Vấn đề kiểm soát quyền lực trong đảng hiện nay

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản

Việt Nam luôn luôn là lực lư ng lãnh đạo

cách mạng. Đặc biệt, trong hệ thống chính trị

Việt Nam hiện nay, chỉ có một đảng chính trị,

nên Đảng Cộng sản Việt Nam vừa có vai trò

lãnh đạo, vừa có vai trò cầm quyền. Đảng một

lúc phải thực thi hai loại quyền lực, quyền lực

chính trị (lãnh đạo) và quyền lực nhà nước

(cầm quyền). Quyền lực của Đảng là quyền lực

chính trị, là quyền lực của một tổ chức chính

trị “đại biểu trung thành l i ích của giai cấp

công nhân, nhân dân lao động và của cả dân

tộc”, là “Đội tiên phong của giai cấp công

nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân

lao động và của dân tộc Việt Nam” (Điều 4,

Hiến pháp năm 2013). Đảng thực thi quyền lực

chính trị của các giai cấp, tầng lớp, lực lư ng

xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động

vào Nhà nước, để thông qua Nhà nước, bằng

Nhà nước, hiện thực hóa quyền, l i ích và ý

chí của lực lư ng xã hội mà mình đại diện.

pdf 6 trang kimcuc 15820
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề kiểm soát quyền lực trong đảng hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề kiểm soát quyền lực trong đảng hiện nay

