Về khái niệm quyền bào chữa và người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

Việc nghiên cứu và giảng dạy triết

học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói

chung, việc bảo vệ và phát triển chân giá

trị của học thuyết Mác trong điều kiện

của nền văn minh nhân loại ở thế kỷ

XXI, đặc biệt là trong bối cảnh tiếp biến

văn hóa toàn cầu, đòi hỏi chúng ta phải

làm sáng tỏ được một trong những đặc

điểm quan trọng nhất của nó là bản chất

nhân văn. Mục đích duy nhất mà triết học

Mác hướng tới là giải phóng con người,

đưa ―con người từ vương quốc của tất

yếu sang vương quốc của tự do‖. Chính

các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng

định điều này trong Tuyên ngôn của

Đảng Cộng sản - Cương lĩnh của chủ

nghĩa Mác, của toàn bộ phong trào cộng

sản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Các

ông cho rằng, mục đích cuối cùng của

chủ nghĩa cộng sản là: ―Sự phát triển tự

do của mỗi người là điều kiện cho sự

phát triển tự do của tất cả mọi người‖(1).

Trước hết, cần nhận thấy một thực

tế là, chủ nghĩa nhân văn đã và đang là

một trong những đề tài gây ra nhiều

cuộc tranh luận về di sản lý luận của

C.Mác. Vấn đề ở đây không chỉ liên

quan tới tính kế thừa, tính liên tục trong

sự phát triển tư tưởng lý luận của

C.Mác, mà còn ở vấn đề bản chất nhân

văn của chủ nghĩa Mác với tư cách một

hệ thống lý luận. Để bảo vệ chủ nghĩa

Mác, cũng như để chỉ ra bản chất nhân

văn kiểu mới của chủ nghĩa Mác, chúng

ta cần làm rõ mối quan hệ của nó với

truyền thống nhân văn phương Tây, cụ

thể là chủ nghĩa nhân văn Cận đại, cũng

như điểm mới mà C.Mác đã đem lại cho

chủ nghĩa nhân văn này.

pdf 6 trang kimcuc 3640
Bạn đang xem tài liệu "Về khái niệm quyền bào chữa và người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về khái niệm quyền bào chữa và người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

