Vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin trong việc hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay

Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên

quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng,

tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.Trong từng thời kỳ

lịch sử, Đảng ta có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết chỉ đạo kịp thời đối với chính sách tôn

giáo, các quan điểm luôn được bổ sung kịp thời, nhất là trong xu thế hội nhập quốc tế

hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tôn giáo là điều rất cần

thiết.Vì thế, bài viết của tôi tập trung vào những vấn đề sau:

1. Sự cần thiết của việc phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng Lênin trong

việc hoàn thiện quan điểm và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay

2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về tôn giáo

3. Tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội

vùng đồng bào dân tộc có các tôn giáo và chống lại các âm mưu lợi dụng tôn giáo

của các thế lực thù địch.

pdf 10 trang kimcuc 16180
Bạn đang xem tài liệu "Vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin trong việc hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin trong việc hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay

Vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin trong việc hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA V.I. LÊNIN 
TRONG VIỆC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO 
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY 
Nguyễn Thị Lệ Hữu1 
Tóm tắt: Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên 
quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, 
tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.Trong từng thời kỳ 
lịch sử, Đảng ta có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết chỉ đạo kịp thời đối với chính sách tôn 
giáo, các quan điểm luôn được bổ sung kịp thời, nhất là trong xu thế hội nhập quốc tế 
hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tôn giáo là điều rất cần 
thiết.Vì thế, bài viết của tôi tập trung vào những vấn đề sau: 
 1. Sự cần thiết của việc phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng Lênin trong 
việc hoàn thiện quan điểm và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay 
 2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về tôn giáo 
 3. Tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội 
vùng đồng bào dân tộc có các tôn giáo và chống lại các âm mưu lợi dụng tôn giáo 
của các thế lực thù địch. 
1. Mở đầu 
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay. 
Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính 
trị, văn hoá, xã hội; đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân 
tộc, quốc gia, trong đó có Việt Nam. 
Trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn 
lấy tinh thần tự do tín ngưỡng, tôn giáo làm kim chỉ nam để đưa ra các chính sách tôn 
giáo phù hợp. 
Quan điểm của V.I. Lênin về tôn giáo đã cho chúng ta có một phương pháp 
nhìn nhận, đánh giá và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan điểm về tôn giáo phù 
hợp với từng giai đoạn lịch sử, nhất là trong hoàn cảnh nước ta hiện nay. 
Vận dụng một cách sáng tạo học thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo vào 
hoàn cảnh Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không đặt vấn đề tiêu vong tôn giáo, 
không cường điệu vô thần - hữu thần, chủ nghĩa duy vật - chủ nghĩa duy tâm. Người 
NGUYỄN THỊ LỆ HỮU 
 62 
nhấn mạnh tự do tín ngưỡng tôn giáo và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Người 
không mặc cảm, định kiến với tôn giáo, phân biệt tôn giáo chân chính với tôn giáo bị 
các thế lực chống cộng lợi dụng. Sự sáng tạo vĩ đại của Hồ Chí Minh là Người khẳng 
định một sự tương đồng giữa lý tưởng, khát vọng của các tôn giáo chân chính với 
khát vọng lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản là phấn đấu vì hạnh phúc của con người. 
Trong từng thời kỳ lịch sử, Đảng ta có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết chỉ đạo kịp 
