Vị thế và xu thế phát triển của sở hữu tư nhân và sở hữu chung

Mối quan hệ giữa sở hữu tư nhân và sở hữu chung đã thu hút cả giới nghiên cứu pháp lý

và kinh tế trong một loạt các cuộc tranh luận về ý nghĩa, trình tự phát triển và tính ưu việt của sở

hữu tư nhân và sở hữu chung. Các vấn đề thảo luận liên quan đến tính hiệu quả, sự công bằng và

tính bền vững của sở hữu tư nhân so với sở hữu chung. Nhiều học giả nghĩ đến những thí dụ

đương thời về sở hữu chung như những tàn tích của quá khứ, có thể biến mất trong thế kỷ hai mốt.

Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây đã gây nên nghi ngờ liệu rằng sở hữu tư nhân nhất thiết phải có

vị thế vượt trội hơn sở hữu chung.

pdf 7 trang kimcuc 7660
Bạn đang xem tài liệu "Vị thế và xu thế phát triển của sở hữu tư nhân và sở hữu chung", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vị thế và xu thế phát triển của sở hữu tư nhân và sở hữu chung

Vị thế và xu thế phát triển của sở hữu tư nhân và sở hữu chung
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 63-69 
63 
Original Article 
The Position and the Development Trends 
Private Property and Common Property 
Nguyen Quang Duc* 
Tam Anh Law Firm, Building C, 3rd Floor, 32 Hao Nam street, 
O Cho Dua ward, Dong Da district, Hanoi, Vietnam 
Received 15 April 2019 
Revised 03 June 2019; Accepted 19 September 2019 
Abstract: The issue of the relationship between private property and common property has 
engaged both legal and economic scholars in a long series of controversies over the meaning, the 
sequence of development, and the superiority of private vs. common property. The issues debated 
relate to the efficiency, equity and sustainability of private property as contrasted to common 
property. Many scholars think of contemporary examples of common property as remnants of the 
past, likely to disappear during the twenty-first century. Recent research, however, has challenged 
the presumption that private property is necessarily superior to common property. 
Keywords: Private property, common property, open access regimes. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: thichhocluat.vn@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4208 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 63-69 
64 
Vị thế và xu thế phát triển của sở hữu 
tư nhân và sở hữu chung 
Nguyễn Quang Đức* 
Công ty Luật TNHH Tâm Anh, nhà C, tầng 3, số 32 Hào Nam, 
phường Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 15 tháng 4 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 03 tháng 6 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 9 năm 2019 
Tóm tắt: Mối quan hệ giữa sở hữu tư nhân và sở hữu chung đã thu hút cả giới nghiên cứu pháp lý 
và kinh tế trong một loạt các cuộc tranh luận về ý nghĩa, trình tự phát triển và tính ưu việt của sở 
hữu tư nhân và sở hữu chung. Các vấn đề thảo luận liên quan đến tính hiệu quả, sự công bằng và 
tính bền vững của sở hữu tư nhân so với sở hữu chung. Nhiều học giả nghĩ đến những thí dụ 
đương thời về sở hữu chung như những tàn tích của quá khứ, có thể biến mất trong thế kỷ hai mốt. 
Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây đã gây nên nghi ngờ liệu rằng sở hữu tư nhân nhất thiết phải có 
vị thế vượt trội hơn sở hữu chung. 
Từ khóa: Sở hữu tư nhân, sở hữu chung, chế độ tiếp cận mở. 