Vấn đề kiểm soát quyền lực trong đảng hiện nay
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 196(03): 85 - 90 
 Email: jst@tnu.edu.vn 85 
VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG ĐẢNG HIỆN NAY 
Cù Huy Khang 
Học viện Chính trị Khu vực II 
TÓM TẮT 
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước và toàn xã hội, chính vì vậy Đảng có vị trí, vai trò lớn 
trong đời sống xã hội. Xuất phát từ tầm quan trọng của Đảng và yêu cầu của cuộc cách mạng trong 
giai đoạn hiện nay thì cần phải có cơ chế kiểm soát quyền lực, đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng 
luôn đúng đắn, sáng tạo. Bài viết làm rõ sự cần thiết phải có cơ chế kiểm soát quyền lực trong 
Đảng thông qua việc nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của V.I.Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; 
đồng thời góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong Đảng hiện nay. 
Từ khóa: Đảng Cộng sản, Việt Nam, kiểm soát quyền lực, V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Ngày nhận bài: 11/01/2019; Ngày hoàn thiện: 25/01/2019;Ngày duyệt đăng: 22/3/2019 
POWER CONTROL REGULATION IN THE CURRENT PARTY 
 Cu Huy Khang 
Academy of Politics Region II 
ABSTRACT 
The Communist Party of Vietnam leads the country and the whole society, so the Party has a great 
position and role in social life. Stemming from the importance of the Party and the demand of the 
revolution in the current period, it is necessary to have a mechanism to control power, ensuring the 
Party's leadership is always right and creative. The paper clarifies the need to have a mechanism to 
control the power of the Party through the study of the classic works of V.I.Lenin and Ho Chi 
Minh's thoughts; At the same time, it helps to clarify some issues of theory and practice in the 
Party today. 
Keywords: Communist Party, Vietnam, control of power, V.I.Lenin, Ho Chi Minh's thought. 
Received: 11/01/2019; Revised: 25/01/2019; Approved: 22/3/2019 
* Corresponding author: Tel: 0972316085; Email: cuhuykhang@gmail.com 
Cù Huy Khang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 85 - 90 
 Email: jst@tnu.edu.vn 86 
MỞ ĐẦU 
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản 
Việt Nam luôn luôn là lực lư ng lãnh đạo 
cách mạng. Đặc biệt, trong hệ thống chính trị 
Việt Nam hiện nay, chỉ có một đảng chính trị, 
nên Đảng Cộng sản Việt Nam vừa có vai trò 
lãnh đạo, vừa có vai trò cầm quyền. Đảng một 
lúc phải thực thi hai loại quyền lực, quyền lực 
chính trị (lãnh đạo) và quyền lực nhà nước 
(cầm quyền). Quyền lực của Đảng là quyền lực 
chính trị, là quyền lực của một tổ chức chính 
trị “đại biểu trung thành l i ích của giai cấp 
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân 
tộc”, là “Đội tiên phong của giai cấp công 
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân 
lao động và của dân tộc Việt Nam” (Điều 4, 
Hiến pháp năm 2013). Đảng thực thi quyền lực 
chính trị của các giai cấp, tầng lớp, lực lư ng 
xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động 
vào Nhà nước, để thông qua Nhà nước, bằng 
Nhà nước, hiện thực hóa quyền, l i ích và ý 
chí của lực lư ng xã hội mà mình đại diện. 
NỘI DUNG 
Khái niệm cơ chế kiểm soát quyền lực 
Vấn đề xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực 
đư c chính thức nêu trong Cương lĩnh xây 
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và 
trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 
thức XI của Đảng Cộng sản Việt Nam và đã 
đư c thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013. 
Điều 4, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng 
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Các 
tổ chức của Đảng và đảng viên của Đảng Cộng 
sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến 
pháp và pháp luật”. Theo đó, vị trí, vai trò, 
trách nhiệm trên phương diện quyền lực của 
Đảng là rất lớn. Tuy nhiên phải “nhốt quyền 
lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp” [1]. 
Cơ chế kiểm soát quyền lực là toàn bộ những 
thể chế, thiết chế, và phương thức kiểm soát 
quyền lực nhằm phát hiện, ngăn ngừa, loại bỏ 
những nguy cơ, việc làm sai trái trong việc tổ 
chức và thực hiện quyền lực, bảo đảm cho 
quyền lực đư c thực hiện theo đúng các quy 
định và có hiệu quả. Như vậy, cơ chế kiểm 
soát quyền lực đư c cấu thành bởi ba yếu tố 
cơ bản sau đây: 
Một là, thể chế kiểm soát quyền lực là hệ 
thống các quy định về hoạt động kiểm soát 
quyền lực. Đây là hệ thống các văn bản do các 
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành về 
các nguyên tắc, quy định, quy phạm pháp luật, 
điều lệ h p thành một hệ thống thống nhất, 
định hướng, điều chỉnh các mối quan hệ phát 
sinh trong hoạt động kiểm soát quyền lực. 
Hai là, thiết chế kiểm soát quyền lực là các 
chủ thể đư c trao thẩm quyền kiểm soát 
quyền lực: cơ quan nhà nước, tổ chức chính 
trị, tổ chức chính trị - xã hội đư c trao nhiệm 
vụ kiểm soát quyền lực. 
Ba là, phương thức vận hành của cơ chế kiểm 
soát quyền lực - là phương pháp, hình thức 
thực hiện chức năng kiểm soát quyền lực của 
các thiết chế kiểm soát quyền lực; trình tự, 
thủ tục bắt buộc đối với các chủ thể khi tham 
gia hoạt động kiểm soát quyền lực; quan hệ 
giữa các thiết chế kiểm soát quyền lực với đối 
tư ng kiểm soát quyền lực. 
Sự cần thiết phải xây dựng cơ chế kiểm 
soát quyền lực trong Đảng 
Một là, cơ chế kiểm soát quyền lực giúp cho 
quyền lực được tổ chức thực hiện đúng 
Hiện nay, để kiểm soát quyền lực, Đảng ta đã 
có nhiều biện pháp như: kiểm tra, giám sát, 
trong nội bộ Đảng cùng với đó là thực hiện 
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự 
phê bình và phê bình trong Đảng; ngoài ra, 
kết h p với Nhà nước có thanh tra, kiểm sát, 
kiểm toán; vai trò phản biện xã hội của Mặt 
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã 
hội. Vậy tại sao phải xây dựng cơ chế kiểm 
soát quyền lực trong Đảng. Bởi quyền lực 
luôn có xu hướng tha hóa, người nắm giữ 
quyền lực luôn có xu hướng lạm quyền, lộng 
quyền do đó, với các biện pháp kiểm soát như 
đã nêu trên chưa thật sự hiệu quả mà cần phải 
có một cơ chế trong vấn đề kiểm soát quyền 
lực để có sự phối h p, vận hành hiệu quả, 
Cù Huy Khang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 85 - 90 
 Email: jst@tnu.edu.vn 87 
hiệu lực mới có thể “nhốt quyền lực vào trong 
lồng cơ chế, luật pháp” [1]. 
Cơ chế kiểm soát quyền lực không phải là 
một khái niệm mới, thuật ngữ này đã xuất 
hiện từ thời cổ đại, đư c các nhà tư tưởng cổ 
đại nghiên cứu và phát triển thành các học 
thuyết nhằm giúp xây dựng xã hội đương thời 
thịnh trị hơn. Đại diện tiêu biểu là Hàn Phi 
Tử: Quan niệm để thực hiện hoạt động chính 
trị cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp 
luật. Với luận thuyết nổi tiếng về thế, thuật và 
pháp - ông là đại diện tiêu biểu của phái Pháp 
gia. Arixtôt cho rằng: Chính trị là sản phẩm 
của sự phát triển tự nhiên là h ình thức giao 
tiếp cao nhất của con người; con người là 
động vật chính trị; quyền lực chính trị có thể 
đư c phân chia thành lập pháp, hành pháp và 
tư pháp... 
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ 
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Phải tổ 
chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, 
không có dân chúng giúp sức thì không xong; 
Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm 
soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp 
mới đư c” [2, tr.325]. “Khi đã có chính sách 
đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của 
chính sách đó là do nơi cách tổ chức công 
việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. 
Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng 
mấy cũng vô ích” [2, tr.636]. “Có kiểm tra 
mới huy động đư c tinh thần tích cực và lực 
lư ng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng 
lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa 
và giúp đỡ kịp thời” [2, tr.636]. Bởi, “chín 
phần mười khuyết điểm trong công việc của 
chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra” [2; tr.637] và 
“Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, 
muốn biết các nghị quyết có đư c thi hành 
không, thi hành có đúng không; muốn biết ai 
ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một 
cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao 
nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm ra 
khéo về sau nhất định khuyết điểm sẽ bớt đi”. 
Bởi “Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, 
lãnh đạo nhân dân, tranh lại thống nhất và độc 
lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang. Nhưng, 
nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng 
hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn to 
tát hơn nữa [2, tr.327] Hiện nay, trong hệ 
thống chính trị Việt Nam nói chung, của Đảng 
Cộng sản Việt Nam nói riêng đã có nhiều cách 
thức để kiểm soát quyền lực như: kiểm tra, 
giám sát, thanh tra, kiểm sát, kiểm toán đã góp 
phần giữ vững ổn định chính trị, phù h p với 
thể chế chính trị của nước ta hiện nay. 
Hai là, cơ chế kiểm soát quyền lực là cách 
thức phát hiện, ngăn chặn, xử lý việc sử 
dụng quyền lực không đúng mục đích, lạm 
quyền, lộng quyền 
Hiện nay có nhiều cách thức kiểm soát quyền 
lực đối với các tổ chức trong hệ thống chính 
trị nói chung và trong nội bộ tổ chức Đảng 
nói riêng, nhưng thực tế là chưa đạt đư c hiệu 
quả như mong muốn của Đảng, của nhân dân 
ta. Tệ l i dụng chức vụ, quyền hạn đư c giao 
để tham ô, tham nhũng, chạy chức, chạy 
quyền, trục l i cá nhân đang diễn ra vô 
cùng phức tạp, ngày càng tinh vi, táo bạo hơn. 
Tình trạng đó diễn ra là do chưa có một cơ 
chế hoàn chỉnh đủ hiệu lực để có thể kiểm 
soát quá trình tổ chức, thực thi quyền lực của 
những tổ chức, cá nhân nắm giữ quyền lực. 
Hiện nay, Ban Tổ chức Trung ương đang tiến 
hành lấy ý kiến các cấp để hoàn thiện dự thảo 
quy định kiểm soát quyền lực và chống chạy 
chức, chạy quyền trong công tác cán bộ. “Dự 
thảo gồm 4 chương, 16 điều. Trong đó có quy 
định 8 cơ chế kiểm soát quyền lực trong công 
tác cán bộ, nhận diện 19 hành vi chạy chức 
chạy quyền (5 hành vi của người chạy và 14 
hành vi của người đư c chạy, cả hành vi của 
tập thể và cá nhân). Dự thảo còn quy định 6 
cách thức phát hiện hành vi chạy chức chạy 
quyền; quy định về việc kiểm tra, kết luận, xử 
lý hành vi chạy chức, chạy quyền” [3]. Có thể 
nói chống chạy chức, chạy quyền trong công 
tác cán bộ có ý nghĩa quan trọng và là nhiệm 
vụ hết sức cần thiết trong tình hình hiện nay. 
Quan điểm của V.I.Lênin về kiểm soát 
quyền lực 
Sau khi giành đư c chính quyền, V.I.Lênin đã 
quan tâm tới cơ chế kiểm soát quyền lực 
Cù Huy Khang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 85 - 90 
 Email: jst@tnu.edu.vn 88 
trong Đảng, trong các tổ chức đảng và các 
đảng viên có quyền lực. Kiểm soát quyền lực 
trong đảng theo quan điểm của V.I.Lênin là 
kiểm soát quyền lực của các tổ chức đảng, 
đồng thời kiểm soát quyền lực của cá nhân 
đảng viên có chức vụ trong các tổ chức đảng, 
bộ máy nhà nước. Có hai phương thức để 
kiểm soát quyền lực: kiểm soát từ bên trong 
và kiểm soát từ bên ngoài. 
Thứ nhất, cơ chế kiểm soát từ bên trong, việc 
kiểm soát này chính là thực hiện dân chủ, 
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ 
trong nội bộ đảng. Khi Đảng Cộng sản đã 
cầm quyền, việc kiểm soát quyền lực đối với 
các tổ chức đảng, đặc biệt là đối với cá nhân 
đảng viên giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước 
là cực kỳ quan trọng. Để kiểm soát quyền lực 
trong đảng phải thực hiện hai cách thức chủ 
yếu: một là, thực hiện tự phê bình và phê bình 
nghiêm khắc trong nội bộ đảng; hai là, thiết lập 
ủy ban kiểm tra do đại hội đảng trực tiếp bầu 
ra, chịu trách nhiệm trước Đại hội. Ủy ban 
kiểm tra thực hiện công tác kiểm tra chặt chẽ 
