Về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy triết học Mác – Lênin cho sinh viên không chuyên triết học

Giáo dục triết học Mác - Lênin là một yếu tố cơ bản và quan trọng để góp phần hình thành tư duy lý

luận cho sinh viên, đáp ứng những đòi hỏi lý luận của công cuộc đổi mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng

thành công chủ nghĩa xã hội. Trong những năm qua việc giảng dạy môn triết học Mác - Lênin đã đạt

được những kết quả nhất định, góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho sinh

viên. Tuy nhiên, còn có những bất cập nhất định về nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy.

Vì vậy, đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy môn triết học Mác – Lênin trong bối

cảnh giáo dục hiện nay không những là yêu cầu bức thiết mà còn là đòi hỏi thường xuyên của thực tiễn.

pdf 5 trang kimcuc 7220
Bạn đang xem tài liệu "Về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy triết học Mác – Lênin cho sinh viên không chuyên triết học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy triết học Mác – Lênin cho sinh viên không chuyên triết học

Về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy triết học Mác – Lênin cho sinh viên không chuyên triết học
57
Soá 10, thaùng 9/2013 57
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
 VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC
 MÁC – LÊNIN CHO SINH VIÊN KHÔNG CHUYÊN TRIẾT HỌC
Nguyễn Thị Bạch Vân *
Tóm tắt
Giáo dục triết học Mác - Lênin là một yếu tố cơ bản và quan trọng để góp phần hình thành tư duy lý 
luận cho sinh viên, đáp ứng những đòi hỏi lý luận của công cuộc đổi mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng 
thành công chủ nghĩa xã hội. Trong những năm qua việc giảng dạy môn triết học Mác - Lênin đã đạt 
được những kết quả nhất định, góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho sinh 
viên. Tuy nhiên, còn có những bất cập nhất định về nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy. 
Vì vậy, đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy môn triết học Mác – Lênin trong bối 
cảnh giáo dục hiện nay không những là yêu cầu bức thiết mà còn là đòi hỏi thường xuyên của thực tiễn.
Từ khóa: Triết học Mác – Lênin, tư duy lý luận, chủ nghĩa xã hội, phương pháp giảng dạy, bối cảnh 
giáo dục.
Abstract
Education on Marxism-Leninism Philosophy is an essential and important factor in forming criti-
cal thinking for students that meets reasoning requirements of the innovation and serves the socialism 
development. In recent years, the education on Marxism-Leninism philosophy has achieved the certain 
results that significantly contribute in increasing students’ critical capacity. However, there are still 
some major shortcomings such as content, curriculums and teaching methods. Therefore, the content 
and method renovation for Marxism - Leninism philosophy subject in curent educational situation is not 
only an urgent request but also a regular requirement in reality.
Key words: Marxism-Leninism Philosophy, critical thinking, socialism, teaching methods, educational 
situation.
* Thạc sĩ, Q.Hiệu trưởng Trường Thực hành Sư phạm, Trường ĐHTV
1. Đặt vấn đề
Giáo dục đại học không chỉ cung cấp kiến thức 
chuyên môn, mà còn góp phần nâng cao tư duy lý 
luận cho sinh viên (SV). Môn Triết học Mác – Lênin 
trong các trường Đại học ở nước ta có vai trò quan 
trọng hàng đầu trong việc rèn luyện và nâng cao tư 
duy lý luận cho SV thông qua việc cung cấp một hệ 
thống các vấn đề có tính khái quát cao về thế giới, 
về vị trí và vai trò của con người trong thế giới ấy. 