1. Vị thế pháp lý của sở hữu tư nhân và sở 
hữu chung* 
Ý nghĩa của sở hữu cá nhân so với sở hữu 
chung vẫn là một vấn đề tranh cãi trong pháp 
luật hiện đại. Trước khi cuốn sách Luật Cổ xưa 
(Ancient Law) của nhà luật học nổi tiếng Henry 
Summer Maine được xuất bản, quan điểm được 
chấp nhận giữa các luật gia phương Tây coi 
nguồn gốc của khái niệm về sở hữu trong thời 
cổ đại là sự chiếm đóng đất của một chủ sở hữu 
và gia đình của người đó [1]. Hơn nữa, tính ưu 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: thichhocluat.vn@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4208 
việt của sở hữu tư nhân đã được chấp nhận rộng 
rãi trong các văn bản pháp luật vào đầu thế kỷ 
XIX khiến cho khả năng các loại tài sản khác 
tồn tại ở châu Âu bị đe dọa trong quan điểm 
pháp lý về nguồn gốc của trật tự xã hội. 
Maine đã không chỉ nghiên cứu rộng rãi ở 
Ấn Độ mà còn khảo sát công trình của Georg 
Ludwig von Maurer về các cộng đồng bản địa 
Đức cổ, về Mark, và công trình tiên phong của 
William Blackstone. Maine đi đến kết luận 
rằng: có nhiều khả năng rằng quyền sở hữu 
chung mới là cơ chế thực sự cổ xưa mà không 
phải là quyền sở hữu riêng, và các hình thức tài 
sản mà cần đến sự hướng dẫn của chúng ta là 
những hình thức có liên quan đến quyền của 
các gia đình và các nhóm người theo gia đình 
N.Q. Duc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 63-69 
65 
[2: tr.252]. Tập sách đã thổi lên các tranh cãi 
bởi các ấn phẩm khác thách thức hoặc ủng hộ 
kết luận của ông. Cuộc tranh luận lớn hơn nhiều 
so với tầm quan trọng học thuật của nó, vì 
những cuộc đấu tranh chính trị lớn vẫn tiếp tục 
trong suốt thế kỷ XIX về tình trạng của nhiều 
dạng tài sản chung còn lại trên lục địa châu Âu. 
Một hệ thống lý thuyết chính trị và pháp lý đã 
ra đời để kiểm chứng nguồn gốc tài sản của các 
chủ sở hữu tư nhân. Những niềm tin này đã 
biện minh cho việc thông qua luật để loại bỏ 
quyền chiếm hữu tập thể và cho phép việc tiếp 
nhận tài sản chung của các chủ sở hữu tư nhân. 
2. Vị thế kinh tế của sở hữu tư nhân và sở 
hữu chung 
Các nhà kinh tế có khuynh hướng xem các 
tổ chức tài sản chung có lịch sử lâu hơn các tổ 
chức tư nhân và giải thích sự phát triển của các 
xã hội phương Tây hiện đại một phần là do thay 
đổi từ tài sản chung sang tài sản tư nhân [3, 4]. 
Tài sản của tư nhân được hầu hết các nhà kinh 
tế coi là một thành phần thiết yếu trong phát 
triển kinh tế do những ưu đãi liên quan đến các 
loại quan hệ bất động sản khác nhau [5]. Thí dụ 
như: một nông dân sở hữu lao động, đất đai và 
các yếu tố đầu vào khác của chính mình, có thể 
sẽ thấy được mối quan hệ trực tiếp giữa các 
khoản đầu tư và mức lợi nhuận đạt được trong 
dài hạn. Một nông dân thuộc hợp tác xã sản 
xuất nông nghiệp, chỉ có thể thấy mối liên hệ 
lỏng lẻo giữa những đóng góp cá nhân và lợi 
ích cá nhân. Càng nhiều cá nhân trong một xã 
hội mà công việc của họ chỉ liên kết lỏng lẻo 
với lợi ích của họ thì thái độ tự do sẽ trở nên 
phổ biến hơn. Nếu mọi người có xu hướng coi 
đấy là công việc của người khác, năng suất kinh 
tế nói chung sẽ thấp. 
