Vận dụng phép biện chứng duy vật trong xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta

Do hoàn cảnh địa lý và lịch sử, trong suốt quá trình tồn tại Việt Nam

luôn bị các thế lực ngoại bang hùng mạnh nhòm ngó và xâm lược. Vì vậy, đã

hình thành nên ý thức cũng như sự quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của

nhân dân ta. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, từng diễn ra nhiều cuộc đấu

tranh liên tục và quyết liệt để gìn giữ những tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

Từ thực tiễn chống giặc ngoại xâm ấy, ông cha ta đã để lại nhiều bài học kinh

nghiệm phong phú và quý báu cho các thế hệ mai sau. Ngày nay, kế thừa và

phát huy truyền thống quý báu ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định:

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến

lược của cách mạng nước ta.

pdf 5 trang kimcuc 5160
Bạn đang xem tài liệu "Vận dụng phép biện chứng duy vật trong xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng phép biện chứng duy vật trong xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta

Vận dụng phép biện chứng duy vật trong xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 54 
VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG XÂY DỰNG VÀ TỔ 
CHỨC THỰC HIỆN ĐƢỜNG LỐI ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA ĐẢNG TA 
CN. Nguyễn Thị Tiến 
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt: Do hoàn cảnh địa lý và lịch sử, trong suốt quá trình tồn tại Việt Nam 
luôn bị các thế lực ngoại bang hùng mạnh nhòm ngó và xâm lược. Vì vậy, đã 
hình thành nên ý thức cũng như sự quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của 
nhân dân ta. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, từng diễn ra nhiều cuộc đấu 
tranh liên tục và quyết liệt để gìn giữ những tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. 
Từ thực tiễn chống giặc ngoại xâm ấy, ông cha ta đã để lại nhiều bài học kinh 
nghiệm phong phú và quý báu cho các thế hệ mai sau. Ngày nay, kế thừa và 
phát huy truyền thống quý báu ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định: 
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến 
lược của cách mạng nước ta. 
Từ khoá: Truyền thống, chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ quốc gia. 
1. Từ ý thức đến quyết tâm giành và 
giữ chủ quyền lãnh thổ 
 Có thể nói, do những điều kiện về 
địa lý tự nhiên, nằm ở vị trí chiến lược 
nên lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và 
giữ nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử 
của quá trình chống thiên tai và giặc 
ngoại xâm. Lịch sử đã không ghi lại 
những điều kiện cụ thể về Nhà nước Văn 
Lang thời vua Hùng nhưng suốt bốn 
ngàn năm, niềm tự hào về Nhà nước ấy 
đã ăn sâu vào tâm khảm của dân tộc ta 
từ đời này qua đời khác. Sự ra đời của 
một Nhà nước là sự khẳng định chủ 
quyền trên một lãnh thổ có sự riêng biệt 
“cõi bờ núi sông”, của phong tục, tập 
quán, của một nền văn hóa đã định hình. 
Trong thời kỳ phong kiến, Việt 
Nam là một quốc gia luôn là đối tượng 
bị các nước lớn nhòm ngó, lấn chiếm, 
xâm lược. Đứng trước những kẻ thù to 
lớn, hung bạo trên thế giới trong các thời 
đại khác nhau cha ông ta đã xác định 
phải huy động sức mạnh toàn dân tộc để 
xây dựng đất nước, để chống giặc ngoại 
xâm. Điều đó đã vun đắp ngày càng cao 
ý thức về chủ quyền dân tộc trong từng 
người dân Việt, với suy nghĩ “nước mất 
thì nhà tan” và hình thành quyết tâm 
đánh giặc giữ nước của mọi tầng lớp 
nhân dân, bất kể già, trẻ, gái, trai. Trên 
thế giới này có dân tộc nào như dân tộc 
Việt Nam, trong mấy ngàn năm lịch sử 
đã có hơn 1.000 năm phải trực tiếp cầm 
vũ khí chống ngoại xâm. 
Một dân tộc sinh ra và phát triển 
trong cuộc vật lộn cam go, quyết liệt 
mang tính sinh tồn, trải nhiều biến cố to 
lớn như vậy, cho nên mọi hoạt động vật 
chất, tinh thần của dân tộc ta luôn phải 
tuân theo quy luật xuyên suốt: dựng 
nước đi đôi với giữ nước. Điều đó khiến 
cho nhân dân Việt Nam sớm có lòng yêu 
nước, có ý thức về chủ quyền dân tộc 
một cách sâu sắc hơn. 
Hồ Chí Minh đã nói “Dân ta có 