Chính hệ thống vấn đề này đóng vai trò là hạt nhân 
lý luận của thế giới quan và phương pháp luận khoa 
học. Do đó, dạy và học triết học Mác - Lênin có vai 
trò đặc biệt quan trọng trong việc rèn luyện năng lực 
tư duy lý luận cho người Việt Nam nói chung, cho 
SV Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, việc 
giảng dạy triết học Mác - Lênin cho SV Việt Nam 
chưa tương xứng với vai trò của nó. Điều này có 
nhiều nguyên nhân, trong đó một phần do nội dung 
và phương pháp giảng dạy triết học Mác - Lênin còn 
nhiều bất cập. Đổi mới nội dung và phương pháp 
giảng dạy môn học này đang là yêu cầu cấp bách 
trong lĩnh vực giáo dục đại học ở nước ta. Bài viết 
trình bày một vài suy nghĩ xung quanh vấn đề này 
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy 
triết học Mác - Lênin cho SV không chuyên triết 
học ở Việt Nam hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng giảng dạy môn Triết học Mác - 
Lênin cho sinh viên hiện nay
Tư duy lý luận là trình độ cao trong quá trình 
nhận thức thế giới của con người, là sự phản ánh 
có tính chất gián tiếp, trừu tượng và khái quát về 
sự vật, hiện tượng bằng các khái niệm, phạm trù, 
phán đoán, suy luận. Tư duy lý luận có vai trò 
rất quan trọng trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn 
của con người, giúp con người có thể hiểu biết 
thế giới một cách toàn diện và sâu sắc, đem lại 
cho con người khả năng dự báo sự vận động và 
phát triển của thế giới, từ đó, xác định hành động 
phù hợp. Nói về vai trò này của tư duy lý luận, 
Ph. Ăngghen viết: “Một dân tộc muốn đứng vững 
trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không 
58
Soá 10, thaùng 9/2013 58
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
có tư duy lý luận” và trên thực tế, “khinh thường 
lý luận là con đường chắc chắn nhất đưa chúng ta 
đến chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ nghĩa, tức là 
suy nghĩ sai” . Nhấn mạnh vai trò này của tư duy lý 
luận, V.I. Lênin cũng cho rằng, “Không có lý luận 
cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách 
mạng” . Hồ Chi Minh đã từng khẳng định rằng: 
“thực tiễn mà không có lý luận hướng dẫn thì thành 
thực tiễn mù quáng, có kinh nghiệm mà không có 
lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ, người 
kém lý luận khi gặp mọi việc thì không biết xem 
xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo”. 
Chính vì vậy, hoạt động giáo dục và đào tạo ở nước 
ta hiện nay cần rèn luyện cho SV năng lực tư duy 
lý luận, giúp họ phát triển khả năng tư duy mang 
tính hệ thống, lôgíc, sáng tạo và toàn diện trong lĩnh 
vực chuyên ngành. Giáo dục triết học Mác – Lênin 
là một yếu tố cơ bản và quan trọng để góp phần 
hình thành tư duy lý luận cho SV. Triết học Mác – 
Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong xem 
xét giới tự nhiên cũng như xem xét xã hội và tư duy 
con người, là sự thống nhất chặt chẽ giữa thế giới 
quan duy vật biện chứng và phương pháp luận duy 
vật biện chứng. Khi SV được trang bị và nhận thức 
đúng đắn triết học Mác – Lênin họ sẽ tự giác trong 
quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và 
năng lực tư duy sáng tạo, đáp ứng những đòi hỏi 
của công cuộc đổi mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng 
đất nước.
Trong những năm qua, việc giảng dạy môn Triết 
học Mác – Lênin cho SV không chuyên Triết ở 
nước ta mặc dù đạt được những kết quả nhất định, 
góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho các 
em, song nhìn chung, việc giảng dạy môn học này 
còn nhiều bất cập, trong số đó, trước hết phải kể đến 
sự bất cập về nội dung và phương pháp giảng dạy.
Thứ nhất, sự bất cập về nội dung của môn Triết 
học Mác – Lênin.
Xét trên tổng thể, nội dung chương trình môn 
học mang tính hệ thống, song vẫn còn nặng nề, sơ 
lược và còn nhiều phần bị rút gọn, chưa hợp lôgíc. 
