, bởi bên cạnh những tác động 
tích cực của minh bạch hóa theo yêu cầu của Hiệp định, thì việc khó thực thi về mặt kỹ thuật, 
cũng như những tác động tiêu cực trong ngắn hạn của minh bạch hóa đối với nền kinh tế cũng 
cần được cân nhắc. Bài viết sẽ tập trung phân tích yêu cầu minh bạch hóa của Hiệp định GPA, 
khoảng cách với hiện trạng của Việt Nam và những thách thức nảy sinh của Việt Nam khi thực 
hiện minh bạch hóa theo yêu cầu của Hiệp định. Những phân tích này sẽ là căn cứ quan trọng 
cho Việt Nam trong việc cân nhắc tham gia Hiệp định một cách chính thức. 
Từ khoá: GPA, minh bạch, mua sắm chính phủ 
Abstracts: 
The Government Procurement Agreement (GPA) under the WTO is a plurilateral agreement, 
meaning that WTO members can volunteer to join, with objective of accessing to other members’ 
government procurement markets. Vietnam has become an observer of the agreement since 
December 2012 and is considering the possibility of becoming its full member. Out of the three 
main principles of the GPA (including non-discrimination, transparency and procedural 
fairness), the principle of transparency is a major challenge for participating countries, 
especially for developing countries like Vietnam. Besides the positive effects of transparency 
requirements by the Agreement, Vietnam has to take into account technical difficulties of 
implementation, as well as short-term negative effects of transparency on the economy. The 
1 Trường Đại học Ngoại thương, Email: vuhienftu@gmail.com 
2 
paper will focus on analyzing the transparency requirements of the GPA Agreement, the gap 
with Vietnam’s current state, and emerging challenges Vietnam may face when reaching its 
transparency standards. This analysis will be an important basis for Vietnam to consider 
officially joining the Agreement. 
Keywords: GPA, transparency, government procurement 
1. Đặt vấn đề 
Mua sắm chính phủ (hay là mua sắm công) là một nội dung quan trọng được đưa vào 
đàm phán trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Mua sắm chính phủ là khoản 
mua sắm lớn, chiếm khoảng 14% đến 20% GDP của quốc gia (TI và CIPE, 2010). Nhận thức 
được tầm quan trọng và tác động của GPA đến thương mại, WTO đã tiến hành đàm phán và ký 
kết Hiệp định GPA, lần đầu tiên vào năm 1979. Do đây là một khoản chi tiêu công, việc đảm bảo 
minh bạch, cùng với các yêu cầu về không phân biệt đối xử, công bằng về thủ tục là yêu cầu cơ 
bản của GPA với mục tiêu tạo sự thuận lợi, công bằng, đảm bảo quyền và lợi ích của các nhà 
thầu nội địa và nước ngoài, cũng như tăng hiệu quả sử dụng vốn cho Chính phủ. 
Minh bạch trong lĩnh vực mua sắm chính phủ, theo quan điểm của APEC, có nghĩa là “sự 
sẵn có thông tin liên quan và đầy đủ cho tất cả các bên có quan tâm theo một cách kịp thời và 
nhất quán thông qua một phương thức hiện hữu rộng khắp và sẵn sàng để tiếp cận, điều này áp 
dụng cho mọi khía cạnh trong hoạt động mua sắm Chính phủ, bao gồm cả môi trường vận hành 
chung, các cơ hội mua sắm, các yêu cầu mua sắm, các tiêu chuẩn đánh giá thầu và việc trao hợp 
đồng” (APEC, 2006). Khi tiếp cận một hệ thống mua sắm chính phủ, yếu tố minh bạch thường 
được xem xét đầu tiên, do yếu tố này “có khả năng thực hiện được một số mục tiêu đổi mới như 
giảm tham nhũng, thúc đẩy tính nhất quán và hiệu quả của dịch vụ công, thúc đẩy cạnh tranh và 
gia tăng giá trị đồng tiền, tạo ra hệ thống quản trị hiệu quả và không phân biệt đối xử” (Fenster, 
2003). 
Hiện nay Việt Nam đang là quan sát viên của GPA và đang cân nhắc trở thành thành viên 
chính thức của Hiệp định. Tuy nhiên, hệ thống mua sắm chính phủ của Việt Nam hiện “còn một 
số yếu kém, bao gồm các qui định pháp luật phân tán, mức độ minh bạch thấp và sự hạn chế về 
năng lực như thiếu kiến thức và dữ liệu về đấu thầu, khi vực nhà nước kém hiệu quả và mức độ 
tham nhũng cao, đó là những thách thức chính và ảnh hưởng đến khả năng đàm phán tự do hóa 
mua sắm chính phủ theo Hiệp định GPA” (Sangeeta Khorana, 2012). Để chuẩn bị cho việc trở 
thành thành viên chính thức của Hiệp định, Việt Nam phải cải thiện hệ thống mua sắm của mình, 
trong đó có vấn đề về minh bạch. 
