Vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Trong giai đoạn đầu của chế độ

Cộng sản nguyên thủy, năng suất lao

động rất thấp, chưa có sản phẩm thặng

dư. Đến cuối chế độ Cộng sản nguyên

thủy và đầu chế độ Chiếm hữu nô lệ, khi

sức sản xuất của lao động tăng lên trong

các ngành chăn nuôi gia súc, trồng trọt,

thủ công nghiệp gia đình, thì khi đó con

người có khả năng sản xuất được nhiều

sản phẩm hơn số sản phẩm cần thiết cho

sự duy trì sức lao động của họ, nghĩa là

xuất hiện sản phẩm thặng dư.

Lịch sử phát triển của nền sản xuất

xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ

chức kinh tế khác nhau, đó là sản xuất tự

cấp tự túc và sản xuất hàng hóa. Trong

kinh tế tự cấp tự túc, sản phẩm làm ra

không được trao đổi mua bán nên không

mang hình thái giá trị, do đó sản phẩm

thặng dư chỉ biểu hiện dưới hình thái

hiện vật. Khi kinh tế hàng hóa phát triển

thì sản phẩm thặng dư mang hình thái

hàng hóa, cũng có hai thuộc tính giá trị

sử dụng và giá trị. Giá trị của sản phẩm

thặng dư là giá trị thặng dư (giá trị mới

dôi ra ngoài hao phí sức lao động do

công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư

bản chiếm không; hoặc giá trị thặng dư

là một bộ phận giá trị mới do lao động

của người công nhân làm thuê tạo ra

ngoài giá trị sức lao động, là kết quả lao

động không công của người công nhân

bị nhà tư bản chiếm đoạt).