So với thời lượng dành cho môn học, nội dung cần 
chuyển tải khá nhiều, nhưng lại chưa đủ để xác lập 
một cách đầy đủ và sâu sắc trong việc xây dựng 
tư duy lý luận cho SV. Nội dung chủ yếu của môn 
học là trình bày những nguyên lý chung, chưa quan 
tâm lý giải các vấn đề thực tiễn, cũng chưa khái 
quát được những thành tựu mới của khoa học và 
chưa thật sự khách quan đối với các trào lưu triết 
học ngoài mácxít (nặng về phê phán những sai lầm, 
hạn chế mà không nhìn thấy những giá trị hợp lý, 
những đóng góp thực tiễn của các trào lưu triết học 
đó). Trên cơ sở nội dung chương trình đã định sẵn, 
hầu hết giảng viên (GV) thường trình bày các quan 
điểm triết học chính thống, mà ít chú ý cung cấp 
kiến thức thuộc phần lịch sử triết học. Từ đó, SV 
không hiểu hết những giá trị trong lịch sử triết học, 
không thấy được quá trình tranh luận trong lịch sử 
về các vấn đề triết học. Chẳng hạn, về vấn đề thế 
giới có vận động hay không, GV trình bày quan 
điểm biện chứng cho rằng mọi sự vật đều vận động, 
và thường bỏ qua quan điểm của những người 
không thừa nhận mọi sự vật đều vận động, không 
cho biết ai không thừa nhận, lý lẽ của họ như thế 
nào, nên nhiều SV chỉ nói như sách rằng mọi sự vật 
đều vận động. Hoặc vấn đề thế giới có phát triển 
hay không, GV nêu lên quan điểm biện chứng cho 
rằng khuynh hướng chung trong sự vận động của 
thế giới là phát triển cùng với việc minh họa một 
số ví dụ, mà không đi sâu lí giải tại sao phải thừa 
nhận khuynh hướng chung ấy, hay lật ngược vấn 
đề có hay không xã hội thoái hóa, hoặc biến đổi 
quanh co, vòng tròn; trong lịch sử có ai phản đối 
quan điểm này không, lý lẽ phản đối của họ như thế 
nào. Việc trình bày những vấn đề như vậy rất quan 
trọng đối với sự hình thành năng lực phê phán, năng 
lực tư duy lý luận của SV. Khi nêu một quan điểm 
biện chứng nào đó cần phải cho SV thấy được tính 
khoa học và lý luận của quan điểm đó, qua đó, họ 
có thể hiểu và vận dụng chứ đơn thuần là học thuộc 
lòng, khi tiếp cận một quan điểm biện chứng nào 
đó, họ phải có sự lập luận, sự luận chứng cụ thể. 
GV thường chỉ dừng lại ở sự trình bày nội dung 
của những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật 
mà chưa đi sâu phân tích để rút ra ý nghĩa phương 
pháp luận từ những khái niệm, phạm trù, nguyên 
lý, quy luật ấy. Vì thế, SV lúng túng trong việc vận 
dụng lý luận vào thực tiễn cuộc sống; họ rất dễ mắc 
phải bệnh giáo điều, kinh nghiệm, không thấy sự bổ 
ích của việc phải tin theo quan điểm lý luận này và 
không tin theo quan điểm lý luận kia. 
Thứ hai, sự bất cập về phương pháp giảng dạy.
Phương pháp giảng dạy cho các SV không 
chuyên Triết hiện nay đã giảm bớt tính chất áp đặt 
theo kiểu “GV truyền đạt, SV chỉ tiếp thu”, phát huy 
hơn tính độc lập, sáng tạo cho SV. Tuy nhiên, tình 
trạng thầy đọc, trò ghi vẫn còn phổ biến, bài giảng 
điện tử còn thiếu sinh động và chưa được áp dụng 
phổ biến, thời gian dành cho thảo luận còn ít; SV 
chưa dành nhiều thời gian cho việc tự nghiên cứu tài 
59
Soá 10, thaùng 9/2013 59
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
liệu trước ở nhà, ở trên lớp thì còn thụ động, ít trao 
đổi, ít tranh luận. Phương pháp dạy học của GV chủ 
yếu là phương pháp thuyết trình. Phương pháp này 
có ưu điểm truyền đạt được một khối lượng kiến 
thức lớn, mang tính hệ thống, chặt chẽ. Song, nó dễ 
làm cho người học thụ động, ít phát huy tính tích 
cực, độc lập suy nghĩ; GV không gây được sự hứng 
thú cho SV, nhất là đối với SV không chuyên Triết 
học và bị hạn chế bởi tài liệu giảng dạy. Phương 
pháp này càng bất cập hơn do nhiều SV chưa nhận 
thức đúng về môn Triết học Mác- Lênin; họ coi đây 
đây chỉ là môn điều kiện, không cần nghiên cứu 
sâu, chỉ học qua loa đại khái miễn sao đạt yêu cầu 
là được. Hơn nữa, bản thân SV vừa tốt nghiệp phổ 
thông, chưa quen cách học tự nghiên cứu tài liệu với 
sự hướng dẫn của GV, chưa có nhiều kinh nghiệm 
sống, chỉ học thuộc lòng câu chữ; trong khi môn 
học này lại có nhiều khái niệm trừu tượng và phải 
học ngay từ học kỳ thứ nhất. Điều đó càng làm cho 
việc học thêm khó khăn. Hơn nữa, nhiều GV tốt 
nghiệp ở các chuyên ngành khác (như Chủ nghĩa Xã 
hội Khoa học, Chính trị, Giáo dục Chính trị, Kinh 
tế Chính trị,) chưa học qua các lớp chuyển đổi 
về Triết học vẫn phải kiêm nhiệm dạy luôn cả phần 
Triết học, ít nhiều còn lúng túng trong truyền đạt, cả 
nội dung lẫn phương pháp giảng dạy.