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là 
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa tới 
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì 
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 55 
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó 
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, 
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ 
cướp nước. Lịch sử ta đã có nhiều cuộc 
kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần 
yêu nước của dân ta” 
Lịch sử là một minh chứng hùng 
hồn nhất cho lời khẳng định trên. Từ thế 
kỷ thứ III TCN, dân tộc ta đã đánh tan 
cuộc xâm lược đầu tiên của bọn phong 
kiến phương Bắc do nhà Tần tiến hành. 
Từ năm 179 TCN đến năm 938, nước ta 
tiếp tục nằm dưới sự đô hộ của phương 
Bắc. Đây là thời kỳ đầy máu và nước 
mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức 
mạnh quật cường, sự vươn lên thần kỳ 
của dân tộc ta và kết thúc với chiến 
thắng Bạch Đằng oanh liệt. 
Tiếp sau thời kỳ này là hàng loạt 
các chiến thắng vang dội khác: nhà Trần 
ba lần đánh bại quân Nguyên – Mông, 
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã đánh bại 
quân Minh, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh 
bại quân Thanh Rồi đến những thắng 
lợi vang dội của các cuộc kháng chiến 
chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là 
chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, cuộc 
kháng chiến chống đế quốc Mỹ kéo dài 
21 năm kết thúc bằng một chiến thắng 
lừng lẫy - Đại thắng mùa Xuân năm 
1975. Trong những cuộc chiến tranh tàn 
khốc đó, nếu không có tinh thần yêu 
nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc, ý chí 
quyết tâm giành và giữ chủ quyền dân 
tộc thì làm sao một dân tộc nhỏ yếu như 
chúng ta có thể làm nên những chiến 
thắng vang dội, đánh thắng được những 
kẻ thù mạnh nhất thế giới. 
Ý chí quyết tâm giành và giữ chủ 
quyền dân tộc ở mỗi người dân Việt nam 
đã được thể hiện ở tinh thần dám xả thân 
vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích của quốc 
gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của 
bản thân mình, đấu tranh không biết mệt 
mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước, 
giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết 
bao người con của dân tộc đã tự nguyện 
hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho 
đất nước và đã anh dũng hy sinh nơi 
chiến trường. Biết bao nhiêu người mẹ, 
người vợ đã tiễn chồng, tiễn con ra mặt 
trận mà không bao giờ còn được đón họ 
trở về. Đó là sự hy sinh to lớn được thúc 
đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn, đó 
là sự quyết tâm cao độ của toàn thể của 
dân tộc Việt Nam. Bấy nhiêu thôi cũng 
đã quá đủ để có thể thấy rằng, tư tưởng 
yêu nước, ý chí quyết tâm giành và giữ 
chủ quyền dân tộc và nó chính là kim 
chỉ nam cho hành động, đem lại một sức 
mạnh to lớn, thúc đẩy dân tộc ta tiến lên. 
Nhân dân ta đã từng nếm trải và 
không bao giờ quên được muôn vàn điều 
cay đắng trong hoàn cảnh nước mất nhà 
tan. Chính những điều cay đắng ấy đã 
thôi thúc nhân dân ta kiên cường chiến 
đấu đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ chủ 
quyền đất nước. Chính những điều cay 
đắng ấy đã tạo ra một quyết tâm “ăn thịt, 
nằm da, nuốt gan, uống máu quân thù” 
“dẫu trăm thây ta phơi ngoài nội cỏ, 
nghìn xác ta bọc trong da ngựa, cũng 
nguyện xin làm”. Tinh thần và ý chí đó 
đã tạo nên một sức mạnh vô địch đánh 
tan mọi kẻ thù xâm lược. Tinh thần và ý 
chí ấy không những tạo ra thái độ kiên 
cường bất khuất mà còn rèn đúc nên 
những con người “rất mưu trí và sáng 
tạo trong chiến đấu và chiến thắng”, liên 
tiếp gây cho quân địch hết bất ngờ này 
đến bất ngờ khác. Lịch sử dân tộc ta đã 
có nhiều minh chứng cụ thể và đã khẳng 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 56 
định rằng: nếu chúng ta kiên quyết bảo 
vệ từng tấc đất của Tổ quốc mình, thì dù 
cho kẻ thù có nguy hiểm, hùng mạnh đi 
chăng nữa cũng không thể thực hiện 
được những âm mưu xâm lược và đồng 
hóa được dân tộc ta. 
Hồ Chí Minh khẳng định "Nước 
