Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong giai đoạn hiện nay

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước,

cha ông chúng ta đã ý thức rõ về việc dùng

người là quốc sách. Điều đó có ý nghĩa và

tác dụng trực tiếp đến sự tồn vong của

quốc gia, dân tộc. Chẳng hạn, trên văn bia

tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất 1442 tại

Quốc Tử Giám, dưới triều hậu Lê của Tiến

sĩ Thân Nhân Trung ghi: “.Hiền tài là

nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh

thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên

khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì

thế các bậc đế vương thánh minh không

đời nào không coi việc giáo dục nhân tài,

(*) CN, Quận uỷ Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh

kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc

gia làm công việc cần thiết.”. Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã tiếp thu nền văn hoá truyền

thống, và tinh hoa của nhân loại từ Đông

sang Tây, đã dày công đào tạo, xây dựng

và huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên

trung thành với Tổ quốc, dân tộc, kiên định

và tận tuỵ với lí tưởng và hoàn thành xuất

sắc mọi nhiệm vụ qua các thời kì. Người

đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải

trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải

trồng người”1, đó là một trong những quan

điểm tư tưởng thể hiện sự quan tâm, xây

dựng con người, tổ chức cán bộ và huấn

luyện sử dụng cán bộ lâu dài cho quốc gia

và dân tộc.

pdf 7 trang kimcuc 7440
Bạn đang xem tài liệu "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong giai đoạn hiện nay