Về khái niệm quyền bào chữa và người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 46 
VỀ KHÁI NIỆM QUYỀN BÀO CHỮA VÀ NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG 
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 
ThS. Nguyễn Thị Hoa Kiều 
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt: Để làm rõ bản chất nhân văn của triết học Mác, chủ nghĩa Mác, trước 
hết tác giả đã đưa ra và phân tích truyền thống nhân văn chủ nghĩa ở châu Âu 
thời Cận đại. Tiếp đó, khi tập trung luận giải bản chất nhân văn của triết học 
Mác, chủ nghĩa Mác, tác giả đã đi đến kết luận rằng, C.Mác không chỉ kế thừa, 
mà còn phát triển chủ nghĩa nhân văn ấy lên một trình độ mới, biến nó từ lý 
tưởng thành thực tiễn cải tạo thế giới. 
Từ khóa:. 
Việc nghiên cứu và giảng dạy triết 
học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói 
chung, việc bảo vệ và phát triển chân giá 
trị của học thuyết Mác trong điều kiện 
của nền văn minh nhân loại ở thế kỷ 
XXI, đặc biệt là trong bối cảnh tiếp biến 
văn hóa toàn cầu, đòi hỏi chúng ta phải 
làm sáng tỏ được một trong những đặc 
điểm quan trọng nhất của nó là bản chất 
nhân văn. Mục đích duy nhất mà triết học 
Mác hướng tới là giải phóng con người, 
đưa ―con người từ vương quốc của tất 
yếu sang vương quốc của tự do‖. Chính 
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng 
định điều này trong Tuyên ngôn của 
Đảng Cộng sản - Cương lĩnh của chủ 
nghĩa Mác, của toàn bộ phong trào cộng 
sản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Các 
ông cho rằng, mục đích cuối cùng của 
chủ nghĩa cộng sản là: ―Sự phát triển tự 
do của mỗi người là điều kiện cho sự 
phát triển tự do của tất cả mọi người‖(1). 
Trước hết, cần nhận thấy một thực 
tế là, chủ nghĩa nhân văn đã và đang là 
một trong những đề tài gây ra nhiều 
cuộc tranh luận về di sản lý luận của 
C.Mác. Vấn đề ở đây không chỉ liên 
quan tới tính kế thừa, tính liên tục trong 
sự phát triển tư tưởng lý luận của 
C.Mác, mà còn ở vấn đề bản chất nhân 
văn của chủ nghĩa Mác với tư cách một 
hệ thống lý luận. Để bảo vệ chủ nghĩa 
Mác, cũng như để chỉ ra bản chất nhân 
văn kiểu mới của chủ nghĩa Mác, chúng 
ta cần làm rõ mối quan hệ của nó với 
truyền thống nhân văn phương Tây, cụ 
thể là chủ nghĩa nhân văn Cận đại, cũng 
như điểm mới mà C.Mác đã đem lại cho 
chủ nghĩa nhân văn này. 
Thuật ngữ "chủ nghĩa nhân văn" 
(bắt nguồn từ tiếng Latinh: humanus - 
con người, tính người) được sử dụng để 
chỉ hệ thống quan điểm triết học lạc 
quan, đầy sức sống, thừa nhận sự phát 
triển hài hoà của con người với tư cách 
giá trị tối cao và là tiêu chí của tiến bộ 
xã hội. Theo nghĩa đó, có thể nói, tư 
tưởng của chủ nghĩa nhân văn đã xuyên 
suốt toàn bộ lịch sử văn hoá nhân loại, 
tạo thành một trong những dấu hiệu bản 
chất của nó. 
Chúng ta có thể phân biệt các đặc 
trưng chủ yếu sau đây của chủ nghĩa 
nhân văn Cận đại: 
 1) ý thức tự do tư tưởng; 2) chủ 
nghĩa cá nhân hoàn toàn trần tục; 3) tự 
do tư tưởng chủ yếu về chính trị - xã hội 
và công dân; 4) tự do tư tưởng tiến bộ về 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 47 
phương diện lịch sử; 5) nhấn mạnh 
phương diện thực tiễn và đạo đức của tự 
do tư tưởng. Ở đây, cũng cần phải kể tới 
một số đặc trưng khác, như tinh thần của 
Tin Lành giáo, thái độ sẵn sàng phản 
kháng và đấu tranh nhằm thực hiện lý 
tưởng, ý thức về sự hạn chế của mỗi con 
người riêng biệt. 
Nhấn mạnh tính tự bộc lộ và tự 
khẳng định của cá nhân, chủ nhĩa nhân 