thời đối với chính sách tôn giáo, các quan điểm luôn được bổ sung kịp thời. Tuy 
nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà 
nước ta áp dụng trong thực tiễn có lúc vẫn còn thiếu sót, bất cập. Do đó, việc tiếp tục 
phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin nói riêng cũng như chủ nghĩa 
Mác nói chung nhằm hoàn thiện chính sách, luật pháp tôn giáo và thường xuyên đổi 
mới nội dung và hình thức công tác tôn giáo vẫn là một vấn đề cấp thiết hiện nay. 
2. Sự cần thiết của việc phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng V.I. Lênin 
trong việc hoàn thiện quan điểm và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước 
ta hiện nay 
Trong quá trình nghiên cứu và vận dụng những luận điểm về tôn giáo của các 
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác, chúng ta cần phải nhận thức được tôn giáo mà các nhà 
kinh điển đề cập đến là tôn giáo của người phương Tây, do đó, có nhiều luận điểm 
của các ông về tôn giáo không hoàn toàn đúng với tôn giáo của người phương Đông; 
như: theo V.I. Lênin “Chủ nghĩa Mác bao giờ cũng coi tôn giáo và các giáo hội, tất 
cả các tổ chức tôn giáo hiện có, đều là những cơ quan của thế lực phản động tư sản, 
dùng để bảo vệ chế độ bóc lột và đầu độc giai cấp công nhân”2. Do đó, chúng ta đã 
sáng tạo vận dụng các quan điểm phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước ta. 
Phát triển sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác nói chung và của V.I. Lênin nói 
riêng trong điều kiện hiện nay của thế giới và Việt Nam, chúng ta cần đổi mới một số 
quan điểm và chính sách tôn giáo. Trước hết cần thấy rằng, trong thời kỳ C. Mác, Ph. 
Ăngghen và V.I. Lênin đề ra các quan điểm tôn giáo, chính quyền Nhà nước vẫn còn 
nằm trong tay giai cấp thống trị, tôn giáo còn là công cụ của giai cấp thống trị để nô 
dịch quần chúng. Tuy nhiên, từ năm 1945, chính quyền Nhà nước đã nằm trong tay 
nhân dân lao động, tôn giáo không còn là công cụ của giai cấp thống trị bóc lột nữa. 
Do vậy, chúng ta cần phải thay đổi thái độ với các tôn giáo cho phù hợp với tình hình 
mới. 
 Chúng ta không được đồng nhất chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa vô thần và coi 
tôn giáo là thế lực cản trở hoặc nằm ngoài chủ nghĩa xã hội. 
Nếu chủ nghĩa xã hội để lộ ý đồ lâu dài là “loại bỏ tôn giáo khỏi kiến trúc 
1 ThS, trường Đại học Nội vụ Hà Nội, Cơ sở miền Trung 
2 VI. Lênin (2006), Toàn tập, t. 45. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 524. 
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA V.I. LÊNIN TRONG VIỆC HOÀN THIỆN 
  63 
thượng tầng xã hội chủ nghĩa” như ở Liên Xô và nước ta trước đây, thì tôn giáo sẽ 
chống lại chủ nghĩa xã hội là điều đương nhiên. Nếu coi tôn giáo là một bộ phận của 
chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo sẽ đi theo chủ nghĩa xã hội. Suy cho cùng, mục đích của 
các tôn giáo và mục đích của chủ nghĩa xã hội tuy khác nhau ở chỗ một cái là ảo 
tưởng, một cái là hiện thực, nhưng có nhiều điểm tương đồng như đều đề cao và 
hướng tới cái thiện, cái đẹp, chống lại cái ác, cái xấu, tiêu cực, bất công. Ngoài ra, 
đồng bào có đạo ở nước ta cũng rất quan tâm đến việc đời. Do đó, với quan điểm “tôn 
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân” và với việc xóa bỏ mọi định kiến 
sai lầm trước đây về tôn giáo, chúng ta có thể đưa tôn giáo đi theo con đường xã hội 
chủ nghĩa, xóa bỏ mọi sự chống đối của một bộ phận tôn giáo đối với chủ nghĩa xã 
hội. 
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội không chỉ tôn trọng tự do tín ngưỡng, mà còn phải 
tôn trọng tự do không tín ngưỡng của nhân dân. Ở nước ta, tôn giáo chỉ chiếm một tỉ 
lệ nhỏ trong dân cư, số người không tôn giáo còn đông hơn số người có đạo nên phải 
xử lý phù hợp. Chúng ta đã để cho các tôn giáo được tự do tuyên truyền tôn giáo trên 
nhiều phương tiện thông tin đại chúng, như sách, báo,.. nhưng đồng thời vận dụng tư 
tưởng của V.I. Lênin, chúng ta cần dịch và viết những sách vô thần để phổ biến trong 
quần chúng. Việc xuất bản và công bố những tài liệu vô thần có tác dụng giúp cho 