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong giai đoạn hiện nay
37 
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012 
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ 
ĐỂ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÍ GIÁO DỤC 
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 
TRẦN VĂN KHUYÊN(*) 
TÓM TẮT 
Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một người lãnh tụ gương 
mẫu, tận tuỵ, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mà những tư tưởng 
của Người đã để lại cho nhân dân ta là vô cùng quý giá. Do đó, học tập và làm theo tấm 
gương đạo đức của Người để xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục mẫu 
mực,“vừa hồng vừa chuyên” góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục, nhằm kiến thiết và 
xây dựng đất nước là vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay. 
Từ khoá: tư tưởng, quản lí cán bộ, quản lí giáo dục, đạo đức, đào tạo 
ABSTRACT 
In his lifetime, President Ho Chi Minh not only was an exemplary leader who had 
devoted his heart and soul to the service of the country and people but also left them his 
valuable ideas. Therefore, nowadays it is a practical matter to study and follow the 
example of his moral life in order to build up the staff of educational administrators, who 
are exemplary, “red and expert”, for the promotion of the educational cause and for the 
construction of the country. 
Key words: ideas, monitor cadres, educational administrators, moral, training 
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ 
CÔNG TÁC CÁN BỘ 
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, 
cha ông chúng ta đã ý thức rõ về việc dùng 
người là quốc sách. Điều đó có ý nghĩa và 
tác dụng trực tiếp đến sự tồn vong của 
quốc gia, dân tộc. Chẳng hạn, trên văn bia 
tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất 1442 tại 
Quốc Tử Giám, dưới triều hậu Lê của Tiến 
sĩ Thân Nhân Trung ghi: “...Hiền tài là 
nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh 
thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên 
khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì 
thế các bậc đế vương thánh minh không 
đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, 
(*) 
CN, Quận uỷ Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh 
kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc 
gia làm công việc cần thiết...”. Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đã tiếp thu nền văn hoá truyền 
thống, và tinh hoa của nhân loại từ Đông 
sang Tây, đã dày công đào tạo, xây dựng 
và huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên 
trung thành với Tổ quốc, dân tộc, kiên định 
và tận tuỵ với lí tưởng và hoàn thành xuất 
sắc mọi nhiệm vụ qua các thời kì. Người 
đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải 
trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải 
trồng người”1, đó là một trong những quan 
điểm tư tưởng thể hiện sự quan tâm, xây 
dựng con người, tổ chức cán bộ và huấn 
luyện sử dụng cán bộ lâu dài cho quốc gia 
và dân tộc. 
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh 
38 
về công tác cán bộ bao gồm: 
Thứ nhất: Hồ Chí Minh xác định “cán 
bộ là cái gốc của mọi công việc”2. Công 
tác cán bộ là công tác cơ bản của các công 
tác cơ bản. Cái gốc căn bản của người cán 
bộ từ cấp cao nhất trở xuống là phải làm 
thế nào cho dân tin, từ chỗ dân tin đến chỗ 
dân phục và từ chỗ dân phục đến chỗ dân 
yêu. Người cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, 
quản lí mà dân không tin, không phục, 
không yêu là người không có phẩm chất 
lãnh đạo. 
Thứ hai: Muốn cho cái gốc được vững 
chắc thì phải xác định vấn đề đào tạo, huấn 
luyện cán bộ làm sao cho đúng, cho tốt. 
Muốn đào tạo tốt, thì phải biết phát hiện 
người có thể làm cán bộ, từ đó mà đưa họ 
đi đào tạo tại các trường, lớp chính quy, 
hoặc có thể bổ túc kiến thức thường xuyên 
cho cán bộ. Công tác đào tạo cán bộ lãnh 