3 
Tuân thủ các yêu cầu minh bạch trên là thách thức rất lớn cho các nước khi tham gia, đặc 
biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, bởi bên cạnh những tác động tích cực, thì 
việc khó thực thi về mặt kỹ thuật, cũng như những tác động tiêu cực trong ngắn hạn của minh 
bạch hóa đối với nền kinh tế cũng cần được cân nhắc. Với mục tiêu hội nhập sâu hơn về lĩnh vực 
mua sắm chính phủ và tăng hiệu quả của hệ thống đấu thầu nội địa, bài viết sẽ tập trung phân tích 
yêu cầu minh bạch hóa của Hiệp định GPA, khoảng cách với hiện trạng của Việt Nam và những 
thách thức nảy sinh của Việt Nam khi thực hiện minh bạch hóa theo yêu cầu của Hiệp định. 
Những phân tích này sẽ là căn cứ quan trọng cho Việt Nam trong việc từng bước cải thiện hệ 
thống mua sắm chính phủ của mình, đảm bảo các điều kiện cần thiết cho việc tham gia GPA. 
2. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 
Tổng quan nghiên cứu 
Có khá nhiều nghiên cứu trên thế giới về mua sắm chính phủ, trong đó “Nghiên cứu định 
lượng về thiên hướng trong nước trong mua sắm chính phủ” của Anirudh Shingal (Tạp chí 
Review of International Economics, Volume 23, 2015) đã giải thích thiên hướng nghiêng về thị 
trường trong nước đối với hoạt động mua sắm chính phủ có nguyên nhân quan trọng là sự khác 
biệt về năng suất giữa trong nước và ngoài nước. Báo cáo của Trung tâm nghiên cứu luật toàn 
cầu năm 2010 với tiêu đề “Luật và chính sách mua sắm chính phủ” đã tổng hợp và so sánh các 
qui định mua sắm chính phủ của một số quốc gia. Nghiên cứu về chính sách và luật mua sắm 
chính phủ của từng nước riêng lẻ có cuốn sách của Aris Georgopoulos, Bernard M. 
Hoekman, Petros C. Mavroidis với tiêu đề “Quốc tế hóa các qui định mua sắm chính phủ”, Nxb 
Oxford University Press năm 2017 đã nghiên cứu sự thể hiện của các chuẩn mực quốc tế về mua 
sắm chính phủ trong thực tế mua sắm của các quốc gia, bao gồm cả các nước tiên tiến, thu nhập 
cao cũng như các quốc gia mới nổi. 
Đánh giá về tác động của minh bạch trong mua sắm chính phủ đến nền kinh tế có khá 
nhiều nghiên cứu, điển hình là nghiên cứu của Hiroshi Ohashi (2009) với tiêu đề “Các tác động 
của minh bạch trong mua sắm chính phủ đến chi tiêu của chính phủ: trường hợp các công trình 
đô thị” (Tạp chí Review of Industrial Organization, 2009, Volume 34) đã phân tích tác động của 
việc cải thiện minh bạch trong quá trình đánh giá nhà thầu, trong đó tác động điển hình là làm 
giảm chi phí đấu thầu. Ngoài ra còn nhiều nghiên cứu tập trung vào tính hiệu quả mà minh bạch 
như nghiên cứu của Volmink, P. năm 2010 về “Tăng cường minh bạch trong mua sắm của khu 
vực công: kinh nghiệm của Nam Phi” (Hội thảo quốc tế về mua sắm công lần thứ 4, Seoul, Hàn 
Quốc, 26-28 tháng 8/2010), hay nghiên cứu của Panda, P., Sahu, G.P. and Gupta, P., năm 2010 
về “Thúc đẩy tính minh bạch và hiệu quả trong mua sắm chính phủ: sáng kiến về mua sắm điện 
4 
tử của Chính phủ Ấn Độ” (Hội thảo quốc tế về Chính phủ điện tử lần thứ 7, Học viện Quản trị 
Bangalore, Ấn Độ, 22-24 tháng 4/2010) 
Đối với Việt Nam, nghiên cứu của Sangeeta Khorana (2011) đã phân tích lợi ích và chi 
phí của Việt Nam khi gia nhập GPA, trong đó bên cạnh lợi ích của việc tăng cường mức độ minh 
bạch, tăng khả năng tiếp cận thị trường nội địa, cam kết đổi mới của Chính phủ, thì GPA cũng 
đem đến những thách thức về chi phí đàm phán gia nhập, cải tổ hệ thống pháp luật về mua sắm 
chính phủ đang còn rất phân tán, nỗ lực cải thiện mức độ tham nhũng đang còn ở mức cao, hay 
điều tiết chính sách để cân bằng sự phát triển trong khu vực, Nghiên cứu về minh bạch trong 
mua sắm chính phủ của Việt Nam, hiện đã có báo cáo (TI và CIPE, 2010) trình bày 11 chuẩn 
mực minh bạch của APEC và phân tích việc triển khai các chuẩn mực ở Việt Nam. Tuy nhiên, 
căn cứ để so sánh, phân tích trong báo cáo là Luật Đấu thầu ban hành năm 2005, sửa đổi năm 
2009, trong khi hiện nay, Luật này đã được thay thế bằng Luật Đấu thầu năm 2013 với những 
thay đổi cơ bản về nội dung. 