đồng bào có đạo và không có đạo hiểu biết sâu sắc hơn về nguồn gốc và bản chất của 
tôn giáo, chống lại niềm tin mù quáng, giúp cho mọi người có khả năng lựa chọn tốt 
hơn việc theo hay không theo tôn giáo nào. 
3. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về tôn giáo 
Sau gần ba mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng 
và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có bước tiến đáng kể. Sự hoàn thiện hệ thống luật 
pháp về tôn giáo đã thể hiện tư tưởng của Mác và Lênin về việc tôn trọng tự do tín 
ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. 
Nhiều bộ luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng 
hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có tôn giáo. 
Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, 
hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn 
định chính trị - xã hội của đất nước. 
Tôn giáo là một thực tế đang tồn tại và ngày một phát triển, lan tỏa cả về chiều 
sâu lẫn chiều rộng trong thế giới ngày nay. Trong xu thế toàn cầu hoá có sự xuất hiện 
của các hiện tượng tưởng như trái ngược nhau, là xung đột văn minh, văn hoá đồng 
nhất với văn minh, văn hoá tín ngưỡng, tôn giáo không phải là ngoại lệ và vai trò 
của hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này đòi hỏi ngày một hoàn thiện và có tính 
thực tiễn hơn. 
NGUYỄN THỊ LỆ HỮU 
 64 
Thực hiện công cuộc đổi mới, đời sống kinh tế của Việt Nam ngày càng phát 
triển, đời sống tinh thần ngày càng được quan tâm, nên nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, 
tôn giáo đã thu hút đông đảo người dân tham gia. 
Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng 
hoà, đến Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là 
một trong những quyền cơ bản của công dân. Những quy định này thể hiện chính 
sách đúng đắn của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo, coi tự do tín ngưỡng, 
tôn giáo là quyền của mỗi cá nhân. “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, 
tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước 
pháp luật”. Nhà nước không những tôn trọng quyền tự do mà còn tạo mọi điều kiện 
thuận lợi cho việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách đúng đắn; 
đồng thời nghiêm trị các cá nhân, tổ chức nào xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn 
giáo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để làm hại đến lợi ích chung, trái 
với pháp luật của Nhà nước. 
Tiếp tục quan điểm này của V.I. Lênin, ngày 12/3/2003, tại Hội nghị lần thứ 
VII, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng ta ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về 
công tác tôn giáo, đã viết: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ 
phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã 
hội ở nước ta”. Từ khi có Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12-3-2003 của Trung ương 
Đảng về công tác tôn giáo, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành từng bước cụ thể hóa 
các quan điểm, giải pháp và các nhiệm vụ chủ yếu trong Nghị quyết của Đảng thành 
các quy định của pháp luật, các kế hoạch, giải pháp, cơ chế. Điều đó đã bảo đảm việc 
thực hiện và đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, tạo thành hành lang pháp lý 
cho các hoạt động tôn giáo, sự thống nhất trong việc giải quyết nhu cầu sinh hoạt tôn 
giáo trên phạm vi cả nước, tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác tôn giáo. 
Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì soạn thảo Nghị định số 22/2005/NĐ-CP hướng 
dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo trình Chính phủ và được 
ban hành ngày 01-3-2005. Sau đó, Chính phủ ban hành tiếp Chỉ thị số 01/2005/CT-
TTg ngày 4-2-2005 về một số công tác đối với đạo Tin Lành. Như vậy, Nghị quyết số 
25/NQ-TW cùng với các văn bản nói trên đã công khai, minh bạch đường lối của 
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta trong lĩnh vực tôn giáo; đồng thời là 
cơ sở để giải quyết các nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tôn giáo của 
nhân dân, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo, 
quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tôn giáo đang hoạt động ở Việt Nam. 
Mặt khác, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và sửa đổi 16 văn bản quy phạm 
pháp luật có những nội dung liên quan đến các lĩnh vực hoạt động tôn giáo như: về 
đất đai có Luật Đất đai sửa đổi năm 2003, Nghị quyết số 23/2003/QH XI về nhà đất 
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA V.I. LÊNIN TRONG VIỆC HOÀN THIỆN 
  65 
do Nhà nước quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-
1991; về xây dựng có Luật Xây dựng; về thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, có 
Luật Khiếu nại, tố cáo; về đăng ký hộ khẩu, có Luật Cư trú Hệ thống chính sách 
mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung có tác động tích cực trong việc bảo đảm nhu cầu 
sinh hoạt tôn giáo của nhân dân, cũng như quản lý các hoạt động tôn giáo theo pháp 
luật một cách cụ thể, rành mạch, nghiêm chỉnh. 
Như vậy, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã thể hiện đầy đủ quyền tự do tín 
ngưỡng, tôn giáo được nêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và 
Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị năm 1966. Ðiều này chứng tỏ 
những tiến bộ vượt bậc và những cố gắng rất lớn của Nhà nước Việt Nam trong việc 
tôn trọng và bảo đảm quyền con người. 
Trước đây chỉ có những văn bản được ban hành dưới hình thức Sắc lệnh, Nghị 
quyết, Nghị định thì trong thời gian gần đây đã có nhiều điều quy định trong Bộ luật, 
Luật, Pháp lệnh được ban hành. 
 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời đánh dấu một tiến triển mới trong việc 
hoàn thiện pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. 
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo gồm 6 chương, 41 điều đã xác định rõ quyền và 
nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc nội bộ 
của các tổ chức tôn giáo thì do các tôn giáo tự giải quyết theo Hiến chương, Ðiều lệ 
của các tổ chức tôn giáo. Ðồng thời xác định Nhà nước Việt Nam tôn trọng và thực 
hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Điều đó, cho chúng ta thấy 
rõ sự tương tác thích đáng đối với luật pháp đương đại vì từ trước đến nay chưa có 
văn bản pháp luật nào liên quan tới tôn giáo đề cập đến yếu tố quan hệ quốc tế này. 
Ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 (có hiệu lực từ 
01/01/2014), gồm 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp 
năm 1992), có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; bố cục hợp lý, 
chặt chẽ và khoa học, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật cơ 
bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính ổn định lâu dài. Hiến pháp 2013, quy định 
bao quát các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con 
người. Theo đó, điểm đổi mới quan trọng của Hiến pháp 2013 là thể hiện quan điểm 
nhất quán về vấn đề quyền và nghĩa vụ con người. 
Tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: "1. Mọi người có quyền tự 
do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình 
đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn 
giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín 
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật".1 
1 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Hồng Đức. 
NGUYỄN THỊ LỆ HỮU 
 66 
Như vậy, so với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 2013 là một bước tiến 
quan trọng, một sự kế thừa và phát triển trong thời kỳ đất nước ta "Đổi mới và hội 
nhập sâu" với thế giới. Theo đó, về từ ngữ "công dân" được thay bằng "Mọi người", 
thể hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là một quyền cơ bản của công 
dân như các Hiến pháp trước đây ghi nhận, mà quan trọng hơn quyền đó còn là một 
trong những quyền cơ bản của con người. Bởi vì, quyền tin theo một tín ngưỡng hoặc 
một tôn giáo nào đó không lệ thuộc vào người đó có quyền công dân hay không, tin 
theo tôn giáo là một hiện tượng thuộc về tư tưởng, tâm linh. Hơn nữa, xác định quyền 
tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một phạm trù thuộc về quyền con người, đã được Liên 
