Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt
Bài viết khảo sát dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt ở cả ba
miền đất nước về đặc điểm nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật, chỉ ra một số điểm tương
đồng và dị biệt trong những bài hát này ở các địa phương ( với các bối cảnh khác nhau,
như hát quan họ ở Bắc bộ, hát phường vải ở Trung bộ, hò chèo ghe ở Nam bộ). Cuối cùng,
bài viết trình bày vai trò của dạng thức trong tổng thể cuộc hát đối đáp, trong văn hóa
người Việt và trong việc tìm hiểu các văn bản ca dao.
Bạn đang xem tài liệu "Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 3(28) - Thaùng 5/2015 14 VỀ DẠNG THỨC HÁT KẾT THÚC TRONG HÁT ĐỐI ĐÁP NAM NỮ NGƯỜI VIỆT NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP(*) TÓM TẮT Bài viết khảo sát dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt ở cả ba miền đất nước về đặc điểm nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật, chỉ ra một số điểm tương đồng và dị biệt trong những bài hát này ở các địa phương ( với các bối cảnh khác nhau, như hát quan họ ở Bắc bộ, hát phường vải ở Trung bộ, hò chèo ghe ở Nam bộ). Cuối cùng, bài viết trình bày vai trò của dạng thức trong tổng thể cuộc hát đối đáp, trong văn hóa người Việt và trong việc tìm hiểu các văn bản ca dao. Từ khóa: hát đối đáp, hát kết thúc, dạng thức, bối cảnh, văn hóa truyền thống ABSTRACT The paper examines ending songs of the alternating folksongs between boys and girls in the three regions of Vietnam, about some basic features of its content and artistic language. This also shows the similarity and difference in ending songs between some locals (with differrent performance contexts, for example: “quan ho singing” of Northern people, “phuong vai singing” of Central people, “rowing boat singing” of Southern people). Finally, it presents the roles of this form toward the alternating folksongs in general, toward Vietnamese traditional culture and researching the textual versions of folk poetry. Keywords: alternating folksongs between boys and girls, ending songs, form, context, traditional cuture 1. Hát đối đáp nam nữ là hình thức ca hát dân gian có từ lâu đời tồn tại ở khắp các vùng miền trên đất nước Việt Nam, còn được gọi bằng nhiều tên khác như dân ca đối đáp, đối ca nam nữ, hát đối, hò đối đáp, hát giao duyên, hát huê tình, hát nhân ngãi (*) Hiểu theo nghĩa rộng, hát là khái niệm dùng để gọi chung cho tất cả các hình thức diễn xướng lời ca, như hát bộ, hát quan họ, hát ví, hát hò, hát lý... Còn xét theo nghĩa hẹp, có thể phân biệt giữa hát và hò trong một chừng mực nhất định. Theo Từ điển văn học, hò là “một loại hình dân ca Việt Nam gắn với sản xuất, người lao động vừa (*)TS, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM làm vừa hát để giảm nhẹ nỗi vất vả, đồng thời trao đổi tâm tình, thử thách trí tuệ dưới dạng một người xướng lên một đoạn chính (hò cái) và xô theo là tiếng ngân nga của số đông người (hò con)” [2, tr.599]. Hò có mặt ở khắp các vùng miền đất nước, nhưng thường được xem là “đặc sản” của Trung và Nam bộ như hò mái nhì, hò khoan, hò Bến Tre, hò Đồng Tháp Nếu như hò thường gắn với các công việc lao động sản xuất thì hát gắn nhiều hơn với hội hè, đình đám, vui chơi. Hát là diễn xướng có vần có điệu theo một bản nhạc, ít nhiểu mang tính chất nghệ thuật khuôn khổ. Trong kho tàng dân ca người Việt, nổi bật có hát quan họ, 15 hát ví, hát đúm, hát trống quân, hát ghẹo Tuy có phần khác biệt như vậy, nhưng trong dân gian, sự phân định giữa hát và hò nhiều khi không rõ ràng, dễ nhập nhằng, lẫn lộn. Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ đã nhận xét: “Làn điệu hát huê tình nghe buồn man mác, nhịp điệu buông lơi, thoải mái. Thoạt nghe dễ nhầm lẫn với một số làn điệu hò chèo ghe, vì giữa hai thể loại này không có ranh giới rõ rệt” [4, tr.110]. Giữa hát ghẹo, hát ví, hát trống quân... và hò chèo ghe, hò giã gạo, hò cấy... có thể khác nhau trong cách thức trình diễn, làn điệu âm nhạc... nhưng về bản chất đều là sinh hoạt đối ca giữa nam và nữ xoay quanh tâm điểm huê tình. Bài viết này quan tâm đến điểm chung cốt lõi vừa nêu, đồng thời khảo sát các sáng tác trữ tình chủ yếu từ bình diện ngôn từ nên thiết nghĩ có thể dùng tên gọi hát đối đáp để chỉ chung cho tất cả các cách thức diễn xướng đối đáp của dân gian, bao gồm cả hát và hò. Theo cách hiểu trên đây về hát đối đáp thì Bắc Bộ có hát quan họ, hát cò lả, hát ghẹo, hát trống quân, hát đúm, hát ống ; Trung Bộ có hát giặm, hát ví, hò khoan, hò giã gạo, hò mái nhì, hò mái đẩy; Nam Bộ có hò cấy, hò chèo ghe, hò giã gạo, hò xay lúa 2. Hát đối đáp là một dạng sinh hoạt nghệ thuật tập thể, có thể diễn ra khi lao động, vui chơi, hội hè Ở đó, mọi người giáp mặt nhau, tự do làm quen, tìm hiểu, kết bạn, trao đổi tâm tư, tình cảm với nhau về tất cả các vấn đề trong cuộc sống thông qua lời ca tiếng hát. Tiếng hát trở thành cầu nối giữa những tâm hồn đồng điệu, thành phương tiện để tạo ra các mối tương tác xã hội trong nhóm nhỏ người tham dự. Theo nhiều tài liệu, ở những giai đoạn đầu, có thể hát đối đáp mang chức năng thực hành nghi lễ và tiền hôn nhân. Khi hát, trai gái làm quen nhau, xích lại gần nhau, mặt nhìn mặt, tay nắm tay, trao đổi những đồ vật kỷ niệm, hứa hẹn gắn kết Ca hát là cơ hội thuận lợi để đôi bên gặp gỡ, tìm hiểu và tiến tới hôn nhân. Trong quá trình phát triển, hát đối đáp đã dần trở thành một sinh hoạt văn nghệ, ở đó, quan hệ nam nữ được mở rộng thành nhiều mối quan hệ xã hội khác (kết chạ giữa hai làng, bạn bè, người dân – chiến sĩ, người dân – quan lại...). Hát đối đáp có sức hấp dẫn đặc biệt. Sự tồn tại của hình thức này trên khắp các vùng miền đất nước với số lượng câu hát cực kỳ lớn đã nói lên điều đó. Là lời tự hát của người lao động, hát đối đáp thu hút được sự chú ý tham gia của nhiều tầng lớp, ngành nghề, lứa tuổi...trong xã hội. Mỗi cuộc hát là một cuộc chơi nhiều thú vị, bất ngờ. Những lời ca buông bắt trò chuyện trực tiếp giữa các cá nhân đã tạo một không gian thuận lợi cho sự sáng tạo trên cái nền của các yếu tố nghệ thuật truyền thống. Sự kết hợp giữa truyền thống với ứng tác luôn làm mọi người hào hứng. Nhiều cô gái đã mê mệt “Em nghe anh bỏ giọng trầm; hồn xiêu phách lạc, vàng cầm em cũng buông...” và các chàng trai cũng quá say hát nên sẵn sàng vượt qua bao trở ngại “Ở xa nghe tiếng em hò; cách sông cũng lội, cách đò cũng qua...”