đạo, cán bộ quản lí đã được Hồ Chí Minh 
hết sức quan tâm, vì đây là "cái rễ sâu 
nhất" của "cái gốc" đào tạo cán bộ. Trong 
đào tạo cán bộ, Người yêu cầu phải hướng 
cho cán bộ vào một nội dung chính trị đúng 
đắn và nội dung chuyên môn sâu sắc. 
Thứ ba: Sau khi đào tạo, phải căn cứ 
vào kết quả đào tạo, năng lực, sở trường, 
sở đoản của mỗi người mà bố trí, sử dụng 
cho đúng, cho tốt. Sử dụng cán bộ đang 
trở thành vấn đề trọng yếu và cũng là vấn 
đề nổi cộm của công tác tổ chức hiện nay. 
Sử dụng cán bộ đồng nghĩa với việc bố trí 
cán bộ. 
Phương hướng sử dụng cán bộ của Hồ 
Chí Minh là có "điểm", có "diện". "Diện" 
là tất cả các nhân tài, còn "điểm" là chú ý 
đến cán bộ xuất thân từ thành phần công 
nhân, nông dân, trí thức. 
Phương pháp sử dụng cán bộ của Hồ 
Chí Minh được thể hiện trong "Thư gửi các 
đồng chí Bắc Bộ", ngày 1-3-1947. Người 
nói rằng, dùng người không được hẹp hòi, 
vì tư tưởng hẹp hòi, hành động cũng hẹp 
hòi, gây nên tình trạng ít bạn, nhiều thù. 
"Người mà hẹp hòi ít kẻ giúp. Đoàn thể mà 
hẹp hòi không thể phát triển”3. Người tổng 
kết: "Dùng người cũng như dùng gỗ. 
Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, 
đều tùy chỗ mà dùng được”4. Người thợ 
khéo ở đây là cán bộ lãnh đạo, quản lí. 
Phương pháp "nâng cao" mà Hồ Chí 
Minh đặt ra cho công tác cán bộ là phương 
pháp bổ túc thêm trong quá trình công tác 
của người cán bộ. Muốn vậy, người phụ 
trách phải biết tìm cách cho người được 
giao nhiệm vụ "học thêm lí luận và cách 
làm việc”5. Mục đích của phương pháp này 
là làm cho tư tưởng, năng lực của người 
cán bộ ngày càng tiến bộ. Đây là phương 
pháp rất cần thiết trong việc bồi dưỡng 
kiến thức cho cán bộ. 
"Kiểm tra" cũng là phương pháp tốt để 
quản lí cán bộ. Hồ Chí Minh coi vấn đề 
kiểm tra cán bộ là để tra xét cẩn thận, 
đúng, sai trong quá trình thực thi công việc. 
Sử dụng cán bộ mà chủ tịch Hồ Chí 
Minh cho là "dùng người" vừa là khoa học, 
vừa là nghệ thuật, nhạy cảm. Nó biểu hiện 
tầm nhìn xa, trông rộng, tấm lòng độ 
lượng, biết rõ tài, đức của mỗi người mà 
dùng cho đúng. 
Thứ tư: Trong công tác cán bộ, Hồ Chí 
Minh chú trọng đến tiêu chuẩn cán bộ là 
"tài và đức", "hồng và chuyên". Đó là hai 
tiêu chuẩn cơ bản mà Người yêu cầu mỗi 
một cán bộ cần phải có. Tài và đức là mối 
quan hệ hữu cơ mà tùy theo tính chất của 
công việc mà định lượng và định tính cho 
đúng. Người có lúc nói "tài và đức", nhưng 
lại có lúc nói "đức và tài". Điều đó phản 
ánh tư duy linh hoạt, cơ động mỗi khi bàn 
về tài và đức, đức và tài, nhưng cốt lõi vẫn 
là trọng cái đức. 
39 
Thứ năm: Vấn đề xây dựng đạo đức 
cách mạng của người cán bộ. Vấn đề này 
đã được Hồ Chí Minh nhắc đi, nhắc lại rất 
nhiều lần trong các tác phẩm, bài viết, bài 
nói của Người về vấn đề cán bộ, trong quá 
trình tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ 
nhân dân, tiến lên cách mạng xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam. Đạo đức ở đây được 
Người xác định là đạo đức cách mạng, mà 
đã nói đến cách mạng tức là biến cái cũ 
thành cái mới, sáng tạo. Đạo đức cách 
mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là 
toàn bộ những nguyên tắc sống và những 
quy phạm đạo đức phù hợp với sự phát 
triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Đó là sự 
trung thành với sự nghiệp cách mạng, bằng 
sức của mình, làm tăng thêm của cải cho xã 
hội; thực hiện tốt nghĩa vụ công dân đối 
với xã hội, có tinh thần tập thể... Những 
quy phạm đạo đức cách mạng không chỉ 
hạn chế trong khuôn khổ hành vi của con 
người, mà còn là những nhân tố có hiệu lực 
để cải tạo xã hội, ảnh hưởng đến toàn bộ 
tiến trình phát triển xã hội. 
Thứ sáu: Xây dựng tư cách, nhân cách, 
tác phong của người cán bộ. Tần số ngôn 
ngữ này xuất hiện rất nhiều lần trong các 
tác phẩm, bài viết, bài nói của Hồ Chí 
Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. 
Với Người, tư cách là sự thể hiện cách đối 