Những bất cập nêu trên đòi hỏi phải đổi mới cả 
về nội dung lẫn phương pháp giảng dạy triết học 
Mác- Lênin; nếu không, chúng ta không đạt được 
mục đích là nâng cao năng lực tư duy lý luận cho 
SV, nhất là đối với SV không chuyên Triết học.
2.2. Về đổi mới nội dung giảng dạy triết học 
Mác – Lênin
Mỗi môn khoa học đều có một hệ thống vấn đề, 
việc trả lời những vấn đề cơ bản của một khoa học 
tạo thành nội dung của môn khoa học ấy. Triết học 
là một môn học và cũng có một hệ thống vấn đề 
riêng. Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung 
nhất của con người về thế giới, về vị trí và vai trò 
của con người trong thế giới ấy. Triết học Mác- 
Lênin là một hệ thống quan điểm chặt chẽ, bao gồm 
cả thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp 
luận. Sự thống nhất này làm cho chủ nghĩa duy vật 
trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận 
khoa học. Triết học Mác- Lênin là học thuyết không 
chỉ có ý nghĩa nhận thức thế giới, mà còn có ý nghĩa 
cải tạo thế giới. Chính vì thế để giúp SV tiếp cận 
các nội dung của triết học Mác- Lênin, chúng tôi 
xin kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần phải xác định rõ ràng và đúng đắn 
những vấn đề triết học, đồng thời sắp xếp những 
vấn đề ấy thành hệ thống. Tuy giáo trình hiện có 
đã hệ thống được các vấn đề cơ bản của triết học 
Mác- Lênin, nhưng những vấn đề được đề cập quá 
ngắn gọn và nhiều phần chưa hợp lôgíc; điều đó 
gây nên sự khó hiểu cho SV trong quá trình tự ng-
hiên cứu. Chẳng hạn, phần “chủ nghĩa xã hội hiện 
thực và triển vọng” để ngay trong chương mở đầu 
của giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ 
nghãi Mác- Lênin” là không hợp lý. Theo chúng 
tôi cần để phần này ở chương cuối cùng. Bởi lẽ, khi 
SV chưa hiểu được giá trị lý luận và tư tưởng của 
chủ nghĩa Mác- Lênin về triết học, kinh tế chính trị 
học và chủ nghĩa xã hội khoa học mà chúng ta lại 
đề cập đến triển vọng và hiện thực của chủ nghĩa xã 
hội, thì SV sẽ cảm thấy như là sự áp đặt tư tưởng, 
thiếu tính khách quan và không nhận thức được giá 
trị khoa học của nó. Nên chăng, sau khi SV đã nắm 
rõ nội dung kiến thức ở cả ba bộ phận cấu thành của 
chủ nghĩa Mác- Lênin, xác lập được cho mình cơ sở 
lý luận vững chắc rồi, thì mới trình bày về sức sống 
và vai trò của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng như con 
đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. 