. Tô Ngọc Thanh đã rất xác đáng khi cho rằng: “Đây là loại trình diễn dân gian có nhiều sản phẩm mang chất lượng văn hóa- nghệ thuật và ứng xử xã hội cao. Có lẽ do chỗ những chủ thể sáng tạo và tham gia là những thanh niên nam nữ đang vào tuổi tràn trề sức xuân. Trong văn hóa dân gian mỗi tộc người, những sản phẩm của giao duyên thường được coi là một trong những biểu tượng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.” [10, tr.37]. Các hình thức hát đối đáp người Việt ở 16 cả ba miền rất phong phú. Diễn xướng đa dạng về thời gian, địa điểm, nhạc cụ, làn điệu, cơ cấu nhóm hát... Tuy nhiên, giữa chúng cũng lại có những điểm tương đồng: mục đích, nội dung, thủ tục, tiến trình mỗi cuộc hát gần giống nhau (theo các bước phát triển tuần tự của một cuộc tình duyên thông thường từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc). Số lượng, thứ tự các bước có thể không hoàn toàn trùng khớp, nhưng nói chung đều nằm trên trục chính là quá trình giao kết lứa đôi. Trong hát đúm (Hải Phòng) có: hát chào hỏi, hát giao hẹn, hát giao duyên, hát đố giảng, hát họa, hát mời, hát lính, hát thư, hát cưới và sau cưới, hát ra về. Hát phường vải (Nghệ Tĩnh) có: hát dạo, hát chào, hát mừng, hát hỏi, hát đố, hát đối, hát mời, hát xe kết, hát tiễn. Ở hò giã gạo (Thừa Thiên-Huế) có: hò mời chào, hò vào cuộc (gồm hò gần, hò đâm bắt, hò đố, hò đối, hò ân tình), hò xa cách... Từ thực tế này, có thể bước đầu khái quát thành một tiến trình chung gồm bốn dạng thức cho tất cả các sinh hoạt ca hát có giao đối: 1. Dạng thức hát mở đầu: hát dạo, hát chào mừng, hát hỏi thăm, hát giao hẹn, hát mời 2. Dạng thức hát thử tài: hát đố, hát đối, hát họa 3. Dạng thức hát xe kết: hát thương nhớ, hát thư, hát thề, hát ước, hát than trách, hát cưới 4. Dạng thức hát kết thúc: hát tiễn, hát dặn. Hệ thống các dạng thức này chỉ là một mô hình cơ bản, khi đi vào từng bối cảnh cụ thể, mô hình sẽ được điều chỉnh, bồi đắp để trở nên đầy đặn, sống động hơn bằng các dạng thức chi tiết mà có thể chỉ có ở từng địa phương. Bài viết này xin giới thiệu đôi nét về dạng thức hát kết thúc trong tiến trình trên của hát đối đáp người Việt. 3. Trong dân gian, các tên gọi phổ biến của hát kết thúc là: hát tiễn, hát dặn, hát chia tay, hát tiễn bạn, hát hẹn hò, hát ra về, hát giã (gồm hát giã đám, hát giã người tình nhân), hò từ tạ, hò giã biệt, hò tiễn bạn, hò hẹn, hò xa cách... Những tên gọi này phần nào giúp hình dung được nội dung và chức năng của dạng thức. Mỗi cuộc đối đáp có thể được diễn ra đầy đủ theo các bước thông thường, cũng có thể do thời gian hay điều kiện này khác mà bỏ qua một số bước, nhưng hát kết thúc (cùng với hát mở đầu, hát xe kết) thì thường được giữ lại như một quy định bắt buộc để tạo sự toàn vẹn cho chỉnh thể cuộc diễn xướng tại thời điểm đó. Có mở đầu thì phải có kết thúc. Khi mới gặp, đôi bên nam nữ đã mời mọc nhau hò hát, bộc lộ niềm vui được đối đáp, hỏi thăm tên tuổi và gia cảnh, mời nhau ăn trầu và hút thuốc...cho nên khi chia tay, cũng phải theo cách thức như vậy mà tiến hành. Hát kết thúc là dạng thức có số lượng lời hát phong phú. Đúng như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Thực ra đây là sự thể hiện cao độ của bước hát xe kết. Hai bên đã ý hợp tâm đầu rồi, tình nghĩa đã gắn bó rồi, ra về sao được, xốn xang bịn rịn lắm” [8, tr.74] Theo sưu tầm, trong hát phường vải, riêng