văn Cận đại đã không những không loại 
bỏ, mà hơn nữa, còn thường xuyên 
khẳng định bi kịch của con người cá thể 
– con người bị hạn chế và bất lực trong 
tính biệt lập của nó. Ý thức được sức 
mạnh và yếu điểm của cá nhân, thế giới 
quan của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng 
đã cho phép chúng ta nói tới thời Phục 
hưng như một bước ngoặt vĩ đại trong 
lịch sử nhân loại. 
Dựa trên học thuyết về quyền tự 
nhiên và ―khế ước xã hội‖, chủ nghĩa 
nhân văn cá nhân tư sản đã tuyên bố 
quyền đầy đủ cho mỗi cá nhân về sự 
sống, tự do và khát vọng hạnh phúc. 
Những đại biểu của chủ nghĩa nhân văn 
này, như J.Lốccơ, B.Spinôda, J.J.Russô, 
Đ.Điđơrô đã xem con người như một cá 
nhân tự trị và coi tính tự chủ của con 
người như một nguyên tắc tối cao. Ở 
đây, trở ngại đối với họ là vấn đề kết 
hợp lợi ích cá nhân với các giá trị xã 
hội. Đỉnh điểm của chủ nghĩa nhân văn 
này là tư tưởng cải tạo chế độ phong 
kiến, phục hồi chủ quyền nhân dân, 
thiết lập chế độ xã hội bình quân chủ 
nghĩa. Với tư tưởng này, nó đã trở 
thành ngọn cờ lý luận cho các cuộc 
cách mạng tư sản ở các nước phương 
Tây. Thay cho thời Khai sáng, thời đại 
lãng mạn vẫn tiếp tục giữ lại những tư 
tưởng của chủ nghĩa nhân văn cá nhân 
tư sản, song đã mang một sắc thái bi 
kịch hơn, do không dung hợp được lý 
tưởng về một cá nhân vô hạn của chủ 
nghĩa lãng mạn với quan hệ xã hội hiện 
thực thời đó. Cũng bắt nguồn từ thời 
Phục hưng và gắn liền với chủ nghĩa xã 
hội không tưởng, chủ nghĩa nhân văn xã 
hội chủ nghĩa không tưởng đã đặt lên 
hàng đầu các nguyên tắc của chủ nghĩa 
tập thể và tính xã hội của con người. 
Bản chất phi nhân tính trong các 
quan hệ xã hội, những mâu thuẫn kinh tế 
- xã hội, chính trị và tinh thần dẫn tới sự 
tha hoá của con người đã trở thành cội 
nguồn cho cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa 
ở các nhà không tưởng. Họ kêu gọi xây 
dựng xã hội thành một liên hiệp những 
người lao động tự do mà ở đó, áp dụng 
nguyên tắc lao động bắt buộc và tự do 
được áp dụng, tạo điều kiện phát triển 
những tiềm năng sáng tạo và đạo đức 
trong mỗi con người, cải biến nhà nước 
thành uỷ ban quản lý sản xuất, thiết lập 
liên hiệp các dân tộc chung sống hoà 
bình: "hoặc tất cả phải được hạnh phúc, 
hoặc không có ai hạnh phúc cả". 
Triết học xã hội của các nhà xã hội 
chủ nghĩa không tưởng đã thể hiện rõ 
quan điểm nền tảng của chủ nghĩa nhân 
văn và chính chủ nghĩa nhân văn này 
cũng thể hiện bản chất sâu xa trong hệ tư 
tưởng của họ. Song, chủ nghĩa duy tâm 
trong quan niệm về tiến trình lịch sử 
nhân loại đã không cho phép học thuyết 
của họ trở thành khoa học. Chủ nghĩa xã 
hội không tưởng đã không lý giải được 
bản chất của tình cảnh nô lệ làm thuê ở 
chủ nghĩa tư bản, không phát hiện ra các 
quy luật phát triển của nó, không tìm ra 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 48 
lực lượng xã hội có khả năng trở thành 
người sáng tạo xã hội mới. Xuất phát từ 
nguyên tắc nhân văn, nhân đạo chủ 
nghĩa, khát vọng xây dựng một "thiết 
chế" xã hội lý tưởng đã xâm chiếm tư 
tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa 
không tưởng thay vì phải nhận thức một 
cách có phê phán tiến trình lịch sử nhân 
loại. Những mâu thuẫn lý luận mang 
tính nguyên tắc trong quan điểm của các 
nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng không 
thể là căn cứ để phủ định rằng, chính 
triết học của họ đã thực hiện một điều 
quan trọng đối với vận mệnh của chủ 