xử có văn hoá của người cán bộ với nhân 
dân, đồng nghiệp, đồng chí của mình; tư 
cách của người cán bộ là sự thể hiện sự 
đứng đắn của người cán bộ đó. Nhân cách 
chính là tư cách của con người và của 
người cán bộ; là sự tôn trọng lẫn nhau của 
mỗi người cán bộ; nhân cách còn biểu hiện 
như là phương pháp để cải tạo, rèn luyện 
của mỗi người cán bộ. Tác phong là sự thể 
hiện ở cách làm việc ngăn nắp và nếp sinh 
hoạt hằng ngày, hằng giờ và phẩm chất 
công tác của người cán bộ. 
Thứ bảy: Trong hoạt động, người cán 
bộ phải gắn một cách nhuần nhuyễn, hữu 
cơ giữa lí luận và thực tiễn. Đây là một 
trong những vấn đề được Hồ Chí Minh rất 
quan tâm. Người cảnh báo cái bệnh mà cán 
bộ thường mắc phải là lí luận bóc tách khỏi 
thực tiễn trở thành lí luận suông. Người 
yêu cầu cán bộ phải biết tổng kết thực tiễn 
và qua tổng kết thực tiễn khái quát thành lí 
luận. Người cán bộ nào làm được như vậy 
là người cán bộ có trình độ lãnh đạo, quản 
lí tốt. Người nhận định trong đội ngũ cán 
bộ không thiếu những tấm gương dũng 
cảm trong chiến đấu và tận tuỵ với công 
việc. Hiềm một nỗi, có nhiều cán bộ rất 
thiếu kiến thức lí luận, cho nên trong công 
vụ, họ phải mò mẫm và luôn luôn bị vấp 
váp. Người cho rằng, cán bộ có thể tránh 
được bế tắc, sai lầm cùng với những thất 
bại đau đớn, nếu người cán bộ đó có những 
kiến thức tối cần thiết về lí luận soi đường. 
Thứ tám: Vấn đề tự phê bình và phê 
bình của người cán bộ đã được Hồ Chí 
Minh nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần trong 
các tác phẩm, bài viết, bài nói của Người. 
Nhiều lần, Người đặt vấn đề phê bình lên 
trước tự phê bình, nhưng sau đó Người lại 
nói tự phê bình trước. "Tiên trách kỉ, hậu 
trách nhân". Đây là vũ khí sắc bén để cải 
tạo, rèn luyện cán bộ trong mọi hoàn cảnh, 
nhưng khi vận dụng vào thực tiễn sẽ rất 
khó. Hiện nay, có một thực tế rất đáng lo 
ngại là trong đội ngũ cán bộ lan tràn tình 
trạng "dĩ hòa vi quý", chủ yếu là ca ngợi 
thành tích của nhau, mà ngại nói ra sự thật, 
dần dà biến thành những phần tử cơ hội 
"hai mặt". Hiện nay, hiếm thấy người lãnh 
đạo, quản lí, hoặc cán bộ chuyên môn nào 
dũng cảm, tự cho mình năng lực kém và 
xin rút khỏi chiếc ghế đang ngồi để 
nhường cho người khác. Xét cho cùng, đây 
vẫn là lợi ích cá nhân. Vấn đề tự phê bình 
40 
và phê bình của người cán bộ là niềm 
mong muốn suốt đời của Hồ Chí Minh. 
Tuy nhiên, niềm mong muốn suốt đời ấy 
chỉ có thể trở thành hiện thực khi trình độ 
nhận thức của cán bộ được nâng cao ở tầm 
trí tuệ, bản lĩnh. 
Thứ chín: Giúp đỡ cán bộ là vấn đề mà 
Hồ Chí Minh đã đề cập trong một số tác 
phẩm, bài viết, bài nói của mình. "Chúng ta 
phải nhớ rằng: người đời ai cũng có chỗ 
hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của 
người và giúp người chữa chỗ dở"6. Mục 
đích của giúp đỡ là cải tạo. Qua cải tạo, Hồ 
Chí Minh muốn giúp đỡ cán bộ về mặt tinh 
thần, tư tưởng. Trong cải tạo, Người cho 
rằng, thuyết phục vẫn là cách tốt nhất để 
cảm hoá cán bộ. Muốn thành công trong 
cách này, đòi hỏi người lãnh đạo, quản lí 
phải hết sức kiên nhẫn, bình tĩnh, làm từng 
bước, chắc chắn. Phải hết sức thông minh, 
tỉnh táo khi đánh giá một sai lầm. Người 
nói: "Không phải một sai lầm to lớn, mà đã 
vội cho họ là "cơ hội chủ nghĩa", đã "cảnh 
cáo", đã "tạm khai trừ". Những cách quá 
đáng như thế đều không đúng”7. Còn giúp 
đỡ là Người quan tâm đến cả yếu tố vật 
chất và tinh thần của người cán bộ. Người 
nói: "Phải cho họ điều kiện, sinh sống đầy 
đủ mà làm việc. Khi họ đau ốm phải có 
thuốc thang. Tùy theo hoàn cảnh mà giúp 
họ giải quyết vấn đề gia đình. Những điều 
đó rất quan hệ với tinh thần của cán bộ và 
sự thân ái, đoàn kết trong Đảng"8. Người 
còn nói: Cần giúp đỡ cán bộ về học tập và 
công tác, quan tâm hơn nữa đến tâm tư, 
nguyện vọng của họ. Đó là sự thể hiện tấm 
lòng chân thành, thiện chí với nhau, là đầu 
mối dẫn đến đoàn kết lành mạnh. 
Thứ mười: Cán bộ tự rèn luyện, tự 
phấn đấu vươn lên; thường xuyên biết rút 