dạng thức này đã có đến 236 lời [8, tr.444-469]. Hát đúm Hải Phòng có 25 lời, mỗi lời trên dưới 20 dòng thơ [3, tr.296-316]. Hát ví Hà Bắc có hơn 50 lời, trong đó cũng nhiều lời có độ dài như ở hát đúm [5, tr.201-212]. Hát ghẹo Thanh Hóa có hơn 30 lời [9, tr.584-587]. Hò đối đáp ở Thừa Thiên - Huế có 42 lời [11, tr.121- 128]... Những lời giã biệt này đã trở thành nguồn bài hát mang tính công thức chung. Mỗi người có thể vận dụng từ đó những bài phù hợp với tình huống hò hát của mình và ít nhiều có sáng tạo thêm. Giọng điệu chính của hát kết thúc là buồn thương, quyến luyến, trái ngược hẳn với hát mở đầu tràn đầy vui tươi, phấn 17 chấn. Ở cái “thế” của các nhân vật trong câu hát, đã làm quen, thử tài, ngỏ lời yêu thương, thề thốt gắn bó, viết thư, xin cưới, sắm sửa... nên đến giờ chia tay thật là não nuột. Những “người yêu” trao nhau lời giã biệt với các cung bậc cảm xúc đa dạng. Có niềm lưu luyến : “Tay bưng chén rượu tam bôi - Tay gạt nước mắt em ơi đừng về”, “Người ơi ở lại người ơi - Xin người ở lại với tôi bên này”... Có dặn dò chung thủy: “Ra về dặn bạn một hai - Bóng mình mình tựa, bóng ai đừng kề”, “Ra về dặn nước với non - Dặn rằng một chữ vuông tròn phu thê”, “Chàng về em dặn nhời này”, “Chàng về em dặn đôi lời”...Có nhớ thương, khóc lóc: “Ra về chỉ nhớ với thương”, “Ra về chỉ nhớ anh hoài”, “Ra về chín nhớ mười thương”, “Ra về nhớ ngãi nhớ tình”, “Ra về nước mắt như mưa”, “Ra về nước mắt nhỏ hoài”... Có mong muốn táo bạo được “về theo”: “Chàng về bỏ thiếp sao đành - Thiếp xin đóng cửa, buông mành thiếp theo”, “Anh về cho em về cùng”, “Anh về cho em về theo”... Có hẹn hò gặp lại: “Nàng về hầu mẹ hầu thầy - Ngày mai lại đến chốn này cùng anh”, “Hẹn ngày ta lại gặp ta - Chắc rằng tình cũ mặn mà lại hơn” Họ chào nhau ra về, cũng lớp lang trình tự, không bỏ sót ai - chu đáo như khi mới gặp nhau: “Canh khuya nguyệt lặn sao tà - Giã ơn tất cả khách quan trong ngoài - Có lòng chiếu cố hôm nay - Đã mãn cuộc này xin bạn nghỉ ngơi”, “Bây giờ trăng đã xế tà - Mình gần mình ở, ta xa ta về - Anh em đi ngủ kẻo khuya - Tôi xin tạm biệt đi về đường xa” Lời hát từ giã thường vẽ lại thời điểm chia tay, đó là lúc cuối ngày: mặt trời đã gác non đoài, mặt giời đã tối hôm rồi, mặt giời hết ánh nắng rồi hoặc khi rạng sáng: đêm lụn canh tàn, trăng tắt sao tàn, trăng lên đã đến mái nhà, đằng Đông hửng sáng mất rồi, cho thấy thời gian dành cho cuộc hát đã được kéo giãn hết mức, không thể tiếp tục được nữa. Từ đây, ta hiểu thêm nỗi lòng của người tham dự - rất nhiệt tình, say sưa đối đáp. Ở một số địa phương Bắc Bộ, chặng kết thúc còn có nội dung hát về khăn, nón, áo, quạt, ô, kính. Sắp chia tay nhau, họ muốn xin, trao chút kỷ vật để làm tin hoặc xin lại, đòi lại các vật đã trao lúc đầu khi vào cuộc hát. Trong tài liệu về hát ghẹo Vĩnh Phú có lưu ý về điều này: “Thi hát ghẹo không hát ứng khẩu mà chỉ thi hát các giọng và câu đã có sẵn. Để biết ai hơn ai kém, các cụ dùng một cái đóm tre hay một cái lạt dài bẻ gập từng khúc một để làm dấu. Các cụ gọi là “bẻ cò” Mỗi lần thua, thì bên thua phải lấy một thứ trang phục như khăn, áo hoặc một thứ đồ vật nào khác để trao cho bên được. Khi hát xong, sắp ra về, bên được sẽ trao trả lại bên thua” [7, tr.155] Còn ở hát đúm Hải Phòng, “Nếu