Như vậy, hiện chưa có nghiên cứu nào tập trung phân tích mức độ minh bạch của Việt Nam 
trong lĩnh vực mua sắm chính phủ trong tương quan so sánh với chuẩn mực của Hiệp định GPA 
của WTO. 
Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 
Căn cứ vào khái niệm minh bạch trong mua sắm chính phủ theo quan điểm của APEC, tác giả sẽ 
rà soát toàn bộ các điều khoản thuộc phạm vi của khái niệm minh bạch trong hiệp định GPA. Từ 
việc rà soát này, tác giả xây dựng một bộ khung tiêu chuẩn minh bạch bao trùm toàn bộ các điều 
khoản này làm khung phân tích, đồng thời, nhóm các điều khoản của hiệp định theo khung đã 
xây dựng để dễ dàng trong việc tìm kiếm các điều khoản có liên quan từ các văn bản qui phạm 
pháp luật hiện hành của Việt Nam. 
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu luật viết, tức là nghiên cứu các 
văn bản thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 
80/2015/QH13 ngày 22/06/2015, tuy nhiên tác giả không nghiên cứu toàn bộ văn bản, mà chỉ 
nghiên cứu những nội dung có liên quan đến tính minh bạch trong mua sắm chính phủ, dựa trên 
tính liên quan của các điều khoản trong văn bản đến 1 trong 6 nhóm yêu cầu minh bạch đã xây 
dựng. 
Mỗi hiệp định hay định chế quốc tế có cách tiếp cận khác nhau về các yêu cầu minh bạch, khác 
nhau cả về nội dung và mức độ minh bạch mà nó đặt ra cho các quốc gia thành viên, thậm chí 
5 
khác nhau cả về cách trình bày các yêu cầu minh bạch. Sau khi rà soát các qui định về minh bạch 
trong Hiệp định GPA, tác giả hệ thống chúng thành 6 nhóm yêu cầu sau đây: 
Nhóm 1: Công bố luật và các qui định liên quan đến mua sắm chính phủ 
Nhóm 2: Xác lập kênh để tiếp nhận và xử lý các thắc mắc về luật và dự thảo luật 
Nhóm 3: Thông báo và diễn giải thủ tục pháp lý áp dụng đối với mua sắm chính phủ cho cá nhân 
từ các nền kinh tế khác 
Nhóm 4: Việc tiếp cận các cơ hội đấu thầu 
Nhóm 5: Công bố các yêu cầu, thông tin cần thiết trong quá trình đấu thầu (hồ sơ dự thầu, hoạt 
động đánh giá hồ sơ dự thầu, kết quả đấu thầu, ký kết hợp đồng) 
Nhóm 6: Thông tin bảo mật 
Để tìm ra khoảng cách giữa hiện trạng mức độ minh bạch của Việt Nam với các yêu cầu minh 
bạch của GPA, tác giả sử dụng phương pháp luật so sánh: so sánh giữa các điều khoản qui định 
về cùng một vấn đề giữa Hiệp định GPA và các văn bản qui phạm pháp luật của Việt Nam để 
góp phần làm sáng tỏ nội dung của hiệp định, khi soi chiếu đến các văn bản qui phạm pháp luật 
hiện hành của Việt Nam càng làm sáng tỏ qui định và khoảng cách với yêu cầu của Hiệp định 
với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về minh bạch trong mua sắm chính phủ. Sự sáng 
tỏ này là một trong những điều kiện cần đối với việc lựa chọn các hướng đi cho việc cải thiện 
mức độ minh bạch, nâng cao tính hiệu quả của việc thực thi sau này, đặc biệt là tính chính xác 
khi áp dụng trong thực tiễn. Trên cơ sở xem xét tác động của minh bạch đến nền kinh tế từ các 
nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ chỉ ra một số những thách thức cơ bản mà Việt Nam sẽ phải đối 
mặt khi cải thiện mức độ minh bạch trong hệ thống mua sắm chính phủ của mình, hướng đến 
việc trở thành thành viên của GPA. 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Hiệp định GPA và con đường lựa chọn tham gia của Việt Nam 
GPA là một hiệp định nhiều bên trong hệ thống WTO (không bắt buộc mọi thành viên WTO 
phải tham gia), hiện có 19 thành viên (tương ứng với 47 thành viên của WTO), trong khi 29 
thành viên khác của WTO đang là quan sát viên. Mục tiêu của GPA là thúc đẩy cơ hội tiếp cận 
các thị trường mua sắm ở các nước là thành viên GPA, thúc đẩy sự gia tăng giá trị đồng tiền 
6 
trong các hoạt động mua sắm, đồng thời, GPA giúp cho việc quản trị tốt hơn (minh bạch, cạnh 
tranh lành mạnh và không có dấu hiệu tham nhũng tại các thị trường mua sắm trong phạm vi 
điều chỉnh) (WTO, 2017). 