kinh nghiệm qua thực tiễn công tác. Tự rèn 
luyện, tự phấn đấu vươn lên trong mọi 
hoàn cảnh, không trông chờ vào tổ chức, là 
một biểu hiện của phẩm chất cán bộ. Tự 
rèn luyện, tự phấn đấu vươn lên trong công 
tác, học tập, nghiên cứu của người cán bộ 
phải được thể hiện ở chất lượng công tác, 
chất lượng học tập, chất lượng nghiên cứu 
sao cho có hiệu quả. Tinh thần gương mẫu, 
có ý thức tổ chức, kỉ luật cao là một biểu 
hiện sinh động của tinh thần tự rèn luyện, 
tự phấn đấu của người cán bộ. Muốn làm 
được điều đó, người cán bộ phải thường 
xuyên biết rút kinh nghiệm ngay trong quá 
trình công tác, học tập, nghiên cứu và trong 
sinh hoạt đời thường. 
2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ 
MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ ĐỂ 
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ 
QUẢN LÍ GIÁO DỤC HIỆN NAY 
2.1. Thực trạng công tác quản lí của 
đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục hiện nay 
Một số tồn đọng khá lâu về công tác 
quản lí giáo dục bắt đầu từ chỗ tuyển dụng, 
sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ quản lí giáo 
dục không đúng vị trí. Do hiểu không thấu 
đáo về đường lối, chủ trương của Đảng, 
nhà nước, vận dụng một cách cứng nhắc 
tiêu chuẩn đề ra theo luật định mà không ít 
địa phương khi bố trí cán bộ quản lí giáo 
dục để xảy ra tình trạng “hồng” mà không 
“chuyên”. Lại có kiểu bố trí cán bộ quản lí 
giáo dục theo kiểu ê kíp, do mối quan hệ 
họ hàng, thân thích hơn là căn cứ vào năng 
lực, phẩm chất bản thân. Cả hai kiểu này 
đều dẫn đến những hạn chế, những bất cập 
trong quản lí như quan liêu, cửa quyền, 
hách dịch, bè phái, chậm tiến bộ và không 
chịu đổi mới. Từ đây, phát sinh hiện tượng 
bằng mặt không bằng lòng, mất đoàn kết 
nội bộ, làm giảm sút chất lượng giáo dục. 
Nhiều người vẫn nhầm lẫn, đánh đồng giữa 
khái niệm lãnh đạo (người có quyền cao 
nhất, có chức năng chỉ đạo) với khái niệm 
41 
cán bộ quản lí giáo dục (người điều hành, 
tổ chức). Người lãnh đạo có thể đồng thời 
kiêm chức năng quản lí, nhưng người cán 
bộ quản lí chưa chắc đã có khả năng lãnh 
đạo. Phân biệt được điều này để có sự rạch 
ròi khi đánh giá hiệu quả công tác quản lí ở 
cơ sở. 
Việc đổi mới phương thức quản lí 
trong giáo dục ở cơ sở hiện nay chưa kịp 
thời thể hiện ở chỗ: Sự phân cấp không 
triệt để, mới chỉ diễn ra trên đối thoại, 
thông tin, và một vài văn bản nhỏ, lẻ nên 
dẫn tới nhà trường thiếu quyền chủ động. 
Một khi cán bộ quản lí giáo dục cấp phòng, 
cấp trường không đủ năng lực tham mưu 
với cấp lãnh đạo địa phương, hoặc là cấp 
lãnh đạo địa phương không “mặn mòi” với 
giáo dục thì khó có được sự đầu tư đúng 
mức về cơ sở vật chất, các điều kiện để 
hoạt động. Hiện tượng “an phận thủ 
thường” cũng khá phổ biến, rơi vào những 
cán bộ quản lí thiếu năng lực, không mạnh 
dạn đổi mới cách nghĩ, cách làm, chỉ hành 
xử theo kiểu hành chính công cho hết 
nhiệm kì. Một bộ phận khác khi còn là giáo 
viên thì năng nổ phấn đấu, khi vào cương 
vị cán bộ quản lí giáo dục khoảng vài năm 
thì lại lười học tập, bồi dưỡng chuyên môn 
nên lạc hậu với cái mới. Khi cán bộ quản lí 
giáo dục mắc khuyết điểm, sai phạm thì 
cũng ít bị thôi chức, nghỉ việc nên làm mất 
niềm tin trong đội ngũ. 
2.2. Một số giải pháp xây dựng đội 
ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong giai 
đoạn hiện nay theo quan điểm về công tác 
cán bộ của chủ tịch Hồ Chí Minh 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và 
công tác cán bộ là kết tinh truyền thống 
dùng người của ông cha ta trong lịch sử, là 
đỉnh cao của “nghệ thuật” hay “phương 
sách” dùng người - bí quyết thành công của 
sự nghiệp Cách mạng. Đó là tư tưởng vĩ 
đại đầy tính nhân văn và khoa học. Ngày 
nay, những tư tưởng đó đã trở thành những 
bài học, những nguyên tắc trong công tác 
cán bộ của Đảng. Nhờ đó mà Đảng và Chủ 
tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được hiền tài, 