pdf 5 trang kimcuc 5020
Bạn đang xem tài liệu "Vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 28 
VẬN DỤNG CÁC PHƢƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƢ 
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
ThS. Võ Xuân Hội 
Khoa Lý luận Chính Trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt: Giới thiệu sơ lược lịch sử ra đời của giá trị thặng dư, sự cần thiết phải vận 
dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ 
nghĩa ở nước ta hiện nay. 
Từ khóa: Giá trị thặng dư, quy luật sản xuất, học thuyết, vận dụng các phương pháp 
sản xuất. 
1. Sơ lƣợc quá trình ra đời của giá trị 
thặng dƣ, sự cần thiết phải vận dụng 
các phƣơng pháp sản xuất giá trị 
thặng dƣ trong quá trình xây dựng 
chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam 
hiện nay 
Trong giai đoạn đầu của chế độ 
Cộng sản nguyên thủy, năng suất lao 
động rất thấp, chưa có sản phẩm thặng 
dư. Đến cuối chế độ Cộng sản nguyên 
thủy và đầu chế độ Chiếm hữu nô lệ, khi 
sức sản xuất của lao động tăng lên trong 
các ngành chăn nuôi gia súc, trồng trọt, 
thủ công nghiệp gia đình, thì khi đó con 
người có khả năng sản xuất được nhiều 
sản phẩm hơn số sản phẩm cần thiết cho 
sự duy trì sức lao động của họ, nghĩa là 
xuất hiện sản phẩm thặng dư. 
Lịch sử phát triển của nền sản xuất 
xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ 
chức kinh tế khác nhau, đó là sản xuất tự 
cấp tự túc và sản xuất hàng hóa. Trong 
kinh tế tự cấp tự túc, sản phẩm làm ra 
không được trao đổi mua bán nên không 
mang hình thái giá trị, do đó sản phẩm 
thặng dư chỉ biểu hiện dưới hình thái 
hiện vật. Khi kinh tế hàng hóa phát triển 
thì sản phẩm thặng dư mang hình thái 
hàng hóa, cũng có hai thuộc tính giá trị 
sử dụng và giá trị. Giá trị của sản phẩm 
thặng dư là giá trị thặng dư (giá trị mới 
dôi ra ngoài hao phí sức lao động do 
công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư 
bản chiếm không; hoặc giá trị thặng dư 
là một bộ phận giá trị mới do lao động 
của người công nhân làm thuê tạo ra 
ngoài giá trị sức lao động, là kết quả lao 
động không công của người công nhân 
bị nhà tư bản chiếm đoạt). 
Ngày lao động của người lao động 
được chia làm hai phần, phần thứ nhất là 
thời gian lao động cần thiết (tất yếu), sản 
xuất ra sản phẩm cần thiết để tái sản xuất 
ra sức lao động của người công nhân. 
Phần ngày lao động thứ hai là thời gian 
lao động thặng dư, sản xuất ra sản phẩm 
thặng dư cho xã hội, đây là cơ sở của sự 
tích lũy, là nguồn gốc của sự giàu có. 
Trong chủ nghĩa tư bản (CNTB), thời 
gian lao động thặng dư tạo ra giá trị 
thặng dư cho nhà tư bản. 
Ở nước ta, trước đây, do đối lập một 
cách máy móc CNXH với CNTB đã hình 
thành quan điểm sai lầm cho rằng: 
CNXH, thậm chí trong thời kỳ quá độ lên 
CNXH không có kinh tế hàng hóa, không 
có kinh tế thị trường. Do đó, không có 
các phạm trù giá trị và giá trị thặng dư. 
Ngày nay, trải qua thực tiễn, 
chúng ta đã nhận thức rõ: sản xuất hàng 
hóa không đối lập với CNXH, mà là 
thành tựu phát triển chung của nền văn 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 29 
minh nhân loại, sản xuất hàng hóa tồn 
tại khách quan và cần thiết cho công 
cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH 
đã được xây dựng. Lênin viết: “Tri thức 
về CNTB thì chúng ta có, nhưng chúng 
ta chưa có tri thức về tổ chức với quy 
mô hàng triệu người, chưa có tri thức về 
tổ chức và phân phối sản phẩm,”, 
“cho nên chúng ta nói, dù hắn là tên đại 
bịp bợm, nhưng một khi chúng đã tổ 
chức ra được Tơ-Rớt, khi hắn là một 
thương nhân đã từng làm công việc tổ 
chức sản xuất và phân phối cho hàng 
triệu và hàng chục triệu người, một khi 
hắn có kinh nghiệm thì chúng ta phải 
học ở hắn”. 
Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên 
CNXH ở nước ta hiện nay, chúng ta 
cần vận dụng một cách linh hoạt và 
hợp lý những thành tựu mà CNTB đã 
đạt được, cần thiết phải phát triển kinh 
tế hàng hóa, phát triển nền kinh tế thị 
trường, thừa nhận sự tồn tại của nhiều 
hình thức sở hữu, nhiều thành phần 
kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp, 
nhiều hình thức tổ chức sản xuất - kinh 
doanh, thừa nhận sự bóc lột, thừa nhận 
phạm trù giá trị thặng dư. Chúng ta cần 
thiết phải sử các phương pháp sản xuất 