Về hai nguyên lý cơ bản của triết học Mác- 
Lênin (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên 
lý về sự phát triển), giáo trình trình bày ý nghĩa 
phương pháp luận sau phần trình bày nội dung của 
hai nguyên lý. Theo chúng tôi, việc sắp xếp như 
thế là không chặt chẽ. Sau khi trình bày nội dung 
của nguyên lý nào thì nên trình bày luôn ý nghĩa 
phương pháp luận của nó. Như vậy, GV có thể kết 
luận và liên hệ thực tiễn cụ thể cho từng nguyên lý; 
điều này giúp SV dễ tiếp thu và vận dụng nội dung 
vừa học. Hơn nữa, trong hầu hết nội dung của phần 
triết học Mác- Lênin, đặt biệt là phần chủ nghĩa duy 
vật lịch sử, không có sự liên hệ thực tiễn nước ta 
hiện nay. Đành rằng, việc đó là do GV tự liên hệ và 
gợi mở cho SV. Nhưng vì thời lượng dành cho môn 
học rất hạn chế, nên GV không thể đề cập và liên 
hệ hết được. Nếu giao SV tự nghiên cứu mà giáo 
trình không trình bày sự liên hệ thực tiễn, họ sẽ gặp 
nhiều khó khăn. Nhiều SV coi triết học Mác- Lênin 
là môn học đại cương, nên họ không tự nghiên cứu. 
Nếu giáo trình quá cô đọng, họ sẽ không hiểu nội 
dung. Đối với GV, việc dẫn ra ví dụ minh họa và 
liên hệ thực tiễn phụ thuộc vào trình độ và khả năng 
tổng kết thực tiễn (của nước ta và của thế giới), 
còn nhiều GV liên hệ trọng tâm nội dung bài giảng 
không phù hợp với tình hình thực tiễn. Vì vậy, nếu 
thêm vào phần liên hệ thực tiễn này thì giáo trình 
tuy có dày hơn về số lượng trang nhưng tính thuyết 
60
Soá 10, thaùng 9/2013 60
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
phục sẽ cao hơn, khoa học và khách quan hơn. Ở 
phần nội dung “ Nhà nước” thì hoàn toàn không có 
học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin; 
ở phần “Cách mạng xã hội” có nhiều nội dung về 
điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan, tình thế, 
thời cơ, nhưng không có nội dung liên hệ thực tiễn 
cách mạng Việt Nam.
Giáo trình cần cắt bớt những vấn đề không thật 
cần thiết phải trình bày cho SV không chuyên Triết 
học. Trong số các vấn đề triết học cần trình bày có 
thể chia thành 2 nhóm: các vấn đề triết học chung 
(chung cho cả tự nhiên, xã hội và tư duy) và các 
vấn đề triết học về xã hội. Trong nhóm vấn đề triết 
học chung nên có các vấn đề như vật chất và ý thức 
(trong vấn đề vật chất và ý thức bao gồm: nhận 
thức, thực tiễn, chân lý, sai lầm, tiêu chuẩn của chân 
lý, tính chủ quan, tính khách quan, chủ thể, khách 
thể, quan hệ giữa chủ thể và khách thể); không gian 
và thời gian; vận động (trong vấn đề vận động bao 
gồm: đứng im, thoái hoá, nguồn gốc, phương thức, 
khuynh hướng, động lực vận động, phát triển và 
thoái hóa); các phạm trù (trong các phạm trù cần có 
các phạm trù sự vật, thuộc tính, quan hệ, hệ thống 
và yếu tố, chỉnh thể và bộ phận, cái chung và cái 
riêng, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết 
quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, 
khả năng và hiện thực). Trong nhóm các vấn đề triết 
học về xã hội nên có các nội dung như: con người, 
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ 
tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý 
thức xã hội, giai cấp, nhà nước, dân tộc, cách mạng 
xã hội. Danh mục các vấn đề triết học không phải 
là cố định, bởi chúng ngày càng được bổ sung thêm 
theo sự phát triển của các khoa học cụ thể và của 
thực tiễn. 
Thứ hai, khi trình bày từng vấn đề thì GV cần 
phải chỉ rõ tình huống có vấn đề, tức là phải chỉ rõ 
vì sao vấn đề ấy lại được đặt ra, những quan điểm 
cơ bản đã có trong lịch sử đến nay về từng vấn đề 
triết học. Bởi lẽ, điều đó giúp cho người học có 
thêm năng lực phê phán các quan điểm sai lầm và 
có thêm căn cứ để tin tưởng vào quan điểm mácxít. 