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là 
một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, 
nhưng chân lý ấy không bao giờ thay 
đổi" câu hỏi ấy của Người đã cô đọng lại 
một cách đầy đủ về ý thức và quyết tâm 
gìn giữ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc 
ta từ bao đời nay. 
2. Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân 
tộc ta trong giai đoạn hiện nay 
Ngày nay, trong một thế giới đang 
diễn ra mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa, 
đan xen nhiều mối quan hệ phức tạp, 
vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, đấu tranh 
gay gắt giữa các nước, giữa các nền 
chính trị, kinh tế và văn hóa khác nhau, 
sự hưng thịnh hay tồn vong của mỗi 
quốc gia, dân tộc không còn chỉ là 
chuyện riêng của từng quốc gia hay dân 
tộc. Điều đó đã tạo ra cả thời cơ và thách 
thức với mọi quốc gia, nhất là với các 
nước nhỏ trong việc bảo vệ lợi ích, bảo 
vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn 
vẹn lãnh thổ của đất nước. Trong bối 
cảnh đó, đặc biệt là trước diễn biến phức 
tạp của tình hình khu vực và trên thế 
giới trong những năm gần đây, hơn bao 
giờ hết, đòi hỏi đất nước ta phải phát 
triển nhanh, bền vững, nâng cao sức 
mạnh tổng hợp, nội lực của đất nước về 
mọi mặt; đồng thời phải luôn nêu cao 
cảnh giác, kiên quyết bảo vệ vững chắc 
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn 
lãnh thổ của Tổ quốc trong bất cứ hoàn 
cảnh nào. Đây là nghĩa vụ thiêng liêng 
và cao cả của chúng ta hôm nay trước tổ 
tiên và các thế hệ cha anh đi trước, như 
lời Bác Hồ dạy: “Các Vua Hùng đã có 
công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng 
nhau giữ lấy nước” và trước các thế hệ 
con cháu muôn đời sau. 
Trong bối cảnh trên, việc bảo vệ và 
phát huy những giá trị truyền thống của 
các quốc gia có chủ quyền trên mọi lĩnh 
vực, không chỉ về kinh tế, chính trị, mà 
còn cả về văn hóa, tư tưởng, xã hội, 
chống lại mọi âm mưu toan áp đặt, đe 
dọa độc lập chủ quyền quốc gia của các 
thế lực đế quốc là một vấn đề bức xúc, 
gay go và phức tạp đối với mỗi quốc gia 
dân tộc. Muốn bảo vệ chủ quyền dân 
tộc, các nước phải phát huy cao nhất sức 
mạnh tổng hợp của đất nước; tích cực và 
chủ động tham gia vào các thiết chế 
chính trị, kinh tế quốc tế; gắn với cuộc 
đấu tranh chống mọi sự áp đặt, nô dịch, 
và lệ thuộc của các nước phát triển, của 
chủ nghĩa đế quốc. Bảo vệ chủ quyền 
quốc gia phải gắn với bảo vệ độc lập dân 
tộc, xây dựng quốc gia giàu mạnh; gắn 
với việc xây dựng và đấu tranh thực hiện 
các thiết chế chính trị, kinh tế quốc tế 
bình đẳng, công bằng, dân chủ trong giai 
đoạn hiện nay. 
Trải qua lịch sử đấu tranh lâu dài 
chống ngoại xâm với bao gian khổ, hy 
sinh, dân tộc Việt Nam mới giành được 
độc lập. Vì vậy, nhân dân Việt Nam 
hơn ai hết thấu hiểu được giá trị của 
độc lập dân tộc và bằng mọi nỗ lực cao 
nhất của mình luôn phấn dấu vì mục 
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã 
hội. Đảng và Nhà nước Việt Nam 
khẳng định rõ độc lập, chủ quyền là 
tuyệt đối, không thể chia sẻ, đồng thời 
kiên định quyền độc lập, tự chủ của 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 57 
quốc gia trong giải quyết các vấn đề 
đối nội và đối ngoại. 
Trong Cương lĩnh xây dựng đất 
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) 
Đảng chỉ rõ mục tiêu và nhiệm vụ: “Bảo 
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống 
nhất, toàn vẹn của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, 
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ 
nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định chính 
trị, đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự, an 
toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất 
bại mọi âm mưu và hành động chống phá 
của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp 
cách mạng của nhân dân ta” 
Quan điểm về độc lập dân tộc, 
chủ quyền quốc gia, được Đảng ta 
khẳng định nhiều lần trong các Cương 
lĩnh, Nghĩ quyết của Đảng. Điều đó 
cho thấy sự cần thiết của vấn đề đối 
với sự nghiệp cách mạng của toàn 
Đảng, toàn dân, đối với sự phát triển 