hiệp quốc xác định trong Tuyên ngôn về các quyền dân sự, chính trị 1946. 
Tóm lại, sự phát triển của Pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian qua 
cho thấy, hệ thống pháp luật Việt Nam về tôn giáo có những bước phát triển đáng kể. 
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống 
pháp luật liên quan đến tôn giáo là điều rất cần thiết, việc hoàn thiện pháp luật liên 
quan đến tôn giáo khẳng định vai trò của Nhà nước là luôn tạo điều kiện tốt nhất cho 
các tôn giáo thực hành đức tin của mình không bị hạn chế, tuy nhiên phải nằm trong 
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. 
Trong xu thế hiện nay, với sự biến đổi liên tục của đời sống xã hội, hệ thống 
pháp luật nói chung và pháp luật nói riêng về tín ngưỡng, tôn giáo cần được sự quan 
tâm của các nhà làm luật, các nhà quản lý cần có tầm nhìn trong việc hoạch định 
chính sách và những dự đoán chiều hướng phát triển của các tôn giáo trong bối cảnh 
toàn cầu hoá hiện nay để từ đó có thể đưa ra các quy định phù hợp với hoàn cảnh, đặc 
trưng của mỗi quốc gia, dân tộc nhưng không trái với Công ước quốc tế về quyền con 
người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. 
Trong luật pháp về tôn giáo ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều điểm bất cập, vẫn 
còn để xảy ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong các tôn giáo, như tham nhũng, mua bán 
chức sắc và một số biểu hiện tiêu cực khác. Do vậy, các cơ quan nhà nước cần phải 
cùng với các tổ chức tôn giáo tiến hành điều tra chấn chỉnh kịp thời, đảm bảo cho mọi 
tổ chức tôn giáo đều giữ được sự trong sạch, mọi chức sắc tôn giáo đều thực hiện 
được nếp sống “đẹp đạo, tốt đời”. 
Hiện nay, ở nước ta vẫn còn nhiều hoạt động tín ngưỡng tôn giáo như cúng tế, 
tang ma gây mất trật tự công cộng. Do đó, Nhà nước cần ban hành những quy định 
luật pháp đảm bảo mọi hoạt động tín ngưỡng tôn giáo diễn ra đúng pháp luật, không 
gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân. 
4. Tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã 
hội vùng đồng bào dân tộc có các tôn giáo và chống lại các âm mưu lợi dụng tôn 
giáo của các thế lực thù địch 
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA V.I. LÊNIN TRONG VIỆC HOÀN THIỆN 
  67 
Lênin cho rằng, đối với Nhà nước, tôn giáo là công việc tư nhân, nhưng đối với 
Đảng Cộng sản, tôn giáo không phải thuần túy là công việc tư nhân; việc giải phóng 
con người khỏi áp bức tinh thần của tôn giáo là trách nhiệm của Đảng. Đảng phải có 
trách nhiệm đối với đồng bào có đạo, phải giáo dục, giải phóng họ, không được có 
thái độ thờ ơ để tôn giáo áp bức quần chúng, lôi kéo quần chúng chống lại chế độ xã 
hội chủ nghĩa. 
Trong thời kỳ trước đổi mới, do nhận thức chưa thật khách quan, hiểu không 
đầy đủ, có khi hiểu sai luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nên việc giải quyết vấn 
đề tôn giáo ở nước ta cũng chưa được phù hợp. 
Trong thời đại ngày nay, tôn giáo thế giới không chỉ gắn với chính trị mà còn 
gắn với vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo quốc tế và đối mặt với âm mưu 
lợi dụng tôn giáo trong chiến lược diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Gần 
đây Mỹ và các nước phương Tây đã và đang tìm mọi cách thông qua các đạo luật, 
nghị quyết nhằm lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền và quốc tế hóa vấn đề tôn giáo 
để can thiệp, chống phá Việt Nam như: Ngày 31/3/2003 Bộ ngoại giao Mỹ đã công 
bố “Báo cáo về tình hình nhân quyền” của gần 200 quốc gia, trong đó có phần vu cáo 
Việt Nam vi phạm nhân quyền. Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, trước 
sự phát triển và biến động của tình hình tôn giáo thế giới trong thời kỳ hội nhập đã tác 
động sâu sắc toàn diện, chi phối đến tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam buộc 
chúng ta phải tiếp cận vấn đề tôn giáo tín ngưỡng trên một tư duy mới.1 
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I. Lênin về tôn giáo trong việc 
tăng cường đầu tư, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng 
bào các tôn giáo. Nền kinh tế nước ta kể từ khi đổi mới đã có bước tiến đáng kể, kinh 