trong đảng. Trong đó, tập trung nhiều hơn vào 
công tác kiểm tra, nhất là vào thời kỳ thực hiện 
Chính sách kinh tế mới (NEP), coi đây là công 
tác quan trọng của Đảng nhằm khắc phục bệnh 
độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời dân 
chúng trong hoạt động của các tổ chức, các 
đảng viên có chức quyền. Để kiểm soát quyền 
lực của các cá nhân, tổ chức thì công tác kiểm 
tra của đảng giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, 
công tác kiểm tra là vô cùng phức tạp, khó 
khăn, sẽ không có hiệu quả nếu cán bộ kiểm 
tra không có phẩm chất đạo đức tốt, quan liêu, 
cửa quyền, thiếu uy tín. Do vậy, “ muốn biết 
cách điều khiển công tác kiểm tra, thì cần phải 
có người uy tín đứng đầu, nếu không chúng ta 
sẽ sa lầy và chìm ngập trong những mưu toan 
nhỏ nhặt” [4, tr.146]. 
Trong kiểm soát quyền lực nội bộ Đảng thì 
theo V.I.Lênin vấn đề kiểm soát quyền lực 
của Ban Chấp hành là khó khăn nhất. Vì vậy, 
Ông đã đề xuất thiếp lập cơ quan Ủy ban 
Kiểm tra của Đảng tiến tới cần phải có vị trí 
độc lập với cơ quan ban chấp hành và “chịu 
trách nhiệm trước đại hội đảng mà thôi” [4, tr. 
235]. Theo đó, ủy ban kiểm tra cần phải đư c 
các đại hội bầu ra thay cho cách bầu ra từ các 
ban chấp hành. Như vậy, vị trí của các ủy ban 
kiểm tra sẽ tương đương như các ban chấp 
hành. Ở Trung ương, khi họp Ban Chấp hành 
Trung ương - cơ quan quyền lực cao nhất của 
Đảng giữa hai kỳ Đại hội - đều phải có Ủy ban 
Kiểm tra tham dự với tư cách như một thành 
viên trong các cuộc họp liên tịch. Đây chính là 
cơ sở quan trọng để việc chất vấn trong Đảng 
phát huy đư c tác dụng. Chất vấn trong Đảng 
theo hình thức đó mới có thể đảm bảo đư c 
dân chủ thực chất trong nội bộ Đảng. Không 
những thế, đến năm 1923, V.I.Lênin đề xuất: 
“những ủy viên Ban kiểm tra trung ương có 
nhiệm vụ tham dự, với một số lư ng nhất định, 
vào mỗi phiên họp của Bộ Chính trị, sẽ phải là 
một nhóm cố kết, nó “không đư c vị nể cá 
nhân” phải giữ gìn sao cho không một quyền 
uy nào của Tổng Bí thư hay là của một ủy viên 
nào trong Ban Chấp hành Trung ương có thể 
ngăn cản mình chất vấn, kiểm tra các hồ sơ, và 
nói chung là nắm đư c tình hình hết sức rõ 
ràng và xử lý mọi việc hết sức đúng đắn” [5, tr. 
129-130]. 
Thứ hai, cơ chế kiểm soát từ bên ngoài, để 
công tác kiểm tra, kiểm soát đạt kết quả tốt 
hơn phải có sự phê bình của nhân dân đối với 
cơ quan, người đảng viên, người có quyền lực 
trong cơ quan nhà nước, bằng cách thông qua 
các cuộc báo cáo về việc thực hiện nhiệm vụ 
của họ trước nhân dân. V.I.Lênin viết: “ 
không chỉ thường xuyên triệu tập các cuộc 
họp toàn thể cho quần chúng công nông, mà 
còn phải thường xuyên tổ chức những cuộc 
báo cáo công tác của tất cả các cán bộ đảm 
nhiệm mọi chức vụ trước quần chúng công 
nông. Những cuộc báo cáo này phải tiến hành 
ít nhất mỗi tháng một lần để quần chúng công 
nhân và nông dân ngoài đảng có điều kiện 
phê bình các cơ quan xô - viết và công tác của 
các cơ quan đó. Không phải chỉ các đảng viên 
cộng sản mà tất cả những người có chức trách 
Cù Huy Khang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 85 - 90 
 Email: jst@tnu.edu.vn 89 
ở mọi cương vị quan trọng, trước hết là trong 
các cơ quan lương thực và các cơ quan thuộc 
hệ thống Hội đồng kinh tế quốc dân, đều phải 
tiến hành những báo cáo như vậy” [5, tr. 305]. 
Dân chủ trong xã hội chủ nghĩa chính là nhân 
dân tham gia vào mọi công việc của nhà 
nước. Do đó, “Điều cần thiết không phải chỉ 
là cơ quan đại biểu theo kiểu chế độ dân chủ, 
mà là toàn bộ việc quản lý nhà nước từ dưới 
lên phải do bản thân quần chúng tổ chức, 
quần chúng thực sự tham gia vào từng bước 
của cuộc sống và đóng vai trò tích cực trong 
việc quản lý” [6]. Ông yêu cầu các tổ chức 
đảng cần phải có các thức lôi cuốn những 
người ngoài đảng thực hiện việc kiểm tra, 
kiểm soát trong đảng: “Cần phải cấp tốc đem 
toàn lực ra khắc phục thiếu sót đó cần phải 