thu hút được nhân sĩ yêu nước, thu hút 
được tất cả các lực lượng đoàn kết xung 
quanh Đảng, đưa đến thành công của cách 
mạng Tháng Tám vĩ đại, thắng lợi Điện 
Biên chấn động địa cầu, đại thắng Mùa 
xuân 1975 hào hùng và cả nước vững bước 
đi lên CNXH. 
Vấn đề quản lí giáo dục, phát triển đội 
ngũ cán bộ quản lí giáo dục có vai trò quan 
trọng trong việc “Nâng cao dân trí, đào tạo 
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Với công 
tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí giáo 
dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải 
thực hiện đồng thời các giải pháp sau đây: 
2.2.1. Đẩy mạnh giáo dục chính trị, 
đạo đức, lí tưởng cách mạng thường xuyên 
cho người cán bộ quản lí giáo dục. 
Vì người cán bộ quản lí giáo dục hơn 
ai hết phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức 
cách mạng của người quản lí giáo dục là 
xây dựng tinh thần yêu nước, nhận thức 
đúng đắn và kiên định thực hiện lí tưởng 
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã 
hội, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, 
phai nhạt lí tưởng; không nói trái, làm sai 
với quan điểm, đường lối của Đảng, chính 
sách pháp luật của Nhà nước. Xây dựng và 
nêu cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân 
dân, phụ huynh và học sinh bằng những 
việc làm thiết thực hàng ngày; chống thói 
quan liêu, mệnh lệnh hách dịch, xa rời dân. 
Đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục hơn ai 
hết phải nêu cao tinh thần cần, kiệm, liêm, 
chính, chí công vô tư, biết coi trọng chất 
lượng, hiệu quả công việc; chống lười 
biếng, lãng phí, phô trương hình thức Có 
như vậy mới xây dựng được một đội ngũ 
42 
cán bộ quản lí giáo dục có đủ tư cách đạo 
đức cách mạng, biết thực hiện tốt đường 
lối, chính sách của Đảng; đặt lợi ích của 
Đảng và lợi ích của nhân dân lao động lên 
trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân 
mình; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; 
vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, 
gương mẫu trong mọi công việc; luôn luôn 
dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao 
tư tưởng và cải tiến công tác của mình; đáp 
ứng việc giải quyết kịp thời các yêu cầu, 
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phụ 
huynh và học sinh. 
2.2.2. Trên cơ sở hiểu và đánh giá đúng 
cán bộ quản lí giáo dục để trang bị và tạo 
dựng môi trường cần thiết cho đội ngũ cán 
bộ quản lí giáo dục làm việc hiệu quả. 
Cái gốc của người cán bộ nói chung và 
cán bộ quản lí giáo dục nói riêng là từ nhân 
dân, có nhiệm vụ quản lí và phục vụ nhân 
dân, phụ huynh và học sinh. Người cán bộ 
quản lí giáo dục là đầy tớ nhân dân trong 
thời kì đổi mới nên cũng sẽ có nhiều vấn 
đề phát sinh so với người cán bộ thời 
chiến, đó là đối tượng họ quản lí, phục vụ, 
đó là sự chi phối của cơ chế thị trường, bối 
cảnh toàn cầu hoá Vì vậy, phải hiểu 
được người cán bộ quản lí giáo dục có gì, 
cần gì để đánh giá đúng và sử dụng hiệu 
quả. Một người cán bộ quản lí giáo dục 
không thể tốt khi đạo đức, và năng lực họ 
kém so với nhân dân, phụ huynh và học 
sinh – đối tượng mà họ phục vụ. Công việc 
người quản lí giáo dục đảm nhiệm là công 
vụ nên tất yếu không cho phép nảy sinh tư 
lợi trong quá trình họ làm việc. Xuất phát 
từ những vấn đề đó, công tác đào tạo bồi 
dưỡng cán bộ quản lí giáo dục, giúp họ có 
đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phải 
được coi trọng hơn, chính sách và chế độ 
đối với họ cũng phải được từng bước nâng 
lên theo yêu cầu của xã hội. Đây cũng sẽ là 
vấn đề quan trọng để người cán bộ quản lí 
giáo dục yên tâm công tác, phát huy hết 
khả năng và ra sức cống hiến cho đất nước. 
2.2.3. Xây dựng cơ chế ràng buộc để 
người cán bộ quản lí giáo dục gần dân, 
phụ huynh và học sinh, lắng nghe, hiểu và 
hành động phục vụ nhân dân, phụ huynh 
và học sinh 
Cách mạng là sự nghiệp của quần 
chúng nhân dân, mọi hoạt động cách mạng 