nghĩa nhân văn - hợp nhất các khái niệm 
lao động, bình đẳng, công bằng và tự do. 
Một giai đoạn quan trọng nữa 
trong quá trình phát triển của chủ nghĩa 
nhân văn trước khi chủ nghĩa nhân văn 
của C.Mác xuất hiện là chủ nghĩa nhân 
văn của L.Phoiơbắc. Kế tục truyền 
thống Khai sáng, L.Phoiơbắc đã đặt 
vấn đề con người vào trung tâm toàn 
bộ hệ thống triết học của mình. Chính 
con người - "đối tượng duy nhất, phổ 
quát, cao nhất của triết học" - đã trở 
thành trung tâm trong lý luận của 
L.Phoiơbắc, đã thúc đẩy ông xây dựng 
học thuyết nhân học triết học thấm 
nhuần chủ nghĩa nhân văn. Do vậy, 
nhiệm vụ của thế giới quan nhân văn 
chủ nghĩa, theo ông, là phải hoàn trả lại 
cho con người và cho cả nhân loại bản 
chất nhân văn đã bị đánh mất, đưa nó 
từ thực thể siêu việt không có thật 
xuống thế giới xã hội hiện thực, biến 
con người thành trung tâm của những 
chủ định lý tưởng và tuyệt đối. Nói 
cách khác, ông đã thần thánh hoá con 
người theo lối nhân văn chủ nghĩa. 
Có thể nói, chủ nghĩa nhân văn của 
L.Phoiơbắc vừa cụ thể, vừa trừu tượng. 
Tính trừu tượng của nó được quy định 
bởi việc phê phán một cách sống động, từ 
lập trường công dân, các hình thức tha 
hoá và sự suy đồi của cá nhân trong xã 
hội đương thời, mà trước hết là các hình 
thức tha hoá tôn giáo. Song, khi phân tích 
tha hoá về mặt triết học và chỉ ra con 
đường khắc phục nó, L.Phoiơbắc đã đánh 
mất cơ sở vững chắc của chủ nghĩa nhân 
văn phê phán và rơi vào lĩnh vực chủ 
nghĩa nhân bản trừu tượng. Chính quan 
niệm trừu tượng như vậy về chủ nghĩa 
nhân văn đã buộc L.Phoiơbắc phải đưa ra 
một cá nhân trừu tượng, biệt lập và do 
vậy, bản chất con người ở ông chỉ có thể 
được xem như "loài", như ―cái chung 
câm điếc‖, gắn liền các cá nhân với nhau 
chỉ bởi những quan hệ tự nhiên. 
Như đã nói trên, thái độ của chủ 
nghĩa Mác đối với chủ nghĩa nhân văn 
đã trở thành đối tượng của những cuộc 
tranh luận gay gắt. Một số học giả cho 
rằng, chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa nhân 
văn là những loại trừ lẫn nhau. Luận cứ 
được đưa ra ở đây là, sau khi phê phán 
chủ nghĩa nhân bản của L.Phoiơbắc, 
C.Mác dường như đã hoàn toàn đem 
mình đối lập với truyền thống nhân văn 
chủ nghĩa nhiều thế kỷ của nền văn hoá 
châu Âu. Số khác lại cho rằng, tinh hoa 
trong chủ nghĩa nhân văn C.Mác chỉ có 
trong các tác phẩm đầu tay của ông và 
trước hết trong Bản thảo kinh tế - triết 
học năm 1844. Theo họ, tác phẩm này 
được C.Mác viết dưới ảnh hưởng sâu sắc 
của những tư tưởng nhân văn chủ nghĩa 
mà sau này, ông đã từ bỏ do tác động 
của những hoàn cảnh khác nhau, sau khi 
cống hiến toàn bộ công sức vào việc xây 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 49 
dựng học thuyết kinh tế, học thuyết đấu 
tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của 
giai cấp vô sản. Số thứ ba lại cho rằng, 
dường như Bản thảo kinh tế - triết học 
năm 1844 không những là tín điều của 
chủ nghĩa nhân văn do C.Mác xây dựng, 
nhìn chung, còn thể hiện chủ nghĩa Mác 
đích thực mà sau này, đã bị hoạt động 
chính trị của ông làm sai lệch. 
Những quan niệm như vậy đã 
khiến một số người tỏ ra hoài nghi chủ 
nghĩa nhân văn của C.Mác sau này và 
lấy đó để luận chứng cho sự tồn tại của 
hai ông C.Mác, một ông C.Mác theo chủ 
nghĩa nhân văn đích thực và một ông 
C.Mác là nhà kinh tế học, một chính 
khách ―lạnh lùng‖, ―tỉnh táo‖.Như vậy, 
học thuyết của C.Mác là thống nhất, xét 
về bản chất tư tưởng sâu xa của nó. Theo 
C.Mác, tha hoá là hình thức biểu thị phổ 