duy trì sự kiểm soát và sự lãnh đạo của những 
người cộng sản. Mặt khác, những người ngoài 
đảng cũng phải kiểm soát các đảng viên; 
muốn vậy cần phải lôi kéo những nhóm công 
nhân, nông dân ngoài đảng đã đư c thử thách 
về phương diện trung thực của mình, vào Bộ 
Dân ủy thanh tra công nông, và không kể họ ở 
chức vụ nào, lôi cuốn họ tham gia một cách 
không chính thức vào việc kiểm tra và nhận 
xét công tác” [5, tr. 336]. Trong điều kiện 
đảng cầm quyền, khi nhiều đảng viên thực 
hiện vai trò lãnh đạo, quản lý trong bộ máy 
nhà nước, thì việc kiểm soát các đảng viên đó 
thông qua công tác kiểm tra của đảng cũng 
chính là một hình thức kiểm soát quyền lực. 
Trong điều kiện đó, V.I.Lênin đã yêu cầu h p 
nhất hai cơ quan kiểm tra của đảng và thanh 
tra của nhà nước làm một, bởi theo Ông việc 
h p nhất hai cơ quan này sẽ giúp cho việc 
thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát hiệu 
lực, hiệu quả hơn. 
Trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt 
của chính quyền Xô Viết”, V.I. Lênin viết: 
“Không có chế độ kiểm toán và kiểm soát trong 
sự sản xuất và phân phối sản phẩm, thì những 
mầm mống của chủ nghĩa xã hội sẽ bị tiêu diệt” 
[5, tr. 225]. Khi nước Nga chuyển sang thực 
hiện chính sách kinh tế mới, V.I. Lênin cho 
rằng, phải tiến hành các cuộc cải tổ và phải 
“kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc 
chấp hành thực tế công tác - mấu chốt của toàn 
bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay ở 
là đấy, vẫn ở đấy và chỉ có ở đấy” [7]. 
Quan điểm của Hồ Chí Minh về kiểm soát 
quyền lực trong Đảng 
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao cơ chế 
quyền soát quyền lực của Đảng, của Nhà 
nước trên cơ sở dựa vào nhân dân. Người 
khẳng định: “Chính phủ Cộng hoà Dân chủ là 
gì? Là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn 
quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải 
là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải là để 
thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại 
dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Nhưng 
khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì 
phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu Chính phủ sai 
thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải 
là chửi” [2, tr. 74-75]. Nhân dân là người tổ 
chức nên các cơ quan nhà nước từ trung ương 
đến địa phương thông qua thực hiện chế độ 
tuyển cử. Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, 
đồng thời có quyền thực hiện chế độ bãi 
miễn. Vì vậy, Nhà nước phải chăm lo mọi 
mặt đời sống của nhân dân, “việc gì có l i 
cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại đến 
dân phải hết sức tránh” [8]. Nhà nước là đại 
diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời 
là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị 
của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của 
Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phản 
ánh l i ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân 
không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm 
tham gia hoạch định và thi hành các chủ 
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của 
nhà nước. 
Vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng 
Cộng sản Việt Nam hiện nay 
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và 
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong giai đoạn cách 
mạng hiện nay Đảng đã chỉ rõ tại Hội nghị 
Trung ương 4 khóa XII: “Công tác xây dựng 
Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm”; 
Cù Huy Khang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 196(03): 85 - 90 
 Email: jst@tnu.edu.vn 90 
“Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa 
XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề 
ra”; Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của 
Đảng chưa nghiêm; “Công tác quản lý cán bộ, 
đảng viên còn thiếu chặt chẽ. Nguyên tắc tập 
trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng, 
nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện 
không nghiêm”; Sự buông lỏng đó đã kéo 
dài nhiều năm, thậm chí nhiều nhiệm kỳ đến 
mức một bộ phận cán bộ, đảng viên coi 
thường kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà 
nước, coi thường tổ chức và tập thể dẫn đến 
quyền lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý không 
đư c giám sát đầy đủ và kiểm soát chặt chẽ. 
Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng đư c 
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một 
nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng 
Đảng, chỉnh đốn Đảng. Tình trạng suy thoái 
chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một 
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong 
đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý can thiệp vào 
quá trình xây dựng và thực thi chính sách để 
có đặc quyền, đặc l i, hình thành “l i ích 
nhóm”, gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, 
làm suy giảm lòng tin của nhân dân. Do đó, 
nhận diện và kiểm soát quyền lực là vấn đề 
quyết định tới uy tín, vai trò lãnh đạo và sức 
chiến đấu của Đảng, sự tồn vong của Đảng và 
của chế độ. 
Như vậy, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt 
Nam về xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực 
hiệu quả còn gắn liền với quá trình cụ thể hóa 
những nội dung trong việc xây dựng Nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, 
do dân, vì dân. Đảng ta xác định kiểm soát 
quyền lực phải trở thành trọng tâm của việc 
xây dựng nhà nước pháp quyền, đặc biệt khi 
mà tình trạng tha hóa quyền lực, quan liêu, 
tham nhũng đang là nguy cơ đe dọa sự tồn 
vong của chế độ. Đây cũng chính là mục tiêu 
của quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng 
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của 
Đảng, xây dựng một nền hành chính nhà nước 
trong sạch, một nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân. 
KẾT LUẬN 
Vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng hiện 
nay mang tính cấp thiết và cần đư c nghiên 
cứu để làm rõ những vấn đề lý luận và thực 
tiễn đang đặt ra. Bài viết góp phần làm rõ 
khái niệm cơ chế kiểm soát quyền lực và sự 
cần thiết phải xây dựng đư c cơ chế kiểm 
soát quyền lực trong hệ thống chính trị mà 
Đảng đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo. Từ việc 
phân tích làm rõ cơ chế kiểm soát quyền lực 
trong Đảng theo tư tưởng chủ nghĩa Mác - 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần 
làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt 
Nam. Qua đó, có thể khẳng định, chủ thể 
quan trọng nhất trong kiểm soát quyền lực 
lãnh đạo của Đảng là nhân dân. Công cụ kiểm 
soát mạnh mẽ nhất là chế định của Hiến pháp. 
Để kiểm soát quyền lực trong Đảng cần đảm 
bảo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước 
quản lý, nhân dân làm chủ”. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Hoa Hiền, “Phải nhốt quyền lực vào trong 
lồng cơ chế, luật pháp”, Báo điện tử Đảng 
Cộng sản Việt Nam, ngày 29/11/2017, 
quyen-luc-vao-trong-long-co-che-luat-phap-
463763.html.. 
[2]. Hồ Chí Minh: oàn t p, tập 5, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, 2011. 
[3]. Mai Anh, “Góp ý dự thảo của Bộ Chính trị về 
kiểm soát quyền lực và chống chạy chức, 
chạy quyền trong công tác cán bộ”, Tạp chí 
Cộng sản điện tử, ngày 11/10/2018, 
Story.aspx?distribution=52675&print=true. 
[4]. V.I. Lênin: oàn t p, tập 45, Nxb Tiến bộ, 
Mát-xcơ-va, 1977. 
[5]. V.I. Lênin: oàn t p, tập 43, Nxb Tiến bộ, 
Mát-xcơ-va, 1977. 
[6]. V.I. Lênin: oàn t p, t p 31, Nxb Tiến bộ, 
Mát-xcơ-va, tr 356, 1981. 
[7]. V.I. Lênin: oàn t p: tập 5, Nxb Tiến bộ, 
Mát-xcơ-va, tr. 19, 1977. 
[8]. Hồ Chí Minh: oàn t p, tập 4, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr. 51, 2011. 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_kiem_soat_quyen_luc_trong_dang_hien_nay.pdf