Tuy nhiên, các quyền tư hữu không thể xuất 
hiện một cách tự nhiên từ một hệ thống sở hữu 
chung. Quyền sở hữu tư nhân phụ thuộc vào sự 
tồn tại và thực thi của một tập hợp các quy tắc 
quyết định ai là người có quyền tiến hành các 
hoạt động tự khởi tạo và cách thức phân chia 
các khoản thu nhập từ hoạt động đó [6]. Nói 
cách khác, các quy tắc và chủ thể quản lý cần 
phải thiết lập, theo dõi và thực thi cho một hệ 
thống tài sản (property system). Mặc dù một số 
quy tắc tạo động cơ thúc đẩy phúc lợi của hầu 
hết những người tham gia trong nền kinh tế 
nhưng luôn có những cá nhân chống lại những 
thay đổi do lợi ích mà họ nhận được từ một hệ 
thống trước hoặc đề xuất những thay đổi đặc 
biệt. Những chủ thể quản lý cũng có thể nhận 
được lợi nhuận đáng kể từ việc đưa ra các quy 
tắc mà có thể gây thiệt hại cho người khác. 
Do đó, các chế độ sở hữu chung bị các nhà 
kinh tế đánh giá là kém hiệu quả do ba vấn đề. 
Một là, tước đoạt tiền thuê, bởi vì không ai sở 
hữu các sản phẩm của một nguồn tài nguyên 
cho đến khi chúng bị thâu tóm, và mọi người 
không có động lực để nắm bắt những sản phẩm 
này trước những người khác. Hai là, phí giao 
dịch và chi phí quản lý có thể sẽ tăng cao nếu 
chủ sở hữu trong các cộng đồng cố gắng đưa 
ra các quy tắc để giảm bớt những hậu quả của 
việc thông đồng lạm dụng. Ba là, năng suất 
thấp, bởi vì không ai được khuyến khích làm 
việc chăm chỉ để tăng lợi nhuận cá nhân [7]. 
Các chế độ sở hữu chung thường được giữ lại 
bởi các nhà cai trị không hiểu được sự gia 
tăng phúc lợi kinh tế tổng thể mà nền kinh tế 
sẽ được hưởng từ sự chuyển đổi sang tư hữu, 
hoặc là những người được hưởng lợi từ những 
chế độ “cổ xưa” này. Do đó, cách duy nhất để 
tránh sự đình trệ của việc sở hữu chung các 
nguồn tài nguyên thiên nhiên là chấm dứt hệ 
thống sở hữu chung bằng cách tạo ra một hệ 
thống quyền sở hữu tư nhân [8]. 
3. Minh định sở hữu chung với chế độ tiếp 
cận mở 
Cuộc tranh luận về những giá trị tương đối 
của sở hữu tư và sở hữu chung đã bị che khuất 
bởi những nhầm lẫn. Các ý nghĩa khác nhau 
được gán cho các thuật ngữ mà không làm rõ 
những khía cạnh mà chúng liên quan đến nhau. 
Nguồn gốc của những nhầm lẫn có liên quan 
đến sự khác biệt giữa: (1) sở hữu chung và các 
chế độ tiếp cận mở (open access regimes), (2) 
các nguồn tài nguyên chung và các chế độ sở 
hữu chung và (3) hệ thống tài nguyên và các 
N.Q. Duc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 63-69 
66 
đơn vị tài nguyên. Cả ba vấn đề này khiến cho 
tính rõ ràng bị giảm đi trong việc gán nghĩa cho 
các thuật ngữ và làm chậm quá trình nghiên cứu 
lý thuyết và thực nghiệm. 
Sự nhầm lẫn giữa sở hữu chung và chế độ tiếp 
cận mở 
Trong một bài báo đã trở thành kinh điển, 
Ciriacy-Wantrup và Bishop [9: tr. 713 - 727] 
xác định rõ ràng sự khác biệt giữa các chế độ 
tiếp cận mở, nơi mà không ai có quyền hợp 
pháp để loại trừ bất cứ ai trong việc sử dụng tài 
nguyên, và sở hữu chung, nơi các thành viên 
của một nhóm được xác định rõ ràng có một 
quyền hợp pháp để loại trừ những người không 
phải là thành viên của nhóm đó khỏi sử dụng 
một nguồn tài nguyên này. Các chế độ tiếp cận 
mở - bao gồm các trường hợp của biển cả và 
khí quyển - đã được xem xét trong học thuyết 
pháp lý do không có giới hạn nào đối với người 
được quyền sử dụng tài nguyên. Nếu một người 
sử dụng các tài nguyên này, không ai có thể 
chuyển đổi quyền của họ hay đầu tư cải tiến. 