tế thị trường ngày càng phát triển mạnh mẽ theo nhiều chiều hướng khác nhau. Ðiều 
đó đã đặt ra cho các cơ quan nhà nước về quản lý kinh tế phải không ngừng đổi mới 
và hoàn thiện các công cụ, chính sách quản lý và điều tiết nền kinh tế. Đảng và Nhà 
nước ta đã tăng cường đầu tư thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội 
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh” đặc biệt là ở 
vùng đồng bào dân tộc có các tôn giáo. 
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là khi có Nghị quyết 25/NQ-TW cũng như 
Chương trình hành động của Chính phủ, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, việc thực 
hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và chương trình phát triển kinh tế - xã hội, 
nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo 
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tôn giáo. Nghị quyết số 25 xem: “Mục 
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh là điểm tương đồng để 
gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung”. Từ nhiệm vụ tổng thể trên, các 
1 Hoàng Minh Đô (2013), “Bức chân dung tôn giáo tín ngưỡng hôm nay”, Tạp chí khoa học xã hội 
Miền Trung, số 3. 
NGUYỄN THỊ LỆ HỮU 
 68 
chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát 
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, các khu vực như: Tây Nguyên, 
miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long, được xác định khá cụ thể trong việc 
phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, đời sống tín ngưỡng, tôn 
giáo của đồng bào trên nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn 
giáo của công dân. 
Các bộ, ngành Trung ương trong quá trình hướng dẫn địa phương xây dựng 
định hướng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội của 
các vùng, các địa phương đều đã gắn với kế hoạch chung của cả nước về chính sách 
hỗ trợ đất ở và đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Nam 
Bộ; về công tác định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số; về phát triển văn 
hóa, y tế, giáo dục trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào các 
tôn giáo, các xã, bản nghèo, Trên cơ sở đó, tham mưu cho Chính phủ cân đối 
nguồn lực bảo đảm thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình 
Xóa đói giảm nghèo, Chăm sóc sức khỏe, Phát triển giáo dục, Văn hóa thông 
tinCác chương trình này được chú trọng và ưu tiên đã tạo điều kiện tốt cho việc bố 
trí nguồn lực ở các xã, thôn, bản có đông đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo. Quá 
trình triển khai thực hiện chính sách tôn giáo trong các vùng, miền trọng điểm như 
Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ đã mang lại những kết quả ban đầu quan trọng, 
tạo lập được niềm tin của đại đa số đồng bào dân tộc nói chung, đồng bào theo đạo 
nói riêng đối với Đảng và Nhà nước. Điều này đã góp phần giữ vững ổn định tình 
hình xã hội, an ninh chính trị ở các vùng; đồng thời; tín ngưỡng, tôn giáo được bảo 
đảm, đoàn kết dân tộc được củng cố. 
V.I. Lênin căn dặn Đảng và Nhà nước vô sản không được tuyên chiến với tôn 
giáo, đoàn kết tập hợp quần chúng, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo, không xúc 
phạm, không tuyên chiến với tôn giáo, vạch rõ việc lợi dụng tôn giáo của giai cấp 
thống trị và các thế lực thù địch, giáo dục vô thần, từng bước giải phóng quần chúng 
ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo. 
Vận dụng quan điểm này, Đảng và Nhà nước ta đã thấy được việc chống sự lợi 
dụng tôn giáo vào mục đích chính trị vẫn rất cần thiết, điều đó được ghi trong chỉ thị 
37/BCT cũng như trong Nghị quyết 26/1999/NĐCP và trong Cương lĩnh xây dựng 
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển 2011) có ghi: 
“Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, 
tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối 
với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn 
giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”1 
Tuy nhiên, cần có sự cảm thông, khoan dung, độ lượng vì do thiếu hiểu biết mà 
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXb Chính trị quốc gia – 