giá trị thặng dư - cách thức mà các nhà 
tư bản, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa 
(TBCN) đạt đến sự giàu có vào điều 
kiện cụ thể của đất nước, nhằm xây 
dựng một nước Việt Nam XHCN “dân 
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, 
văn minh”. 
2. Phƣơng pháp sản xuất giá trị thặng 
dƣ tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng 
dƣ tƣơng đối 
Mục đích của nền sản xuất TBCN 
là sản xuất ra giá trị thặng dư và giá 
thặng dư tối đa, các nhà tư bản luôn tìm 
mọi cách để đạt được lợi nhuận lớn nhất 
thông qua việc tăng cường áp dụng các 
phương tiện kỹ thuật và quản lý như tăng 
cường độ lao động, kéo dài ngày lao 
động, tăng năng suất lao động, áp dụng 
cộng nghệ hiện đại vào hoạt động sản 
xuất - kinh doanh - quản lý, mở rộng sản 
xuất, để bóc lột càng nhiều lao động 
làm thuê. Có hai phương pháp để đạt 
được mục đích đó là phương pháp sản 
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương 
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. 
Phương pháp sản xuất giá trị thặng 
dư tuyệt đối: đây là phương pháp được sử 
dụng chủ yếu trong giai đoạn đầu phát 
triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa, thời 
kỳ hiệp tác lao động giản đơn và thời kỳ 
công trường thủ công, khi trình độ kỹ 
thuật còn thấp, lao động thủ công, thô sơ 
thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị 
thặng dư là kéo dài ngày lao động của 
công nhân làm thuê. 
Phương pháp sản xuất giá trị thặng 
dư tuyệt đối được thực hiện bằng cách 
kéo dài ngày lao động (hay tăng cường 
độ lao động) trong khi năng suất lao 
động không đổi, giá trị sức lao động và 
thời gian lao động tất yếu không đổi, 
nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng 
dư (tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên). 
Ngày nay, các nhà tư bản luôn tìm 
mọi cách để kéo dài ngày lao động, 
nhưng ngày lao động có những giới hạn 
nhất định. Giới hạn trên của ngày lao 
động (tối đa 24h/ngày) do thể chất và 
tinh thần của người lao động quyết định. 
Vì người công nhân cần phải có thời gian 
ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi 
sức khoẻ. Ngoài ra, việc kéo dài ngày lao 
động còn vấp phải sự phản kháng của 
giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới 
của ngày lao động không thể bằng thời 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 30 
gian lao động tất yếu, tức thời gian lao 
động thặng dư bằng không, điều này có 
nghĩa là nhà tư bản đầu tư nhưng không 
thu được bất kỳ một đồng lợi nhuận nào 
thì chắc chắn họ sẽ không đầu tư vì mục 
đích của họ là lợi nhuận. Như vậy, về 
mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn 
thời gian lao động tất yếu, nhưng không 
thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh 
thần của người lao động. Độ dài của ngày 
lao động là đại lượng không cố định và 
có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể 
của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa 
giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên 
cơ sở tương quan lực lượng quyết định. 
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân 
đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 
giờ đã kéo dài hàng thế kỷ. 
Khi sản xuất TBCN phát triển đến 
giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ 
thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao 
động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà 
tư bản thấy rằng việc sử dụng phương 
pháp này không còn phù hợp nữa và 
chuyển sang phương thức bóc lột tinh vi 
hơn dựa trên cơ sở tăng năng suất lao 
động, đó là bóc lột giá trị thặng dư 
tương đối. 
Phương pháp sản xuất giá trị thặng 
dư tương đối: 
Phương pháp sản xuất giá trị thăng 
dư tương đối được thực hiện bằng cách 
rút ngắn thời gian lao động tất yếu trên 
cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, 
làm cho giá trị hàng hóa sức lao động 
giảm xuống, trong khi độ dài ngày lao 
động không đổi và thời gian lao động 
thặng dư tăng lên tương ứng. 
Chẳng hạn: Giả sử độ dài ngày lao 
động là 8 giờ và nó được chia thành 4 
giờ là thời gian lao động tất yếu (t) và 4 
giờ là thời gian lao động thặng dư (t’), 
được biểu diễn như sau: 
Tỷ suất giá trị thặng dư lúc này là: 
m’ = t’/t*100% = 4/4*100% = 100% 
Giả định rằng ngày lao động không 
thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ 
cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một 
lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao 
động của mình. Khi đó, tỷ lệ phân chia 
ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời 
gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời 
gian lao động thặng dư. 
 Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng 
dư sẽ là: m’ = 5/3*100% = 166,7 % 
Kết quả, tỷ suất giá trị thặng dư đã 
tăng từ 100% lên 166,7%. 
Như vậy, làm thế nào để có thể rút 
ngắn được thời gian lao động tất yếu? 
Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với 
giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời 
gian lao động tất yếu phải giảm giá trị 
sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức 
lao động phải giảm giá trị những tư liệu 
sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của 
công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện 
được bằng cách tăng năng suất lao động 
trong các ngành sản xuất ra những tư liệu 
sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của 
công nhân hay tăng năng suất lao động 
trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản 
xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh 
hoạt đó. 
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ 
nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư 
tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến 
giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, 
t=4h t’=4h 
t=3h t’=5
h 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 31 
sản xuất giá trị thặng dư tương đối là 
phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển 
của lực lượng sản xuất và của năng suất 
lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã 
trải qua ba giai đoạn: hiệp tác lao động 
giản đơn, công trường thủ công và đại 
công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình 
nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư 
tương đối. 
Hai phương pháp sản xuất giá trị 
thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử 
dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình 
độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá 
trình phát triển của CNTB. Dưới CNTB, 
việc áp dụng máy móc không phải là để 
giảm nhẹ cường độ lao động của công 
nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng 
cường độ lao động. Ngày nay, việc tự 
động hoá sản xuất làm cho cường độ lao 
động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, 
sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho 
cường độ lao động cơ bắp. 
Trong nền kinh tế thị trường hiện 
nay, sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản 
là hết sức khốc liệt, buộc họ phải áp 
dụng phương pháp sản xuất tốt nhất, 
cách quản lý tốt nhất để tăng năng suất 
lao động trong xí nghiệp của mình 
nhằm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá 
thấp hơn giá trị xã hội, giá trị thị 
trường của hàng hoá, nhờ đó thu được 
giá trị thặng dư siêu ngạch. Giá trị 
thặng dư siêu ngạch chỉ do một số ít 
các nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến, áp 
dụng sớm nhất công nghệ mới vào hoạt 
động sản xuất kinh doanh và thu được, 
khi đa số các nhà tư bản áp dụng công 
nghệ này vào sản xuất kinh doanh thì 
giá trị thặng dư siêu ngạch không còn 
mà nó trở thành giá trị thặng dư tương 
đối. Xét trên góc độ toàn xã hội thì giá 
trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng 
tồn tại thường xuyên. 
Theo đuổi giá trị thặng dư siêu 
ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là 
động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư 
bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, 
tiết kiệm chi phí, áp dụng công nghệ mới 
vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động 
và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao 
động, giảm giá trị của hàng hoá. C.Mác 
gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình 
thức biến tướng của giá trị thặng dư 
tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch 
và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên 
cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù 
một bên là dựa vào tăng năng suất lao 
động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng 