Nếu như một nguồn tài nguyên tạo ra sản phẩm 
có giá trị cao, thì việc thiếu các quy tắc liên 
quan đến việc sử dụng sẽ dẫn đến lạm dụng. 
Một số khu chăn thả gia súc ở địa phương, các 
bãi biển ven biển và rừng là các nguồn tiếp cận 
tự do và trên thực tế, chúng dễ dàng bị lạm 
dụng [xem thêm: 10, 11]. 
Một số chế độ tiếp cận mở thiếu các quy tắc 
thiết lập các quyền tư hữu theo mặc định [12] 
hoặc các nguồn lực bị ảnh hưởng bởi các chế độ 
tiếp cận mở này không giới hạn phạm vi một 
quốc gia hoặc không có thực thể nào khẳng 
định được quyền sở hữu hợp pháp. Các chế độ 
tiếp cận mở khác thì là kết quả của các chính 
sách công cộng có ý thức để đảm bảo sự tiếp 
cận của tất cả người dân địa phương đối với 
việc sử dụng một nguồn tài nguyên theo thẩm 
quyền chính trị. Thí dụ: đầu thế kỷ XX, Chính 
phủ tiểu bang Oregon và Washington (Hoa Kỳ) 
đã can thiệp để ngăn chặn người dân đánh bắt 
cá hồi địa phương đưa ra các quy tắc hạn chế 
nhập cảnh và thiết lập giới hạn khai thác [13]. 
Các công đoàn đánh cá dọc theo các khu vực 
ven biển của Hoa Kỳ đã cố gắng tổ chức các 
trại cá ven bờ để hạn chế nhập cảnh và thiết lập 
các giới hạn khai thác trong những năm 1950. 
Mặc dù các nỗ lực của họ không có tác động 
nghiêm trọng đến giá cả nhờ có thị trường cá 
quốc tế sôi động, các công đoàn này đã bị Bộ 
Tư pháp Hoa Kỳ truy tố do đã vi phạm Đạo luật 
chống độc quyền của Sherman [14]. Do đó, các 
bãi đánh cá ven biển của Hoa Kỳ đã trở thành 
nguồn tiếp cận mở trong nhiều năm liền ở thế 
kỷ XX do hành động của chính phủ nhằm ngăn 
chặn các nhóm xây dựng địa phương thiết lập 
các hình thức chế độ chung trong phạm vi 
quyền hạn chính trị. Tuy nhiên, trong thời gian 
gần đây, cả chính phủ cấp quốc gia và tiểu bang 
đã đảo ngược vị trí của họ trước đây và tích cực 
tìm cách tạo ra các hình thức đồng quản lý tại 
các bãi biển ven bờ. 
Loại hình tiếp cận mở khác là kết quả của 
việc các thể chế được quyền xác định sở hữu đã 
loại trừ một cách thiếu hiệu quả việc không có 
ai là chủ sở hữu. Ở nhiều nước đang phát triển, 
sự nhầm lẫn giữa việc tiếp cận mở và chế độ sở 
hữu chung mâu thuẫn nhau, dẫn đến sự gia tăng 
số lượng và phạm vi của các nguồn lực địa 
phương được phép tiếp cận mở. Hệ thống sở 
hữu chung kiểm soát việc tiếp cận và thu hoạch 
từ các nguồn suối địa phương, rừng, vùng chăn 
thả gia súc, và các bãi khai thác ven biển đã 
phát triển trong một thời gian dài ở tất cả các 
nơi trên thế giới, nhưng hiếm khi được đưa ra 
chính thức trong các quy phạm pháp luật của 
các nước mới được độc lập [15: tr.1061 - 1088]. 