Hiệp định được ký kết lần đầu vào năm 1979, sửa đổi vào năm 1987. Sau khi đàm phán để mở 
rộng phạm vi cùng với Vòng đàm phán Urugoay, Hiệp định mới đã được ký kết năm 1994 (gọi 
tắt là GPA1994). Hiệp định này đã được đàm phán sửa đổi và hoàn thành đàm phán năm 2012 
(được gọi là GPA2012). Hai phiên bản đều dựa trên các nguyên tắc cơ bản: không phân biệt đối 
xử, minh bạch, và công bằng về thủ tục. Sự khác biệt lớn nhất của GPA 2012 so với GPA 1994 
là việc bổ sung một số nội dung để theo kịp với thông lệ mua sắm mới, bao gồm việc sử dụng 
các công cụ điện tử trong mua sắm như đấu thầu qua mạng, tăng tính linh hoạt cho các cơ quan 
mua sắm (sử dụng công cụ điện tử trong mua sắm như thẻ thanh toán, thanh toán trực tuyến) 
và rút ngắn thời hạn thông báo mời thầu,... Đồng thời, GPA 2012 cũng chú trọng hơn đến mục 
tiêu quản trị tốt và đấu tranh chống tham nhũng, các biện pháp chuyển tiếp, đối xử đặc biệt và 
khác biệt dành cho các nước đang phát triển. 
Việt Nam đang cân nhắc khả năng trở thành thành viên chính thức của Hiệp định GPA. Chiều 
ngày 05/12/2012, Ủy ban Mua sắm Chính phủ thuộc WTO đã phê chuẩn quy chế quan sát viên 
của Việt Nam. Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã nỗ lực để sửa đổi, bổ sung các qui định về 
đấu thầu, mua sắm công để phù hợp với yêu cầu của Hiệp định, đặc biệt là những thay đổi cơ bản 
trong Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13. Việc tham gia GPA với tư cách quan sát viên được xem 
là bước đầu tiên tiến tới trở thành thành viên chính thức của Hiệp định. 
3.2. Yêu cầu về minh bạch của GPA và khoảng cách với mức độ minh bạch hiện tại của Việt 
Nam 
Trên cơ sở soi chiếu theo từng nhóm yêu cầu minh bạch đã xây dựng, bài viết sẽ xem xét yêu cầu 
của Hiệp định GPA, tìm ra khoảng cách với mức độ minh bạch hiện tại của Việt Nam. 
3.2.1. Nhóm 1: Công bố luật và các qui định pháp lý liên quan đến mua sắm chính phủ 
Minh bạch về luật và các qui định pháp lý liên quan đến mua sắm chính phủ là vấn đề cốt yếu 
của một hệ thống đấu thầu lành mạnh. GPA 2012 (Điều VI) yêu cầu các thành viên kịp thời công 
bố các luật, qui định và các quyết định pháp lý, các quy định hành chính áp dụng chung, các điều 
khoản hợp đồng mẫu bắt buộc theo yêu cầu của luật hoặc qui định và gắn liền với các dẫn chiếu 
từ các thông báo hoặc hồ sơ thầu đối với các hoạt động mua sắm thuộc phạm vi điều chỉnh bởi 
Hiệp định, bao gồm cả các sửa đổi tương ứng. 
7 
Về cách thức công bố, GPA đặt ra chuẩn mực rất cụ thể: yêu cầu luật và các qui định này phải 
được công bố trên ít nhất một phươ ...  chủ yếu: 
cách thức thông báo, và mức độ chi tiết và rõ ràng của thông báo về nội dung của gói thầu. 