bên nào chịu thua thì phải để lại “vật làm tin” (khăn, áo, mũ, nón, ô) và như vậy càng thôi thúc họ gắng tìm ra lời đáp để “chuộc” lại “vật làm tin” đó Đôi khi nam cũng phải bỏ cả ô, mũ, nữ phải bỏ cả nón, khăn chịu thua bỏ của chạy lấy người” [3, tr.21] Các bài hát về khăn, nón, áo... khá dài, miêu tả tỉ mỉ về vật dụng và xen vào đó những liên tưởng về tình duyên. Những đồ vật này thường được hình dung là rất đẹp, rất quý: “Nón này nón bạc nón vàng - Nón này anh để treo ngang trong nhà”, “Khăn em nua ở tỉnh Đông - Chạy tàu em xuống Hải Phòng mua kim - Chạy tàu xuống tỉnh Hưng Yên - Mua con chỉ thắm kết duyên cùng chàng”...Bài hát xin và tặng kỷ vật thì lời rất thiết tha, tình tứ: “Chàng để ô lại em ghì - Người không đi 18 lại của thì còn đây”, “Quạt này em quạt đương vừa - Chàng mà muốn lấy em đưa cho chàng - Quạt này cúc bạc nhài vàng - Quạt này chỉ quyết với chàng, chàng ơi!”, “Chàng về em chẳng dám nài – Áo trong chàng mặc, áo ngoài em xin” Còn bài hát đòi lại vật dụng để ra về thì nhiều câu lý lẽ trước sau nhằm thuyết phục phái kia rằng việc trả lại là cần thiết, hợp lý. Họ thường nói về đường sá xa xôi (phải có nón, ô che mưa nắng), sợ bạn bè cười chê (vì đi có về không), vật dụng do cha mẹ mua (nên phải đem về kẻo cha mẹ mong): “Sáng đi chúng bạn anh đông - Giờ về ô mất bạn trông bạn cười – Trước sau có bấy nhiêu lời – Lấy công lấy của anh thời đền sau – Xin em cầm tạm khẩu giầu – Trả ô anh lại kẻo lâu bạn chờ”, “Nón này chàng cho em xin -... Nón này của mẹ của thầy - Cho em chơi hội cầm tay đội đầu...” Lời hát thuộc chặng kết thúc cũng có những đặc điểm ngôn ngữ dễ nhận dạng. Các công thức mở đầu như “Anh về...”, “Chàng về...”, “Ra về...” được lặp lại thường xuyên. Chỉ riêng trong hát phường vải đã có đến 90 lời bắt đầu bằng “Ra về...”, hơn 30 lời “Anh về...”. Những từ ngữ được láy đi láy lại: ra về, xin về, đừng về, sao vội về, về chi, về răng được mà về, sao đành, bao giờ cho quên, ở lại đây, dặn chàng, dặn nàng, hẹn ngày...và nhiều cung bậc của nhớ, thương, khóc... 4. Tương tự như các hình thức diễn xướng văn nghệ dân gian khác, hát đối đáp là những sự kiện giao tiếp nghệ thuật trực tiếp trong nhóm nhỏ [6, tr.218]. Vì là giao tiếp trực tiếp, vì là nhóm nhỏ..., tức rất cụ thể, đa dạng, linh hoạt, nên ở từng địa phương, dạng kết thúc trong sinh hoạt trữ tình này cũng có những sắc màu phong phú khác nhau. Hát quan họ thường được diễn xướng trong các ngày hội, là một phần quan trọng trong nghi thức thờ cúng, tế tự. Mỗi hành động, lời nói, câu hát quan họ là một phần thiêng, là thể hiện mối quan hệ thần linh - người tế tự, và giữa đôi dân. Các liền anh, liền chị đi hát đều có ý thức rằng họ đang đại diện cho làng mình đi làm lễ ăn chạ với làng bạn. Lời hát có thể tác động đến thánh thần, góp phần tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn, nên họ luôn chú ý trau dồi ngôn ngữ, phong cách trình diễn, nghệ thuật hát... Nhóm nhỏ hát quan họ được tổ chức chặt chẽ, có quy định kỹ càng về mọi mặt sinh hoạt, có luyện tập công phu... Trước khi cuộc hát bắt đầu, bên mời hát phải đón quan họ bạn ở cổng làng, cùng đến đình để hát chúc rồi mới về nhà, mời cơm, nước, trầu... Trong không khí như vậy, những câu hát vang lên vừa trang trọng, vừa ấm áp nghĩa tình. Cũng như ở các dạng thức khác trước đó, dạng hát kết thúc của quan họ gồm nhiều lời với phong cách mượt mà, trau chuốt: “Người về bỏ bạn sao đành - Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng - Người về bỏ vắng phòng không - Người về em vẫn nay trông mai chờ...”, “Người về em những khóc thầm – Bên song, vạt áo ướt đầm như mưa...”