Khi mối quan tâm đến việc bảo vệ các 
nguồn tài nguyên thiên nhiên gia tăng trong 
những năm 1960, nhiều nước đang phát triển đã 
quốc hữu quá toàn bộ những tài nguyên đất và 
nước mà chưa được ghi nhận là tài sản cá nhân. 
Các thoả thuận về thể chế mà người sử dụng ở 
địa phương đã lập ra nhằm hạn chế xâm nhập 
và sử dụng bị mất đi vị trí hợp pháp, nhưng 
chính phủ các quốc gia lại thiếu nhân lực và 
tiền của để theo dõi việc sử dụng các nguồn tài 
nguyên này. Do đó, các nguồn tài nguyên đang 
được đặt dưới chế độ sở hữu chung của những 
người dân địa phương được chuyển đổi sang 
chế độ quản lý nhà nước về sở hữu nhà nước, 
N.Q. Duc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 63-69 
67 
nhưng thực chất lại quay về với một chế độ tiếp 
cận mở. Khi các nguồn lực trước đây bị kiểm 
soát bởi những người dân địa phương đã được 
quốc hữu hoá, kiểm soát nhà nước thường tỏ 
ra kém hiệu quả hơn so với việc kiểm soát 
trực tiếp bởi các những đối tượng trực tiếp bị 
ảnh hưởng, nếu không muốn nói là thảm hoạ. 
Những tác động có hại của việc quốc hữu hoá 
rừng trước đây được quản lý bởi các nhóm 
người sử dụng địa phương đã được ghi nhận 
rõ ràng tại Thái Lan, Nigeria, Nepal, và Ấn 
Độ. Các kết quả tương tự đã xảy ra đối với 
các bãi ven biển do các cơ quan nhà nước 
hoặc quốc gia nắm giữ thay vì kiểm soát của 
chính những ngư dân [8]. 
Sự nhầm lẫn giữa một nguồn tài nguyên chung 
và một chế độ sở hữu chung 
Các vấn đề phát sinh từ các nhầm lẫn giữa 
chế độ tiếp cận mở với các sở hữu chung khó 
có thể vượt qua được do vấn đề thuật ngữ thứ 
phát. Thuật ngữ “tài sản chung” thường được 
sử dụng để mô tả một loại hàng hóa kinh tế 
mà có thể được gọi chính xác hơn là “tài 
nguyên chung”. Tất cả các tài nguyên chung 
đều chia sẻ hai thuộc tính quan trọng đối với 
các hoạt động kinh tế: (1) tốn kém để loại trừ 
cá nhân khỏi sử dụng hàng hoá dù là thông 
qua việc sử dụng các rào cản vật lý hay qua 
các văn bản pháp luật và (2) lợi ích của một 
cá nhân phải trừ đi từ những lợi ích có sẵn 
cho người khác [16: tr.157 - 172;17]. Nhận 
biết được loại hàng hoá chia sẻ hai thuộc tính 
này cho phép các học giả xác định được các 
vấn đề lý thuyết cốt lõi đối với một cá nhân 
bất cứ khi nào có nhiều cá nhân hoặc nhóm sử 
dụng các nguồn tài nguyên đó trong một 
khoảng thời gian dài. 