Thứ nhất, về cách thức thông báo, đối với gói thầu sắp thực hiện, GPA (Điều VII) yêu cầu bên 
mời thầu sẽ phải thông báo trên một phương tiện giấy hoặc điện tử đã được cam kết, được phổ 
biến rộng rãi và thông báo phải được duy trì để công chúng tiếp cận, ít nhất là cho đến hết giai 
đoạn thời gian theo qui định của gói thầu nếu dùng phương tiện điện tử. Khi bên mời thầu là cơ 
quan trung ương, thông báo sẽ phải thực hiện thông qua một cổng điện tử truy cập duy nhất, truy 
cập miễn phí. Ngoài ra, GPA (Điều VII) còn có qui định về Thông báo ngắn gọn (Summary 
Notice) đối với từng gói thầu sắp thực hiện, trong đó, thông báo này phải sẵn sàng được tiếp cận 
cùng thời điểm với thông báo gói thầu sắp thực hiện, bằng 1 trong các ngôn ngữ của WTO, và ít 
nhất phải chứa đựng các nội dung sau: (a) đối tượng mua sắm; (b) ngày cuối cùng nộp hồ sơ 
thầu, hoặc, nếu có thể, ngày cuối cùng gửi yêu cầu tham gia thầu hoặc yêu cầu tham gia vào 
danh sách sử dụng nhiều lần (multi-use list), và (c) địa chỉ cung cấp hồ sơ. Đối với kế hoạch đấu 
thầu, GPA khuyến khích bên mời thầu thông báo trong năm tài chính càng sớm càng tốt. 
Thứ hai, về nội dung cần thông báo của gói thầu sắp thực hiện, GPA liệt kê 12 nội dung bắt 
buộc, trong đó bao gồm cả phương thức đầu thầu sẽ sử dụng, mô tả ngắn gọn về điều kiện tham 
gia của nhà thầu, các tiêu chí lựa chọn trong trường hợp chỉ mời một số lượng hạn chế nhà thầu 
tham gia, 
Xem xét mức độ tương thích, Việt Nam đã tương thích về cách thức thông báo mời thầu. Việt 
Nam yêu cầu đăng tải cả kế hoạch lựa chọn nhà thầu và các thông báo mời thầu trên Báo đấu 
thầu và Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, việc truy cập là miễn phí. Tuy nhiên, Việt Nam chưa 
có qui định và chưa triển khai việc thông báo ngắn gọn đối với gói thầu sắp thực hiện. Đồng thời, 
9 
nội dung cần đăng tải trong thông báo mời thầu chưa đáp ứng 6 trong số 12 nội dung mà GPA 
yêu cầu, bao gồm: thông tin về ngôn ngữ sử dụng trong hồ sơ thầu; các điều kiện tham gia của 
nhà thầu; thời gian thông báo trong trường hợp hợp đồng định kỳ/tuần hoàn; mô tả những lựa 
chọn cho nhà thầu; địa chỉ và thời hạn gửi yêu cầu tham gia thầu, nếu áp dụng; các tiêu chí lựa 
chọn số lượng hạn chế các nhà cung cấp để gửi hồ sơ thầu và số lượng các nhà thầu sẽ lựa chọn 
trong trường hợp đấu thầu hạn chế. 
3.2.5. Nhóm 5: Công bố các yêu cầu, thông tin cần thiết trong quá trình đấu thầu (hồ sơ 
thầu, hoạt động đánh giá hồ sơ dự thầu, kết quả đấu thầu, ký kết hợp đồng) 
Về hồ sơ mời thầu, GPA (Điều X) qui định về 8 mục nội dung tối thiểu, bao gồm thông tin về 
tính chất và số lượng hàng hóa, dịch vụ mời thầu, điều kiện tham gia của nhà thầu, tiêu chí đánh 
giá hồ sơ dự thầu, điều kiện đấu thầu điện tử, mở thầu, điều kiện thanh toán, ngày giao hàng hóa, 
dịch vụ,. Pháp luật Việt Nam hiện tại đã tương thích với yêu cầu này. 
Về hoạt động đánh giá hồ sơ dự thầu đối với trường hợp đấu thầu qua mạng, GPA (Điều XIV) 
qui định bên mời thầu phải công bố phương pháp đánh giá tự động trước khi tiến hành đấu thầu, 
dựa trên các tiêu chí đánh giá đã được xây dựng trong hồ sơ mời thầu. Về điểm này, Việt Nam 
vẫn chưa đáp ứng, mà vẫn đánh giá như đối với đấu thầu truyền thống. 
Về công bố kết quả đấu thầu, yêu cầu phải kịp thời công bố kết quả đấu thầu cho nhà thầu trúng 
thầu và cả cho nhà thầu không trúng thầu, có giải thích về lý do không trúng thầu. Thông báo về 
việc trao hợp đồng này sẽ được công bố trên tờ báo giấy hoặc phương tiện điện tử đã đăng ký 
trong vòng 72 ngày, tối thiểu phải gồm 6 nhóm thông tin. 
Pháp luật Việt Nam đã cơ bản tương thích về nguyên tắc công bố kết quả lựa chọn nhà thầu, tuy 
nhiên trong nội dung thông báo, pháp luật của Việt Nam không yêu cầu bắt buộc phải nêu địa chỉ 
của nhà thầu trúng thầu, ngày trao hợp đồng, hình thức đấu thầu, lý do áp dụng đấu thầu hạn chế 
như yêu cầu bởi GPA. 