...Trong một số trường hợp, câu hát thể hiện tình yêu lứa đôi thắm thiết, đậm sâu: “...Trách ai trải chiếu không nằm – Để em trằn trọc một mình sao đang...”, “Người về thưa bác mẹ thầy – Rồi ra mở lịch định ngày kết duyên...”... nhưng được dùng như lời từ tạ giữa đôi dân, giữa hai quan họ bạn đã kết nghĩa và xem nhau như anh em một nhà. Đặng Văn Lung có nhận xét rất hay rằng: “...Phát triển dòng ngôn ngữ mang tính thiêng của hội hè, người quan họ tạo ra một thế giới thăng hoa đặc biệt so với các dân ca khác, với trai thanh gái lịch các nơi khác.”[1, tr.138]. Hát phường vải ở Nghệ Tĩnh không 19 gắn với lễ hội, với các nghi thức thờ cúng, tế tự hay với tục kết chạ. Đây là sinh hoạt văn nghệ của những người lao động làm nghề kéo vải, thường diễn ra từ sau mùa thu hoạch bông cho đến tháng tám, tháng chín hàng năm. Quay xa kéo vải là công việc của phụ nữ cho nên khi đối đáp, các cô thường vừa làm việc vừa ca hát, còn các chàng trai đến hát thì không làm gì, chỉ đứng hoặc ngồi để cất giọng mà thôi. Một cuộc hát đúng thủ tục “thường kéo dài hai ba, bốn có khi năm, sáu đêm mới đủ mọi chặng bước” [8, tr.49], nhưng trong thực tế sinh hoạt linh động hơn nhiều. Trai gái hát với nhau để trao đổi tình cảm, đua tài đua trí, kết bạn, kết đôi trong không khí vui tươi, sôi nổi. Nếu như khi bắt đầu gặp nhau đã có những lời tha thiết như: “Dừng xa khoan kéo ơi phường, Hình như có khách viễn phương đến nhà”, “Em đang kéo vải giữa sân, Thấy chàng quân tử mười phần nhớ thương”, “Chào chàng nho sĩ vài lời, Gọi là phường vải nhởi chơi theo mùa”... rồi khi xe kết “Bốn mùa xuân hạ thu đông, Thiếp ngồi kéo vải chỉ trông bóng chàng”, “Một niềm chỉ quyết lấy o, Khéo bông khéo vải, khéo lo việc nhà”, “Hỡi người dệt vải lanh tay, Mắt trông lúng liếng lòng say lấy lòng”, “Hỡi người kéo vải quay vành, Có về dưới Liệu với anh thì về”... thì ở chặng cuối, lúc hát tiễn cũng không kém phần mãnh liệt “Em đang kéo vải dựa thềm, Chàng về chăn ấm gối êm sao đành?”, “Xếp xa quay lại em tề, Gửi thầy với mẹ mà về theo anh.”... Trong câu hát, có khá nhiều từ ngữ gắn với nghề kéo vải. Công việc lao động đi vào lời ca thật tự nhiên, nhẹ nhàng mà cũng thật đẹp đẽ, lãng mạn. Có những câu hát chải chuốt, điêu luyện, có những câu mộc mạc, giản dị... nhưng nhìn chung loại sau vẫn chiếm phần hơn. Chặng kết thúc trong hát phường vải với số lượng lớn lời ca mang lại cho người tiếp nhận cái nhìn đầy đủ hơn về tâm hồn phong phú và sự tinh tế, tài hoa của người dân xứ Nghệ, như Xuân Diệu đã có lần nhận xét “chỉ riêng một chuyện ra về, đã bao nhiêu trùng trùng điệp điệp của hai tấm lòng lưu luyến nhau: “Nửa về nửa muốn ở đây...”, “Nghe tin anh dóng dả ra về...”, rồi thế là nối tiếp nhau tất cả tám mươi câu “ra về”, có lẽ là của hàng vạn, hàng ức đôi trai gái của núi Hồng, sông Lam tiễn biệt nhau trong năm, sáu, bảy, tám trăm năm...Tầng tầng lớp lớp không dứt ra được.” [dẫn theo 8, tr.83] Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các từ ngữ địa phương cũng góp phần tạo nên nét duyên cho câu hát tiễn: “Anh về em nỏ (không) chi đưa, Quan sơn nghìn dặm, em chưa hết lời”, “Anh về cho em về theo, Đói no có chắc (nhau), giàu nghèo đủ đôi”, “May mô đâu may, khéo mô đâu khéo, Cơn (cây) cỏ héo gặp trộ (trận) mưa rào, Mối tình duyên hội ngộ, Liễu với đào ta kháp (gặp) nhau”, “Anh về răng (sao) đứt anh ơi...”