Sự thật 
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA V.I. LÊNIN TRONG VIỆC HOÀN THIỆN 
  69 
các tín đồ bị kẻ xấu lợi dụng. Cần giúp họ hiểu rõ chính sách tôn giáo của Đảng và 
Nhà nước ta trước sau như một, đó cũng chính là bảo vệ sự trong sáng của tôn giáo 
mà họ tin theo. 
Bản chất của tôn giáo là mong ước có một xã hội không có áp bức, bất công, 
mọi người đều sống bình đẳng... Mong ước đó, cơ bản phù hợp với mục tiêu xây 
dựng một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có một sự khác biệt là cách thức, phương thức để có 
một xã hội tốt đẹp là hoàn toàn khác nhau. 
Trong điều kiện đất nước có nhiều tôn giáo, đa dạng về tổ chức, khác nhau về 
số lượng, việc đối xử bình đẳng đối với các tôn giáo là việc nên làm, song cần kiên trì 
giáo dục khi họ bị lừa dối, mê hoặc, làm những điều vi phạm pháp luật, phản văn hoá, 
buông lỏng quản lý dẫn đến hiện tượng tiêu cực, mê hoặc quần chúng, bị kẻ xấu lợi 
dụng vào mục đích chính trị, chống lại Tổ quốc 
Xuất phát từ bản chất văn hóa của dân tộc, từ chính sách đại đoàn kết toàn dân, 
chúng ta đã có những chính sách đúng đắn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Giờ đây, 
trong hoàn cảnh mới của yêu cầu phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy nhanh sự 
nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta sẽ tổng kết tình hình và đề ra 
nhiều chủ trương, giải pháp mới để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, làm thất bại 
hoàn toàn mọi âm mưu đen tối của các thế lực phản động. 
5. Kết luận 
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan 
điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn 
giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. 
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. 
Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách 
phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng. 
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, 
hoạt động tôn giáo trong cả nước khá sôi động; đó là kết quả của sự vận dụng đúng 
đắn, sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta đối với các quan điểm về tôn giáo của Lênin 
vào Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002), Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn 
giáo của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
NGUYỄN THỊ LỆ HỮU 
 70 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XI, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật. 
[3] Hoàng Minh Đô (2013), “Bức chân dung tôn giáo tín ngưỡng hôm nay”, Tạp chí 
khoa học xã hội Miền Trung, số 3. 
[4] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Hồng 
Đức. 
[5] Hồ Trọng Hoài, Nguyễn Thị Nga (2006), Quan điểm của C. Mác - Ph.Ăngghen - 
V.I. Lênin - Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[6] VI. Lênin (2006), Toàn tập, t. 45. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 524. 
Title: USAGE OF V.I. LENIN’S THOUGHT IN THE IMPROVEMENT 
OF THE RELIGIOUS POLICY OF THE VIETNAMESE PARTY, STATE 
 NGUYEN THI LE HUU 
 Ha Noi University of Home Affairs 
Abstract: The religious policy of the Party and State of Vietnam was built on the 
basic viewpoint of Marxist-Leninist philosophy and Ho Chi Minh’s Thought 
regarding belief, religion as well as the characteristic of belief and religion in 
Vietnam. In each historical period, our Party has taken resolutions and directives to 
guide religious policy; the addtional viewpoints are always timely; the improvement 
of the religious policy is very essential, especially in the international integration 
trend. Thus, my article focus on the following issues: 
1. The necessity of development and creative applying of V.I. Lenin’s thought in 
the improvement of the religious viewpoint and policy of the Vietnamese Party, State. 
2. To improve the religious justice system. 
3. To strengthen the investment to carry out many programs of the socio-
economic development in ethno-religious groups as well as to fight against the 
religious scheme of the enemy force. 

File đính kèm:

  • pdfvan_dung_tu_tuong_cua_v_i_lenin_trong_viec_hoan_thien_chinh.pdf