biến về phương diện xã hội tính không 
tương dung về lợi ích giữa nhà tư bản và 
người công nhân làm thuê. Hơn nữa, 
quan hệ sản xuất tư bản không chỉ làm 
tha hoá công nhân khỏi sản phẩm lao 
động, mà còn biến lao động thành cái 
đáng nguyền rủa, không có ý nghĩa và 
nội dung nhân văn. C.Mác nhận thấy, 
chính tha hoá là nguồn gốc, là nội dung 
của sự bóc lột cá nhân một cách phản 
nhân văn của chủ nghĩa tư bản, bởi nó đã 
làm cho bản chất con người bị tha hoá 
khỏi con người: con người trở thành tác 
nhân của sự phân đôi và xung đột với 
hiện thực và với chính bản thân mình. 
Một mặt, lao động thể hiện ra là phương 
tiện sinh tồn và cũng là phương thức tự 
bóc lột, tự thực hiện của cá nhân; mặt 
khác, nó không phục tùng người sản 
xuất, được quản lý từ bên ngoài, trở 
thành không phải nhu cầu, mà là sự 
trừng phạt. Người sản xuất vừa hướng 
tới lao động, vừa chạy trốn khỏi nó như 
một lực lượng xa lạ và nô dịch họ. 
Theo C.Mác, việc khắc phục tha 
hoá chỉ diễn ra ở những nơi mà sở hữu 
tư nhân đã bị xoá bỏ và do vậy, việc giải 
phóng xã hội khỏi sở hữu tư nhân "trở 
thành hình thức chính trị của sự giải 
phóng công nhân, vả lại vấn đề ở đây 
không chỉ là sự giải phóng của họ, vì sự 
giải phóng của họ bao hàm sự giải 
phóng toàn thể loài người"(5). Như vậy, 
theo C.Mác, đạt tới tự do chính trị nhờ 
thủ tiêu chế độ tư hữu, giai cấp vô sản 
cũng tiến hành giải phóng toàn thể nhân 
loại, và đây chính là sứ mệnh giải phóng 
lịch sử toàn cầu của nó. Với quan điểm 
này, C.Mác coi lý tưởng nhân văn về 
loài người được giải phóng là "sự xoá bỏ 
một cách tích cực chế độ tư hữu"(6). Và, 
khi đó sẽ diễn ra quá trình con người 
chiếm hữu một cách thực sự bản chất 
con người, ―con người hoàn toàn quay 
trở lại chính mình với tính cách là con 
người xã hội, nghĩa là có tính người"(7). 
Với nghĩa đó, có thể nói, việc thủ tiêu 
chế độ tư hữu và chương trình xây dựng 
xã hội công bằng của chủ nghĩa nhân 
đạo là đồng nhất với nhau. Khi xem chủ 
nghĩa nhân văn như quá trình tự nhận 
thức và tự quyết của nhân loại mà, trong 
vận động lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết 
phải giải quyết những đối kháng giai cấp 
và các cuộc cách mạng xã hội, C.Mác đã 
nhận thấy một tất yếu khoa học là xây 
dựng lý tưởng nhân văn về lịch sử, xác 
định tính quy định lịch sử của việc con 
người quay lại với chính mình nhờ cải 
tạo chế độ xã hội. 
Chỉ bằng con đường đó mới có 
thể xác lập được mối quan hệ có nhân 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 50 
tính đích thực giữa con người và xã 
hội, giữa con người và thế giới bên 
ngoài. Mong muốn có được bản tính 
hoàn hảo của mình, con người cũng 
làm cho những người khác và cả thế 
giới đối tượng xung quanh mình trở 
nên hoàn hảo hơn. Một xã hội phát 
triển hài hoà, đến lượt mình, nó sẽ làm 
cho con người trở nên hài hoà hơn. 
C.Mác viết: "Nếu anh muốn ảnh hưởng 
tới những người khác thì anh phải là 
người thực sự kích thích và thúc đẩy 
những người khác. Mối quan hệ của 
anh đối với con người và đối với giới 
tự nhiên phải là một biểu hiện của đời 
sống cá nhân hiện thực của anh, một 
biểu hiện xác định, đáp ứng đối tượng 
của ý muốn của anh‖(8). 
Chủ nghĩa nhân văn tích cực, trong 
quan niệm của C.Mác, là chủ nghĩa nhân 
văn được trung gian hoá bởi việc xoá bỏ 
chế độ tư hữu, trở thành cơ sở lý luận 
cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội 
mới mà ở đó, đời sống vật chất và tinh 
thần của con người được cải thiện và 