... Với Nam Bộ, diễn tiến một cuộc hát thường không có nhiều nghi thức, thủ tục đơn giản hơn vì phần nhiều dân gian hát hò khi đang lao động cày cấy, gặt hái, chèo thuyền, giã gạo... Nếu chỉ là một cuộc tao ngộ tình cờ trên sông nước thì thời gian ca hát sẽ bị hạn chế, và số lượng dạng thức cũng như số lời hát được sử dụng lúc này hiển nhiên là ít ỏi. Còn trong những cuộc hát dài hơi hơn, qua các tài liệu khảo sát- số lượng dạng thức và lời hát có nhiều hơn, nhưng cũng không phong phú, bài bản như ở Bắc và Trung Bộ. Có thể tính chất công việc, đặc điểm môi trường lao động và giao tiếp, tính cách con người địa phương, mục đích ca hát...đã chi phối sinh hoạt trữ tình và dẫn đến đặc điểm này. Cũng có thể do 20 thực tế sưu tầm còn hạn chế, ghi chép văn bản còn rời rạc... nên người tiếp nhận chưa tiếp cận được với hát đối đáp Nam Bộ ở dạng đầy đủ và sống động như đã từng tồn tại trước kia. Các công thức quen thuộc “Anh về...”, “Ra về...”... được sử dụng không nhiều, mà phổ biến là cách đặt lời, dùng chữ ít theo khuôn khổ: “Hai hàng lụy nhỏ ròng ròng, Chồng nam vợ bắc đau lòng trời ôi, Còn một đêm nay nữa mai thôi, Giã từ em ở lại, anh hồi cố hương”, “Đất Châu Thành anh ở, Xứ Cần Thơ nọ em về, Bấy lâu sông cận biển kề, Phân chia mai trước (trúc) dầm dề hột châu”... Ngôn ngữ giao đối thường mang nhiều chất khẩu ngữ, dân dã: “Ghe anh lui về Gia Định, Em nhớ anh em thọ bịnh liền, Không tin anh hỏi lại xóm giềng đều hay”, “Anh về ở bển an bài, Cơm cháo qua ít bữa vài ngày em ghé thăm”... Như vậy, cùng là chia tay, dặn dò, bịn rịn... nhưng câu hát giã biệt trong quan họ Bắc Ninh, hát phường vải Nghệ Tĩnh, hò cấy, hò chèo ghe Nam Bộ... được hình thành và diễn xướng trong những bối cảnh khác nhau. Đối đáp khi hội hè, nghi lễ, vui chơi, lao động... có những cách thức không trùng lắp. Ở mỗi nhóm nhỏ, địa điểm và thời điểm tụ họp, môi trường sinh hoạt, cách thức tổ chức, cơ cấu nhóm hát, bài bản sử dụng, trang phục, ngôn ngữ giao tiếp...đều có những nét riêng, tạo nên phong cách độc đáo cho cuộc hát đối đáp ở từng nơi. 5. Cùng với các dạng thức khác (hát mở đầu, hát thử tài, hát xe kết), hát kết thúc góp phần tạo cho chỉnh thể cuộc hát được toàn vẹn, đầy đặn, phong phú. Gặp gỡ rồi chia tay, yêu thương rồi tiễn biệt...những lời hát ở chặng cuối này phù hợp với tâm lý tiếp nhận của cả người hát lẫn người nghe, khép lại một cuộc hát với nhiều luyến thương, tiếc nhớ... Hát kết thúc giúp đôi bên cùng cảm thấy đẹp lòng, đỡ bị hụt hẫng khi buộc phải xa cách những người bạn hát nhiều khi rất tâm đầu ý hợp với mình. Cuộc hát, đồng thời cũng là cuộc giao tiếp, rõ ràng đã đảm bảo được những nghi thức xã giao cần thiết. Dạng thức hát kết thúc còn là biểu hiện sinh động của những nét đẹp trong văn hóa giao tiếp người Việt. Đó là những lời lẽ lịch