kinh tế - xã hội của đất nước 
Ngày nay, tiếp nối truyền thống 
của cha ông, kiên quyết bảo vệ chủ 
quyền đất nước, chúng ta đã chiến đấu 
kiên cường và chiến thắng oanh liệt 
những đội quân xâm lược hung hãn và 
hùng mạnh nhất thế kỷ. Chúng ta quyết 
không cho bất cứ một kẻ thù nào lấn 
chiếm biên cương hoặc xâm phạm bất 
cứ một phần nhỏ nào thuộc phạm vi 
vùng đất, vùng trời, vùng biển và hải 
đảo thân yêu của Tổ quốc. Chúng ta tôn 
trọng chủ quyền của nước ta đồng thời 
cũng tôn trọng chủ quyền của các nước 
khác. Chúng ta phản đối mọi âm mưu và 
hành động của những thế lực đen tối 
hòng thôn tính lãnh thổ và xâm phạm 
chủ quyền của các quốc gia trên thế giới. 
3. Kết luận 
Có thể nói trải qua hơn bốn nghìn 
năm dựng nước và giữ nước của bao thế 
hệ người Việt Nam, vật lộn với biết bao 
thiên tai và giặc ngoại xâm để có thể 
trường tồn. Cho nên trong mỗi một 
người Việt đều thấm nhuần tư tưởng 
“dựng nước thì phải đi đôi với giữ 
nước”. Trong tâm khảm của mỗi người 
dân chúng ta đều thấu hiểu được cái giá 
của độc lập tự do đến nỗi nó như đúc 
thành một chân lý vững chắc “Không có 
gì quý hơn độc lập tự do”. Chính vì như 
vậy, trải qua biết bao nhiêu là thăng 
trầm, biến cố của lịch sử, biết bao nhiêu 
cuộc đấu tranh, cuộc khởi nghĩa rồi cuộc 
kháng chiến đã nổ ra để giữ cho được 
từng miếng đất, từng ngọn cây của Tổ 
quốc. Và rồi cũng đã biết bao lớp người 
đã ra đi, đã hy sinh cho nền độc lập của 
nước nhà để đổi lấy những tiếng vô cùng 
quý giá: độc lập cho dân tộc, tự do cho 
đồng bào. Từ việc ý thức đến quyết tâm 
gìn giữ và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của 
dân tôc, từ bao đời nay mỗi một người 
dân đất Việt đều luôn luôn trân trọng 
những gì mình được hưởng ngày hôm 
nay. Kế thừa và phát huy những giá trị 
tốt đẹp mà cha ông đã cất công vun đắp, 
gìn giữ cho nên chúng ta càng quyết tâm 
bảo vệ vững chắc từng bầu trời, tấc đất 
của Tổ quốc. 
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu 
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vấn đề 
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc 
dù mang một hình thức khác nhưng có 
thể sẽ phức tạp hơn. Bởi trong đó là một 
cuộc chiến trong các lĩnh vực kinh tế, 
chính trị, văn hóa – xã hội, quốc phòng – 
an ninh. Do vậy, Đảng, Nhà nước và 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 58 
nhân dân ta luôn quyết tâm: Bảo vệ và 
xây dựng Tổ quốc xã quốc xã chủ nghĩa 
Việt Nam ngày một giàu mạnh. Có như 
vậy, chúng ta mới cảm thấy không hổ 
thẹn với thế hệ cha ông đi trước và tự tin 
viết tiếp vào những trang sử hào hùng 
của dân tộc Việt Nam. Hơn bao giờ hết 
dòng máu Lạc Hồng đang cuồn cuộn 
chảy trong huyết quản mỗi người con 
đất Việt sẽ trở thành một sức mạnh để 
toàn dân tộc ta vững bước tiến lên và 
cũng xứng đáng với bao thế hệ tiền nhân 
đã dày công khai phá, gìn giữ, vun đắp 
nên đất nước này. Kế thừa và phát huy 
truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên 
cường của dân tộc, những bài học giữ 
nước của cha ông, bằng sự nỗ lực phấn 
đấu không ngừng phát triển kinh tế - xã 
hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự 
chủ, nâng cao sức mạnh tổng hợp và uy 
tín quốc tế của đất nước, phát huy sức 
mạnh đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với 
sức mạnh quốc tế, lấy lợi ích quốc gia, 
dân tộc làm mục tiêu cao nhất, nhân dân 
ta nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn, 
thử thách, giữ vững môi trường hòa 
bình, ổn định để phát triển đất nước, bảo 
vệ vững chắc non sông gấm vóc do cha 
ông để lại để trao truyền cho muôn đời 
con cháu mai sau. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, 
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] Đại Việt sử ký toàn thư, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tập 2. 
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 6. 
[4] Nguyễn Mạnh Tường. 2009. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam từ truyền thống đến 
hiện đại, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfvan_dung_phep_bien_chung_duy_vat_trong_xay_dung_va_to_chuc_t.pdf