Các nguồn tài nguyên chung có cùng khó 
khăn với hàng hoá công trong việc loại ra các 
bên có lợi về mặt vật chất lẫn mặt thể chế. Trừ 
khi có các công cụ không cho phép những 
người không có quyền được phép hưởng lợi, sự 
cám dỗ mạnh mẽ của việc hưởng lợi trên nỗ lực 
của người khác sẽ dẫn đến sự đầu tư hơn nữa 
trong việc cải thiện tài nguyên, theo dõi việc sử 
dụng và xử phạt hành vi vi phạm pháp luật. Thứ 
hai, các sản phẩm hoặc thành phần của các 
nguồn tài nguyên chung có chung thuộc tính về 
việc sự tiêu thụ của một người sẽ làm giảm đi 
số lượng còn lại cho những người khác, giống 
với hàng hoá tư nhân. Do đó, các nguồn tài 
nguyên chung có thể bị các vấn đề như cản trở, 
sử dụng quá mức và phá hủy tiềm năng trừ khi 
có những hạn chế khai thác hoặc sử dụng được 
xây dựng và thực thi. Ngoài việc chia sẻ hai 
thuộc tính này, tài nguyên chung rất khác so với 
tài sản chung về nhiều thuộc tính khác bao gồm 
bao gồm kích thước, hình dạng và năng suất và 
giá trị, thời gian và sự đều đặn của các đơn vị 
nguồn lực. 
Các nguồn tài nguyên chung có thể thuộc sở 
hữu của các chính phủ quốc gia, khu vực hoặc 
địa phương; bởi các nhóm cộng đồng; bởi cá 
nhân hoặc công ty tư nhân; hoặc được sử dụng 
như là nguồn tiếp cận mở của bất cứ ai có thể 
được tiếp cận. Mỗi loại cơ chế sở hữu [có tính 
chất] rộng rãi có những ưu điểm và bất lợi khác 
nhau, tuy nhiên đôi khi có thể dựa vào các quy 
tắc hoạt động tương tự liên quan đến việc tiếp 
cận và sử dụng một nguồn tài nguyên [18]. Đã 
có những tiền lệ chứng minh là việc quản lý và 
bảo đảm các nguồn tài nguyên chung của các 
chính phủ, các nhóm cộng đồng, hợp tác xã, 
hiệp hội tự nguyện, và các cá nhân hoặc doanh 
nghiệp tư nhân có thể thành công hoặc không 
[19; 20; 21]. Do đó, không có sự kết hợp tự 
động của các tài nguyên chung với các chế độ 
sở hữu chung hoặc, với bất kỳ loại quy chế bất 
động sản cụ thể nào khác. Hơn nữa, các thỏa 
thuận sở hữu chung về cơ bản là hợp đồng chia 
sẻ, và như vậy, cũng phải đối mặt với những 
khó khăn tương tự về hành vi cơ hội và những 
vấn đề nguy hiểm về đạo đức. 
Sự nhầm lẫn giữa hệ thống tài nguyên và dòng 
chảy của các đơn vị tài nguyên 
Nguồn tài nguyên chung bao gồm các hệ 
thống tài nguyên và các đơn vị [thuộc hệ thống] 
tài nguyên hoặc lợi ích có được từ các hệ thống 
này [22]. Hệ thống tài nguyên (hoặc cách khác, 
cổ phiếu hoặc cơ sở vật chất) là những gì tạo ra 
một dòng chảy của các đơn vị tài nguyên hoặc 
lợi ích theo thời gian [23: tr. 393 - 436]. Thí dụ 
N.Q. Duc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 63-69 
68 
về các hệ thống tài nguyên thông thường chung 
chung bao gồm hồ, sông, hệ thống thủy lợi, lưu 
vực nước ngầm, rừng, các kho dự trữ và khu 
chăn thả. Nguồn tài nguyên chung cũng có thể 
là các cơ sở vật chất được xây dựng để sử dụng 
chung, chẳng hạn như máy tính lớn và Internet. 
Các đơn vị tài nguyên hoặc lợi ích từ nguồn tài 
nguyên chung bao gồm nước, gỗ, cây thuốc, cá, 
thức ăn gia súc, các đơn vị chế biến trung tâm, 
và thời gian kết nối. Thiết lập các cơ chế về sở 
hữu tài sản cho phép sử dụng bền vững nguồn 
tài nguyên chung đòi hỏi phải có các quy tắc 
hạn chế việc truy cập vào hệ thống tài nguyên 
và các quy tắc hạn chế số lượng, thời gian và 
công nghệ được sử dụng để thu hồi các đơn vị 
tài nguyên đa dạng từ hệ thống nguồn lực. 