phải lấy dân làm gốc. Chính những ý kiến, 
nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là 
nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới 
của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng 
đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, 
vượt qua biết bao khó khăn thử thách mà 
công cuộc đổi mới đạt được những thành 
tựu hôm nay. 
Dễ trăm lần không dân cũng chịu, 
Khó vạn lần dân liệu cũng xong. 
So với nhân dân, đội ngũ cán bộ quản 
lí giáo dục chỉ chiếm một bộ phận nhỏ, do 
đó nếu không có nhân dân giúp sức thì sẽ 
không thể hoàn thành được nhiệm vụ. 
Đồng thời, xa rời quần chúng nhân dân sẽ 
dẫn đến làm cho người cán bộ quản lí giáo 
dục mắc bệnh hẹp hòi mà Chủ tịch Hồ Chí 
Minh đã chỉ rõ, nhiều thứ bệnh như chủ 
nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ 
nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh 
vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ 
hoá,... đều đo bệnh hẹp hòi mà ra. 
Do vậy, cần thiết phải tạo ra cơ chế để 
người cán bộ quản lí giáo dục thường 
xuyên tiếp xúc và liên lạc với quần chúng 
nhân dân, thông qua các hình thức như gắn 
kết việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí 
giáo dục với các hoạt động và phong trào 
của nhân dân, đánh giá cán bộ quản lí giáo 
dục dựa trên tiêu chí hiệu quả công việc 
thực tiễn và uy tín của họ đối với đội ngũ, 
phụ huynh và học sinh .v.v 
43 
Để có đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục 
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục 
nước nhà, Hồ Chí Minh dạy rằng việc xây 
dựng, bồi dưỡng, huấn luyện, đào tạo cán 
bộ quản lí giáo dục, trọng dụng nhân tài là: 
“Công việc gốc”. Nhân tài, cán bộ quản lí 
giáo dục giỏi ở nước ta không hiếm. Vấn 
đề phải là biết cách chăm lo, phát hiện, bồi 
dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ cho đúng. 
Cấp uỷ và lãnh đạo ngành cần thật sự thấm 
nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng của 
Bác Hồ đối với công tác cán bộ, đặc biệt là 
cán bộ quản lí giáo dục; cần phải thực hiện 
tốt lời căn dặn của Bác Hồ về đào tạo thế 
hệ trẻ Việt Nam thành những người thừa 
kế xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong điều 
kiện lịch sử mới, khi toàn cầu hoá trở thành 
xu thế của thời đại, khoa học công nghệ và 
nền kinh tế tri thức phát triển, Việt Nam 
muốn sánh vai với các cường quốc năm 
châu như mong muốn của Bác Hồ thì yêu 
cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, 
chất lượng cán bộ nói chung, cán bộ quản 
lí giáo dục nói riêng và thu hút nhân tài trở 
thành quốc sách hàng đầu. Việc xây dựng 
và sử dụng cán bộ quản lí giáo dục là cả 
một vấn đề khoa học và nghệ thuật. Chúng 
ta phải luôn ghi nhớ lời Bác dạy:“Công 
việc thành hay bại đều từ cán bộ mà ra''. 
Chú thích: 
1 Hồ Chí Minh: Tuyển tập, tập 2 (1980), Nxb Sự thật, Hà Nội, trang 93. 
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 269. 
3, 4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 72. 
5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 276. 
6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội, trang 288, 251. 
7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 65, 509. 
8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 496. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), 
Nxb Chính trị Quốc gia. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Nxb 
Chính trị Quốc gia. 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Nxb 
Chính trị Quốc gia. 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), Nxb 
Chính trị Quốc gia. 
5. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Nxb Chính trị Quốc gia. 
6. Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (2003), 
Nxb Chính trị Quốc gia. 
* Nhận bài ngày 1/3/2011. Sửa chữa xong 2/4/2012. Duyệt đăng 5/4/2012. 

File đính kèm:

  • pdfvan_dung_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_cong_tac_can_bo_de_xay_dung.pdf