3.2.6. Nhóm 6: Thông tin bảo mật 
GPA không yêu cầu các bên phải công bố những thông tin bảo mật nếu những thông tin này: 
- sẽ làm cản trở việc thi hành pháp luật hoặc 
- có thể ảnh hưởng tới cạnh tranh công bằng giữa các nhà cung cấp. 
- làm ảnh hưởng tới các lợi ích thương mại hợp pháp của các cá nhân cụ thể, bao gồm cả 
việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đi ngược lại với các lợi ích chung 
10 
- đi ngược lại với các lợi ích chung (bao gồm cả việc làm nguy hại đến an ninh của nền 
kinh tế có liên quan). 
Hiện Luật đấu thầu của Việt Nam cấm tiết lộ các tài liệu trong quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà 
đầu tư được đóng dấu mật theo quy định của pháp luật và thông tin đối với những dự án, gói thầu 
thuộc danh mục bí mật nhà nước quy định tại Khoản 4 Điều 7 của Nghị định số 63/2014/NĐ-CP 
ngày 26 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu 
thầu về lựa chọn nhà thầu. Tuy nhiên nguyên tắc xây dựng danh mục bảo mật của Việt Nam 
không tương thích với các điều kiện trên của GPA. 
3.2.7. Nhận xét chung về khoảng cách giữa mức độ minh bạch hiện tại của Việt Nam với các 
yêu cầu minh bạch của GPA 
Khi xem xét một cách chung nhất khoảng cách giữa mức độ minh bạch hiện tại của Việt Nam 
với các yêu cầu minh bạch của GPA theo từng nhóm yêu cầu, có thể phân chia 6 nhóm trên ra 
theo mức độ tương thích: 
- Mức 1 - Tương thích hoàn toàn: Nhóm 1 
- Mức 2 - Tương thích cao: Nhóm 2 
- Mức 3 - Tương thích một phần: Nhóm 4 và Nhóm 5 
- Mức 4 - Tương thích thấp: Nhóm 3 và Nhóm 6 
Có thể nói, mức độ tương thích hoàn toàn của Nhóm 1 và tương thích cao của Nhóm 2 đã thể 
hiện Việt Nam trong những năm vừa qua đã đạt được một bước tiến dài về việc công bố và giải 
thích luật và các qui định về mua sắm chính phủ, cũng như cải thiện quá trình làm luật để tăng 
cường sự đóng góp ý kiến vào dự thảo luật của các bên liên quan. Điểm sáng tiếp theo là thị 
trường mua sắm chính phủ đã có mức độ cạnh tranh cao hơn, đồng nghĩa với tính hiệu quả của 
mua sắm sẽ tăng lên, do việc tiếp cận các cơ hội đấu thầu được mở rộng, tuy nhiên vẫn còn một 
khoảng cách khá xa so với yêu cầu của GPA (Nhóm 4). Hơn nữa, “chất lượng” minh bạch phụ 
thuộc nhiều hơn vào nội dung và cách thức công bố thông tin chi tiết trong quá trình đấu thầu, 
mua sắm, những vấn đề này thuộc về Nhóm 5 thì hiện còn khá nhiều nội dung chưa tương thích 
với GPA. Thêm nữa, bảo mật thông tin với phạm vi rộng hơn khuyến nghị của GPA, đồng thời 
việc chưa chủ động cung cấp và diễn giải thủ tục cho cá nhân từ các nền kinh tế khác đang là 
điểm yếu trong việc đáp ứng chuẩn mực minh bạch GPA của Việt Nam (Nhóm 3 và Nhóm 6). 
4. Những thách thức đặt ra đổi với Việt Nam khi minh bạch hóa theo yêu cầu của GPA và 
một số khuyến nghị 
11 
Qua nghiên cứu ở trên cho thấy, tính minh bạch thể hiện trong hệ thống pháp luật của Việt Nam 
đã dần từng bước tiếp cận đến các yêu cầu của GPA. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của (Nguyễn 
Thị Thu Trang, 2016), Việt Nam không mạnh dạn cải thiện mức độ minh bạch một cách mạnh 
mẽ ngay tại thời điểm Việt Nam sửa đổi Luật Đấu thầu năm 2013, nguyên nhân nằm ở “việc 
thực hiện các quy định cũng là về minh bạch và cạnh tranh trong nhóm “chưa tuân thủ” đòi hỏi 
các nỗ lực lớn hơn, với các chi phí thực hiện có thể cao hơn”. 