không ngừng nâng cao. Khi đưa ra quan 
niệm coi nhu cầu đáp ứng đời sống vật 
chất và tinh thần như những nhu cầu bức 
thiết của con người để có được sự phát 
triển phong phú của bản thân mình, 
C.Mác đã chỉ ra tính thiết định của nó ở 
nhu cầu của con người về con người 
khác. Theo ông, sự quan tâm của con 
người đến những người khác càng sâu 
sắc và càng đa dạng hơn bao nhiêu thì 
con người càng phong phú hơn bấy 
nhiêu. Hơn nữa, đây không chỉ đơn giản 
là sự quan tâm của con người đến người 
khác, mà còn là sự thu hút một cách hữu 
hiệu những người khác vào đời sống xã 
hội. Nói cách khác, thế giới những người 
khác thể hiện trong quan niệm của 
C.Mác như tổng thể những quan hệ xã 
hội có nhân tính. Do vậy, chủ nghĩa 
nhân văn hiện thực tất yếu phải bao hàm 
sự hiện diện nhu cầu phát triển toàn diện 
của con người, nhu cầu giao tiếp với 
người khác, nhu cầu được đóng góp cho 
tiến bộ xã hội. Với nghĩa đó, con người 
luôn bộc lộ nhu cầu của mình trong quan 
hệ với người khác. Vốn có tính chất xã 
hội, nhu cầu này đã đem lại cho con 
người sự phong phú, độc đáo về tinh 
thần mà không một dạng thức của cải 
vật chất nào có thể thay thế được. 
Trong Bản thảo kinh tế - triết học 
năm 1844, C.Mác không chỉ đưa ra 
một quan điểm mới về cá nhân, quan 
điểm đoạn tuyệt với chủ nghĩa nhân 
bản L.Phoiơbắc, mà còn đặt ra nhiệm 
vụ lịch sử toàn thế giới quan trọng hơn 
là biến chủ nghĩa nhân văn từ lý luận 
trừu tượng thành các luận điểm mang 
tính cương lĩnh và không tách rời công 
cuộc cải tạo các quan hệ xã hội. Chính 
công cuộc cải tạo này, theo C.Mác, sẽ 
kích thích và quy định sự bộc lộ các 
đặc điểm có nhân tính, nhân văn của 
con người và của xã hội. 
Nguồn cảm hứng nhân văn này 
cũng đã được C.Mác thể hiện xuyên suốt 
bộ "Tư bản" để phê phán quan hệ xã hội 
đã biến người lao động thành công cụ 
phi cá tính của sản xuất và làm cho con 
người bị tha hoá khỏi quá trình lao động. 
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội, theo 
C.Mác, là những cái quy định các đặc 
điểm cá biệt về sự sinh tồn có nhân cách 
cụ thể và về tư duy của con người. Do 
vậy, với tư cách tiền đề thường xuyên 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015 51 
của lịch sử nhân loại, con người cũng là 
sản phẩm, là kết quả thường xuyên của 
lịch sử. 
Như vậy, có thể nói, truyền thống 
nhân văn chủ nghĩa ở châu Âu thời Cận 
đại không những đã được C.Mác kế 
thừa, mà còn được ông đưa lên một 
trình độ mới. C.Mác là người đầu tiên 
đã luận chứng một cách khoa học cho 
con đường hiện thực hoá lý tưởng nhân 
đạo chủ nghĩa mà tư tưởng tiến bộ của 
nhân loại đã đề ra cho loài người. Tư 
tưởng xoá bỏ tha hoá, tạo điều kiện cho 
sự phát triển tự do của mỗi người và 
của tất cả mọi người nhờ quá trình 
nhân văn hoá, văn hoá hoá quan hệ xã 
hội của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị 
trong thế giới hiện đại. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, 
tr.628. 
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.149. 
[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.166. 
[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.138. 
[5]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.143 
[6]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.167 
[7]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.167 
[8]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.216 

File đính kèm:

  • pdfve_khai_niem_quyen_bao_chua_va_nguoi_bao_chua_trong_to_tung.pdf