Cụ thể như, khi trình bày các quan điểm tiêu biểu 
về từng vấn đề triết học, GV cần trình bày cuộc 
đấu tranh giữa các hệ quan điểm đối lập nhau là 
quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm, thuyết 
khả tri và thuyết bất khả tri, quan điểm biện chứng 
và quan điểm siêu hình. Các quan điểm này đều có 
sự phát triển từ sâu sắc ít đến sâu sắc nhiều. Mỗi 
khi quan điểm duy vật, khả tri, biện chứng có bước 
phát triển mới thì những người phản đối quan điểm 
ấy cũng tìm cách phát triển quan điểm của họ, tức 
là phát triển quan điểm duy tâm, bất khả tri, siêu 
hình. Vì thế, đối với mỗi vấn đề, người dạy triết học 
phải trình bày sự phát triển của cả hai hệ quan điểm 
triết học này. Tuy nhiên, trong giáo trình hiện có ở 
nước ta, quan điểm duy tâm, bất khả tri, siêu hình 
thường được trình bày như là những quan điểm sai 
lầm giản đơn, ấu trĩ. Thực ra, những nhà triết học 
theo quan điểm duy tâm, bất khả tri, siêu hình cũng 
đều là những người có kiến thức uyên bác, do vậy, 
khi phê phán những quan điểm này, GV không nên 
đơn giản hóa.
Quan điểm triết học của C. Mác, Ph. Ăngghen 
và V.I. Lênin thuộc quan điểm duy vật, thuyết khả 
tri, quan điểm biện chứng. Tuy nhiên, không phải 
mọi vấn đề triết học đều được các ông đề cập đến 
và đều có quan điểm mới. Hệ thống quan điểm 
triết học của các ông đã và đang được hoàn thiện 
hơn bởi nhiều nhà triết học khác thuộc trường phái 
duy vật, khả tri, biện chứng. Vì vậy, khi giảng dạy 
triết học, GV cần phải trình bày quan điểm của các 
nhà triết học khác thuộc trường phái duy vật, khả 
tri, biện chứng để người học thấy được sự phát 
triển của hệ quan điểm triết học thuộc trường phái 
này cho đến nay. Ngoài ra, khi trình bày lịch sử 
các cuộc tranh luận giữa các nhà triết học tiêu biểu 
về từng vấn đề triết học, người dạy cũng cần thể 
hiện quan điểm của mình, bình luận và đánh giá 
các quan điểm được trình bày. Khi khuyên dạy SV 
tin vào một điều nào đó thì người dạy cần phải tin 
vào điều ấy. Điều đó làm cho bài giảng tăng sức 
thuyết phục.
2.3. Về đổi mới phương pháp giảng dạy triết học 
Mác – Lênin
Môn Triết học Mác – Lênin mang tính trừu tượng 
và khái quát cao. Do vậy, khi sử dụng phương pháp 
thuyết trình trong giảng dạy môn học này, GV phải 
chú ý kích thích SV đặt câu hỏi, tranh luận. Trong 
mối quan hệ hữu cơ giữa GV và SV thì SV giữ vị trí 
trung tâm, còn GV có vai trò chủ đạo. Phương pháp 
dạy học có hiệu quả phải “lấy người học làm trung 
tâm”, không phải “lấy người dạy làm trung tâm” 
(tức là không phải phương pháp GV giảng còn SV 
nghe rồi ghi chép). Người học phải tự khám phá, 
tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của GV. 
Phương pháp giảng dạy như vậy mới có ảnh hưởng 
tích cực đến hoạt động học tập của SV, tạo điều 
kiện cho tất cả SV tham gia vào các hoạt động học 
tập và phát huy được tính chủ động, sáng tạo của 
SV. Với phương pháp đó, thay vì chỉ học từ GV, 
SV có thể học từ bạn, từ tài liệu, sách vở, có thể 
rèn luyện khả năng diễn đạt trước đám đông. Để 
61
Soá 10, thaùng 9/2013 61
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
làm tốt điều này, GV cần phải thiết kế nội dung bài 
giảng và phương pháp sư phạm tinh tế, thích hợp 
với từng đối tượng, hoặc nhóm đối tượng cụ thể. 
Điều này đòi hỏi GV phải có trình độ chuyên môn 
và năng lực sư phạm, sử dụng tốt các phương pháp 
truyền đạt, và tạo ra những tình huống có vấn đề 
để dẫn dắt SV suy tư. SV học tập không phải là 
ghi nhớ máy móc. GV cần phải phát huy khả năng 
tư duy sáng tạo cho họ và tạo sự hứng thú, say mê, 
tìm tòi ở họ.