Để thực hiện minh bạch hóa theo GPA, có thể phát sinh một số chi phí sau: (1) chi phí sửa đổi 
luật và các văn bản qui phạm pháp luật; (2) chi phí thực thi qui định sau sửa đổi; và (3) chi phí 
điều chỉnh từ phía doanh nghiệp. Chi phí sửa đổi luật và các văn bản qui phạm pháp luật bao 
gồm nhiều loại chi phí như chi phí hành chính, chi phí đào tạo nhân lực, Chi phí thực thi có lẽ 
sẽ rất lớn trong giai đoạn đầu gia nhập vì Việt Nam còn hạn chế về năng lực hành chính và thiếu 
nguồn nhân lực chuyên nghiệp về lĩnh vực đấu thầu, đồng thời, Việt Nam phải thiết lập thêm 
những hệ thống hành chính mới hay các hệ thống trang thiết bị mới để phục vụ đấu thầu qua 
mạng,... Tuy vậy thì chi phí lớn nhất thuộc về chi phí điều chỉnh của doanh nghiệp để sẵn sàng 
cạnh tranh trong một môi trường minh bạch hơn, như điều chỉnh cơ cấu sản xuất, tính hiệu quả 
của sản xuất. Theo Sangeeta Khorana (2012), trong ngắn hạn có thể có những tác động tiêu cực, 
ví dụ một số nhà thầu trong nước sẽ bị mất thị phần trong mua sắm chính phủ, nhưng về dài hạn, 
minh bạch sẽ khiến tăng khả năng cạnh tranh, từ đó tạo ra nhiều việc làm cho nền kinh tế. 
Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức trong việc thực thi các mục tiêu kinh tế - 
xã hội mà mua sắm chính phủ đảm nhiệm như mua sắm để xử lý kịp thời hậu quả thiên tai, mua 
sắm thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế để triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh, mua sắm 
phục vụ mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm bí mật nhà nước, Minh bạch hóa sẽ 
khiến cho Chính phủ không thể tùy ý sử dụng mua sắm chính phủ như một công cụ thể thực hiện 
các mục tiêu này. Các hoạt động này hiện được thực hiện chủ yếu qua hình thức chỉ định thầu, 
theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2016, đang giữ ở tỷ lệ cao nhất: 69,24% 
tổng số gói thầu, nhưng có tỷ lệ tiết kiệm thấp nhất (chỉ đạt 2,72%, trong khi tỷ lệ tiết kiệm trung 
bình qua đấu thầu năm 2016 đạt 7,11%. Khi thực hiện GPA, các nhà thầu nước ngoài sẽ có cơ 
hội để cạnh tranh trong phân khúc này. Khi năng lực, kinh nghiệm của các cán bộ quản lý nhà 
nước trong các lĩnh vực cụ thể chưa được nâng cao, những vấn đề nhạy cảm đối với xã hội có thể 
phát sinh, ví dụ như, vấn đề quản lý chất lượng và giá thuốc, vấn đề an ninh thông tin, 
Thách thức tiếp theo thuộc về những bất lợi cho khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp 
vừa và nhỏ. Thị trường mua sắm chính phủ hiện đang được chiếm lĩnh bởi các doanh nghiệp nhà 
nước bởi lợi thế về thông tin và quan hệ. Minh bạch theo GPA sẽ khiến cho thị trường mua sắm 
khá lớn này bị san sẻ cho các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài. Biểu hiện khá 
12 
rõ trong những năm gần đây khi Luật Đấu thầu tăng khả năng tiếp cận cơ hội đấu thầu cho nhà 
thầu nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xây dựng đã phải nhường sân cho nhà 
thầu Trung Quốc trong rất nhiều dự án lớn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam 
hiện còn rất hạn chế về năng lực và kinh nghiệm đấu thầu trong nước và quốc tế, nên rất khó 
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. 
Một thách thức nữa là những cản trở thực thi yêu cầu minh bạch từ cả các cơ quan trung ương và 
địa phương, do tham nhũng và hạn chế về năng lực. Tham nhũng sẽ khiến cho các yêu cầu minh 
bạch của GPA không được thực thi một cách nghiêm túc hoặc không phát huy tác động tích cực, 
ví dụ như, nhận hối lộ từ các nhà thầu Trung Quốc sẽ làm các nhà thầu dễ thắng thầu, song lại 
không đảm bảo chất lượng hay tiến độ công trình, gây nguy hại cho quốc gia. Bản thân minh 
bạch đã góp phần làm giảm tham nhũng, song tham nhũng là vấn đề mà Chính phủ cần vào cuộc 
quyết liệt để mua sắm chính phủ không còn là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng. 
Để Việt Nam có thể gia nhập GPA, đảm bảo các yêu cầu minh bạch của GPA mà vẫn đảm bảo 
lợi ích cao nhất cho quốc gia, Việt Nam cần phải thực hiện những định hướng lớn sau: 
- Thứ nhất, nâng cao năng lực cạnh tranh cho khu vực hóa doanh nghiệp nhà nước thông 
qua đẩy mạnh quá trình cổ phần; tập trung vào các chương trình ưu đãi cho doanh nghiệp 
nhỏ và vừa để tăng khả năng tiếp cận thị trường mua sắm chính phủ cho các doanh 
nghiệp này. 