4. Xu thế kết hợp của sở hữu tư nhân và sở 
hữu chung trong thế kỷ 21 
Trọng tâm tập trung vào các nguồn tài 
nguyên thiên nhiên, tuy nhiên, nhiều bài học rút 
ra từ hoạt động của các chế độ sở hữu nhà ở 
trong các lĩnh vực này khá phù hợp với sự đa 
dạng của các chế độ sở hữu tương tự đang được 
sử dụng rộng rãi và có khả năng có một sự hiện 
diện đáng kể trong thế kỷ tiếp theo. Một số 
lượng lớn các dự án phát triển nhà ở - cả nhà 
chung cư và nhà riêng của gia đình - sử dụng tài 
sản của cá nhân để kết hợp với tài sản cộng 
đồng để tạo ra các sân chơi, phương tiện giải trí 
và các cơ sở vật chất chung khác. Trong khi cá 
nhân có thể mua và bán các đơn vị nhà ở riêng 
lẻ của họ, tại thời điểm mua hàng, họ nhận các 
nghĩa vụ liên quan đến các tài sản chung liên 
quan chặt chẽ. Việc mua và bán thường đòi hỏi 
sự cho phép của các thành viên khác trong 
nhóm. Tương tự như vậy, nhiều câu lạc bộ thể 
thao sử dụng hạn ngạch cho các thành viên và 
đánh giá các khoản phí thường xuyên của thành 
viên để duy trì các cơ sở được sở hữu. 
Công ty hiện đại thường được coi là mẫu 
mực của tài sản cá nhân. Trong khi mua và bán 
cổ phần của cổ phiếu công ty là một ví dụ rõ 
ràng về quyền phân biệt đối xử trong công việc, 
các mối quan hệ trong phạm vi công ty lại 
không phải là quyền sở hữu cá nhân. Do thu 
nhập sẽ được chia sẻ giữa các cổ đông, người 
quản lý và nhân viên là một phần chung để chia 
sẻ, tất cả các ưu đãi dẫn tới việc lẩn tránh trách 
nhiệm và lạm dụng được tìm thấy trong cấu trúc 
của một tập đoàn hiện đại [xem thêm: 24; 25; 
26]. Do đó, trong thế kỷ tới, nơi mà chúng ta 
sống, làm việc có xu hướng được quản lý bởi 
một hệ thống hỗn hợp về quyền sở hữu chung 
và cá nhân. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Grossi, Paolo (1981), An Alternative to Private 
Property; Collective Property in the Juridical 
Consciousness of the Nineteenth Century, 
Chicago: University of Chicago Press. 
[2] Maine, Henry Sumner (1963), Ancient Law: Its 
Connection with the Early History of Society and 
its Relation to Modern Ideas; With Introduction 
and Notes by Frederick Pollack, Boston: Beacon 
Press (reprint of 1861 ed.), p. 252. 
[3] North, Douglass C. and Robert Paul Thomas 
(1976), The Rise of the Western World: A New 
Economic History, London: Cambridge 
University Press. 
[4] North, C. Douglass, L. Terry Anderson, and J. 
Peter Hill (1983), Growth and Welfare in the 
American Past: A New Economic History, 
Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall. 
[5] W.P. Welch, “The political feasibility of full 
ownership property rights: The cases of 
pollution and fisheries”, Policy Sciences, 
(1983), 16, 165-80. 
[6] Ostrom, Vincent, The Intellectual Crisis in 
American Public Administration, 3rd ed., 
Tuscaloosa: University of Alabama Press (2008). 
[7] North, C. Douglass, Institutions, Institutional 
Change, and Economic Performance, New York: 
Cambridge University Press (1990). 