năng suất lao động xã hội). 
3. Vận dụng các phƣơng pháp sản xuất 
giá trị thặng dƣ, nhất là phƣơng pháp 
sản xuất giá trị thặng dƣ tƣơng đối và 
giá trị thặng dƣ siêu ngạch trong quá 
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở 
nƣớc ta hiện nay 
 Một là, học tập các nhà tư bản sản 
xuất ra càng nhiều sản phẩm thặng dư 
cho xã hội, càng nhiều giá trị thặng dư 
càng tốt. Việc vận dụng hai phương pháp 
trên trong các doanh nghiệp sẽ kích thích 
hoạt động sản xuất - kinh doanh, vì mục 
tiêu lợi nhuận chính là động lực giúp 
doanh nghiệp sẽ không ngừng cải tiến kỹ 
thuật, ứng dụng công nghệ mới - hiện đại 
vào sản xuất - kinh doanh, hợp lý hóa sản 
xuất, tiết kiệm thời gian và chi phí nhằm 
tăng năng suất lao động cá biệt của đơn 
vị mình, làm cho giá trị cá biệt của hàng 
hóa do doanh nghiệp mình sản xuất ra 
thấp hơn giá trị thị trường, nâng cao giá 
trị hàng háo và dịch vụ từ đó mang lại lợi 
nhuận và lợi nhuận siêu ngạch cho các 
doanh nghiệp. Đồng thời, thúc đẩy lực 
lượng sản xuất ngày càng phát triển, thúc 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 32 
đẩy quá trình phân công lao động xã hội, 
tạo ra nhiều việc làm, gợi mở cách thức 
làm tăng của cải trong doanh nghiệp và 
cả nền kinh tế. 
Hai là, cần tận dụng sử dụng triệt để 
các nguồn lực cho phát triển kinh tế đất 
nước. Trong nền kinh tế thị trường hiện 
nay, khi một số nguồn lực để phát triển 
kinh tế trở nên khan hiếm thì việc huy 
động và sử dụng các nguồn lực cho phát 
triển như vốn, lao động, khoa học công 
nghệ, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, 
phải làm sao mang lại hiệu quả kinh tế xã 
hội cao nhất, tránh trường hợp sử dụng 
không hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí. 
Ba là, không ngừng hoàn thiện hệ 
thống pháp luật. Một mặt, yêu cầu các 
nhà tư bản phải nghiêm chỉnh chấp hành 
pháp luật, tôn trọng lợi ích chính đáng 
của người công nhân. Mặt khác, nhà 
nước cần có cơ chế, chính sách khuyến 
khích phát triển kinh tế tư nhân, bảo hộ 
quyền sở hữu hợp pháp của các nhà tư 
bản, không phân biệt đối xử giữa các 
thành phần kinh tế, thực thi nhất quán 
chính sách thuế sao cho nhà đầu tư có thể 
thu được lợi nhuận thích đáng thì họ mới 
mạnh dạn đầu tư, làm ăn lâu dài. Bên 
cạnh đó, không ngừng hoàn thiện luật 
doanh nghiệp, luật đầu tư theo hướng 
ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư 
hơn. Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội 
nhập quốc tế hiện nay, sự cạnh tranh giữa 
các nước trong thu hút vốn đầu tư ngày 
càng gay gắt. Do đó, Nhà nước cần có 
chính sách ưu đãi đầu tư nhiều hơn để 
thu hút mạnh hơn các nhà đầu tư. 
Bốn là, cần kết hợp hài hòa các lợi 
ích giữa Nhà nước - doanh nghiệp - 
người lao động. Đối với thành phần kinh 
tế Nhà nước và tập thể dựa trên chế độ sở 
hữu công cộng về tư liệu sản xuất thì kết 
quả sản xuất thuộc về Nhà nước hay tập 
thể lao động của doanh nghiệp. Vì vậy, 
việc phân phối giá trị thặng dư phải làm 
sao cho vừa tăng thu cho ngân sách nhà 
nước, vừa tăng thu nhập của người lao 
động, lại vừa tăng các quỹ của doanh 
nghiệp (quỹ tái sản xuất mở rộng, quỹ 
phúc lợi, quỹ khen thưởng), càng nhiều 
lợi nhuận thì lợi ích của ba thành phần 
trên càng tăng cao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Hội đồng TW chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác - 
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. 2008. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác - Lênin, 
NXB CT - QG, Hà Nội. 
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2012. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa 
Mác - Lênin, NXB CT - QG Sự thật, Hà Nội. 
[3] PGS.TS Lê Danh Tốn, GS-TS Đỗ Thế Tùng. 2008. Một số chuyên đề về Những 
nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội. 
[4] PGS.TS Hoàng Bích Loan, TS Vũ Thị Thoa. 2009. Hỏi đáp Kinh tế Chính trị Mác - 
Lênin, NXB CT - HC, Hà Nội. 
[5] Lê Quan Diên, Trường Đại học kinh tế, Đại học Huế. 2012. Sự cần thiết và những 
hướng khai thác khi vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác trong quá trình 
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí khoa 
học, Đại học Huế, số 3 năm 2012. 

File đính kèm:

  • pdfvan_dung_cac_phuong_phap_san_xuat_gia_tri_thang_du_trong_qua.pdf