- Thứ hai, phổ biến rộng rãi các yêu cầu minh bạch của GPA và của các hiệp định/định chế 
mà Việt Nam đã và đang chuẩn bị tham gia như APEC, Hiệp định EVFTA, để các cơ 
quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt và chuẩn bị cho việc thực 
hiện sau này. 
- Thứ ba, tăng cường đào tạo cho đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động đấu thầu, đội ngũ thực 
thi công tác đấu thầu, xây dựng Bộ quy tắc ứng xử cho cán bộ thực thi công tác đấu thầu, 
nhằm tăng tính minh bạch, tránh mâu thuẫn lợi ích và phòng chống tham nhũng hiệu quả. 
- Thứ tư, đẩy mạnh việc thực hiện Chính phủ điện tử và đấu thầu qua mạng, một phương 
thức tiên tiến, hiệu quả và minh bạch. Tuy nhiên phải chuẩn bị đồng bộ các yếu tố, đặc 
biệt là hạ tầng công nghệ và các qui định pháp lý cụ thể để đấu thầu điện tử được thực 
hiện rộng rãi hơn. 
- Thứ năm, yêu cầu các trợ giúp kỹ thuật từ WTO cho việc chuẩn bị gia nhập GPA, học hỏi 
kinh nghiệm của các nước tương đồng về trình độ và đã gia nhập Hiệp định này. 
5. Kết luận 
13 
Hiện trạng về minh bạch của Việt Nam đang ở khoảng cách khá xa so với yêu cầu của GPA, chủ 
yếu ở các nội dung liên quan đến tiếp cận cơ hội đấu thầu, thông báo mời thầu, hệ thống đấu thầu 
qua mạng và thông tin bảo mật. Xóa bỏ khoảng cách này để gia nhập GPA một cách chính thức 
sẽ đem đến những thách thức về tăng chi phí điều chỉnh, rủi ro trong việc thực hiện những mục 
tiêu kinh tế - xã hội, những bất lợi cho khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
Việt Nam cần phải thực hiện từng bước để giảm dần khoảng cách này, để tránh gây ra những cú 
sốc cho nền kinh tế, đồng thời tăng hiệu quả đầu tư công, chống tham nhũng, nâng cao năng lực 
của doanh nghiệp trong nước. 
Tài liệu tham khảo chính 
1. Anirudh Shingal (2015), “Econometric Analyses of Home Bias in Government 
Procurement”, Review of International Economics, Volume 23, Issue 1, February 
2015, Pages 188–219. 
2. APEC (2006), Review of the APEC Non-Binding Principles (NBPs) on Government 
Procurement, Government Procurement Experts’ Group Meeting, Hoi An, Viet Nam, 
8-9 September 2006. 
3. Fenster, G. (2003), Multilateral Talks on Transparency in Government Procurement: 
Concerns for Developing Countries, IDS Bulletin, 34(2), pp.65-81. 
4. Nguyễn Thị Thu Hiền (2014), Sự minh bạch trong mua sắm chính phủ theo quy định 
của WTO, 
minh-bach-trong-mua-sam-chinh-phu-theo-quy-dinh-cua-wto-11322.html. 
5. Hejing Chen, John Whalley (2011), The WTO Government Procurement Agreement 
and its impacts on trade, Working Paper, August 2011. 
6. Hiroshi Ohashi (2009), “Effects of Transparency in Procurement Practices on 
Government Expenditure: A Case Study of Municipal Public Works”, Review of 
Industrial Organization, 2009, Volume 34. 
7. Pelletier, Philippe (2015), “2012 Revision of the WTO Agreement on Government 
Procurement: Coverage Dimensions and Context”, John H. Currie & René Provost 
(eds), The Canadian Yearbook of International Law, Volume 51, 2013, NXB 
University of British Columbia Press. 
8. Sangeeta Khorana (2012), Potential accession to the GPA: cost-benefit analysis on 
Vietnam, Proceedings, The 5th International Public Procurement Conference, Seattle, 
USA, 17-19/08/2012. 
14 
9. Nguyễn Thị Thu Trang (2016), Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp 
định thương mại tự do Việt Nam - EU về Mua sắm công, NXB Công thương. 
10. TI (Tổ chức Minh bạch Quốc tế - Hoa Kỳ) và CIPE (Trung tâm Doanh nghiệp Tư 
nhân Quốc tế) (2010), Các chuẩn mực về minh bạch của APEC trong hoạt động mua 
sắm công ở Việt Nam. 
11. WTO (2003), Report of the working group on transparency in government 
procurement to the general council. 
12. WTO (2017), Agreement on Government Procurement, 
https://www.wto.org/english/tratop_e/gproc_e/gp_gpa_e.htm, truy cập ngày 
16/03/2017. 

File đính kèm:

  • pdfviet_nam_huong_toi_tham_gia_hiep_dinh_mua_sam_chinh_phu_gpa.pdf