[8] Elinor Ostrom and Charlotte Hess, Private and 
Common Property Rights, Workshop in Political 
Theory and Policy Analysis, Indiana University, 
29/11/2007, 
https://surface.syr.edu/cgi/viewcontent.cgi?article
=1024&context=sul (truy cập lần cuối: 
31/03/2019). 
[9] Ciriacy-Wantrup, V. Siegfried and C. Richard. 
Bishop (1975), “Common property” as a concept 
N.Q. Duc / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 63-69 
69 
in natural resource policy, Natural Resources 
Journal, 15, 713-727. 
[10] Báo Pháp luật (điện tử): https://plo.vn/thoi-
su/dai-bieu-lo-dan-het-duoc-tu-do-tam-bien-o-
phu-quoc-774398.html (truy cập lần cuối: 
05/04/2019). 
[11] Báo Tuổi Trẻ (điện tử): https://tuoitre.vn/khong-
the-chap-nhan-tinh-trang-lay-bien-lam-cua-rieng-
2018110711421466.htm (truy cập lần cuối: 
05/04/2019. 
[12] Dales, H. John (1968), Pollution, Property, and 
Prices: An Essay in Policy-Making and 
Economics, Toronto: University of Toronto Press. 
[13] Higgs, Robert (1996), “Legally induced technical 
regress in the Washington salmon fishery”, in L. 
J. Alston, Thráinn Eggertsson, and Douglass 
North (eds), Empirical Studies in Institutional 
Change, New York: Cambridge University Press. 
[14] Johnson, N. Ronald and D. Gary Libecap 
(1982), “Contracting problems and regulation: 
The case of the fishery”, American Economic 
Review, 72, 1005-1022. 
[15] Wiersma, L. Lindsey (2005), “Indigenous lands as 
cultural property: A new approach to indigenous 
land claims”, Duke Law Journal, 54, 1061-1088. 
[16] Ostrom, Vincent and Elinor Ostrom (1977), “A 
theory for institutional analysis of common pool 
problems”, in Garrett Hardin and John Baden 
(eds), Managing the Commons, San Francisco, 
CA: W. H. Freeman, pp. 157-172. 
[17] Ostrom, Elinor, Roy Gardner, and James M. 
Walker (1994), Rules, Games, and Common-Pool 
Resources, Ann Arbor: University of Michigan 
Press. 
[18] Feeny, David, Fikret Berkes, Bonnie J. McCay, 
and James M. Acheson (1990), “The tragedy of 
the commons: Twenty-two years later”, Human 
Ecology, 18, 1-19. 
[19] Bromley, Daniel W. (1992), “The commons, 
common property, and environmental policy”, 2 
Environmental and Resource Economics, 1-17. 
[20] Singh, Katar (1994), Managing Common Pool 
Resources: Principles and Case Studies, New 
Delhi: Oxford University Press. 
[21] Singh, Katar and Vishwa Ballabh (1996), 
Cooperative Management of Natural Resources, 
New Delhi: Sage. 
[22] Blomquist, William and Elinor Ostrom (1985), 
“Institutional capacity and the resolution of a 
commons dilemma”, Policy Studies Review, 5, 
383-393. 
[23] Lueck, Dean (1995), “The rule of first possession 
and the design of the law”, Journal of Law and 
Economics, 38, 393-436. 
[24] Ghoshal, Sumantra and Peter Moran (1996), “Bad 
for practice: A critique of the transaction cost 
theory”, Academy of Management Review, 21, 
13-47. 
[25] Putterman, Louis (1995), Markets, hierarchies, 
and information: On a paradox in the economics 
of organization”, Journal of Economic Behavior 
and Organization, 26, 373-390. 
[26] Seabright, Paul (1993), “Managing local 
commons: Theoretical issues in incentive design”, 
Journal of Economic Perspectives, 7, 113-134. 

File đính kèm:

  • pdfvi_the_va_xu_the_phat_trien_cua_so_huu_tu_nhan_va_so_huu_chu.pdf