Hiện nay, phương thức đào tạo theo tín chỉ đã 
cho phép chúng ta giảm bới sự nhồi nhét về kiến 
thức, khắc phục được việc học lệch, học tủ và phần 
nào khắc phục được sự quay cóp trong kiểm tra, 
giúp cho SV nâng cao khả năng tự học, tự nghiên 
cứu dưới sự hướng dẫn của GV. Tuy nhiên, để phát 
huy hơn nữa mặt tích cực của phương thức đào tạo 
theo tín chỉ thì GV dạy Môn triết học Mác – Lênin 
nên ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy 
học. Bởi vì công nghệ thông tin có khả năng chuyển 
đổi thông tin, kết nối các cơ sở dữ liệu, đảm bảo cho 
SV truy cập các thông tin cần thiết phục vụ tốt hơn 
cho nhu cầu giảng dạy và học tập. Bên cạnh đó, khi 
kết thúc bài, GV nên đưa ra một số chủ đề để SV ng-
hiên cứu. Trong buổi học tiếp theo, SV cần trình bày 
quan điểm của mình, các thành viên trong lớp bình 
luận, GV đưa ra ý kiến nhận xét, góp ý. Làm như 
vậy sẽ góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận 
cho SV, giúp họ học được cách đánh giá và tiếp nhận 
ý kiến của người khác. Có thể nói, đổi mới phương 
pháp giảng dạy triết học Mác – Lênin theo hướng 
đó là cần thiết để không chỉ nâng cao hiệu quả giảng 
dạy mà còn kích thích khả năng sáng tạo và góp 
phần nâng cao năng lực tư duy lý luận cho SV
3. Kết luận
Giáo dục triết học Mác – Lênin nói riêng và 
lý luận Mác – Lênin nói chung có vai trò rất quan 
trọng trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận 
cho SV, góp phần hình thành ở SV thế giới quan, 
nhân sinh quan, phương pháp nhận thức và hoạt 
động thực tiễn đúng đắn. Triết học Mác – Lênin 
cho đến nay vẫn là triết học đúng đắn nhất, vẫn 
là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam đúng đắn 
cho nhận thức và hành động thực tiễn. Tuy nhiên, 
hiệu quả của việc giảng dạy chưa cao, điều đó có 
nguyên nhân ở chỗ nội dung và phương pháp giảng 
dạy triết học Mác – Lênin hiện còn nhiều điều chưa 
phù hợp. Vì vậy, các nhà quản lý và những người 
làm công tác giảng dạy quan tâm hơn nữa đến việc 
đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy triết 
học Mác – Lênin.
Chú thích: 
(1) C. Mác – Ph. Ăngghen . Toàn tập (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 20, tr. 489, 508.
(2) V.I.Lênin. Toàn tập (1980), Nxb Tiến bộ, Matxcơva, tập 6, tr. 30.
Tài liệu tham khảo
C. Mác – Ph. Ăngghen . Toàn tập 1994. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội. Tập 20. Tr 489, 508.
Dương Phú Hiệp. 2008. Triết học và đổi mới. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.
Hoàng Thúc Lân. 2007. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên 
thông qua phát huy vai trò giảng dạy triết học Mác – Lênin. Tạp chí giáo dục. Số 160 Kì 1 tháng 4/2007.
Đặng Phương Kiệt. 2000. Cơ sở tâm lý học ứng dụng. NXB Đại học quốc gia. Hà Nội.
Ngô Doãn Vịnh. 2009. Bàn về vấn đề lý luận. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.
Trần Thành. 2007. Lý luận chính trị. NXB Hà Nội.
Trần Viết Quang. 2006. Vai trò của triết học MLN trong việc xây dựng bồi dưỡng năng lực tư duy biện 
chứng cho SV sư phạm. Báo chí và tuyên truyền. Số tháng 10/2006.
V.I.Lênin. Toàn tập 1980. NXB Tiến bộ. Matxcơva. Tập 6. tr 30.

File đính kèm:

  • pdfve_doi_moi_noi_dung_va_phuong_phap_giang_day_triet_hoc_mac_l.pdf