sự, trang trọng, thân thiện, hiếu khách..., là thái độ trọng tình (tình nghĩa, tình yêu quý hơn mọi thứ của cải, vật chất trên đời; được ca hát với nhau rồi kết thành gia thất hay kết bạn... là ước mơ hạnh phúc mà mọi cuộc hát đều hướng đến), trọng nữ (nữ được nhiều “ưu tiên” trong cuộc hát, được tự do bộc lộ tâm tư tình cảm về mọi vấn đề trong xã hội, luôn có ứng đối nhạy bén, thông minh, số lượng lời hát giã biệt của nữ không thấp hơn của nam...), trọng văn (ưa thích ca hát đối đáp, không muốn dừng cuộc hát, người hát giỏi được đánh giá cao....)... Dạng thức này ít nhiều đã góp phần ổn định, duy trì, củng cố những điểm trội trong văn hóa giao tiếp cộng đồng, đem đến cho mọi người những bài học ngôn giao sinh động, hấp dẫn trên nhiều phương diện. Khi tham gia cuộc hát, người ta tiếp nhận những cái hay và hành xử theo các khuôn mẫu đó. Dạng thức hát kết thúc cũng cho thấy sinh hoạt đối ca có quy ước, thể thức, truyền thống sáng tác và thưởng thức riêng. Có những yếu tố liên quan đến lề lối, bối cảnh, nội dung diễn xướng đã in dấu trên ngôn từ của lời hát. Khi những lời này được cố định bằng văn tự, tách rời đời sống sinh động đã từng gắn bó hữu cơ, các dấu ấn trên có thể trở nên có ích trong việc giúp người đọc hiểu đúng, rõ, sâu về tác phẩm (xác định bối cảnh, xác định hệ thống lời 21 hát mà văn bản đơn lẻ kia là một thành tố phụ thuộc, từ đó nhờ hệ thống mà hiểu thành tố và ngược lại). Sự hiểu biết về các dạng thức hát đối đáp nói chung, hát kết thúc nói riêng thật sự cần thiết để người đọc “giải mã” hiệu quả các lời hát dân gian trong tình hình không ít tuyển tập sưu tầm về thể loại này hiện nay còn chưa chú ý nhiều đến việc sắp xếp các lời theo tiến trình cuộc hát hay cung cấp những tình huống thật cụ thể cho các văn bản đối ca. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Văn Lung (2005), Lễ hội và nhân sinh, Nxb. Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Giang Thu - Traàn Saûn - Phạm Thị Huyền (2003), Tìm hiểu hội mở mặt Thủy Nguyên, hội hát đúm Hải Phòng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 4. Lư Nhất Vũ - Lê Giang - Nguyễn Văn Hoa (1985), Dân ca Kiên Giang, Sở Văn hóa – Thông tin Kiên Giang xb. 5. Mã Giang Lân - Nguyễn Đình Bưu (1976), Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Ty văn hóa Hà Bắc xb. 6. Ngô Đức Thịnh - Frank Proschan (đồng chủ biên) (2005), Folklore thế giới - một số công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. Ngô Quang Nam – Xuân Thiêm (đồng chủ biên), (1986) , Văn hóa dân gian vùng đất Tổ, Sở Văn hóa thông tin Vĩnh Phú xb. 8. Ninh Viết Giao (2002), Hát phường vải, Nxb. Văn hóa – Thông tin và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 9. Sông Thao – Đặng Văn Lung (2007), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập 4, quyển 2, Dân ca, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 10. Tô Ngọc Thanh (2007), Ghi chép về văn hóa và âm nhạc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 11. Triều Nguyên (1997), Hò đối đáp nam nữ Thừa Thiên – Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế. * Ngày nhận bài: 24/1/2015. Biên tập xong: 24/4/2015. Duyệt đăng: 04/5/2015.
File đính kèm:
- ve_dang_thuc_hat_ket_thuc_trong_hat_doi_dap_nam_nu_nguoi_vie.pdf