Vấn đề khái niệm và định hướng dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới

Trong bối cảnh xã hội bùng nổ thông

tin như hiện nay, năng lực tiếp cận và làm

chủ thông tin đóng vai trò rất quan trọng,

quyết định sự thành công của mỗi cá nhân

trong công việc và cuộc sống. Vì vậy,

trong chương trình dạy học Ngữ văn của

một số nước trên thế giới, bên cạnh văn

bản (VB) văn chương, học sinh còn được

học đọc hiểu một hệ thống VB khác có nội

dung liên quan trực tiếp đến thế giới hiện

thực, không sử dụng những yếu tố hư cấu,

tưởng tượng, thực hiện chức năng chủ yếu

là cung cấp thông tin. Đó chính là văn bản

thông tin (VBTT). Trong Chương trình

Ngữ văn được ban hành kèm theo ba loại VB mà học sinh cần phải đọc hiểu.

Vì vậy, qua bài viết này, chúng tôi muốn

trình bày cách hiểu và những định hướng

dạy học loại VB này trong chương trình

Ngữ văn của một số nước trên thế giới, từ

đó đưa ra gợi ý đối với việc dạy học kiểu

VB này trong chương trình Ngữ văn ở

nước ta sau năm 2018.

pdf 11 trang kimcuc 8120
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề khái niệm và định hướng dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề khái niệm và định hướng dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới

Vấn đề khái niệm và định hướng dạy học văn bản thông tin trong chương trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL 
 ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY 
 Số 62 (02/2019) No. 62 (02/2019) 
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 
26 
VẤN ĐỀ KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC VĂN BẢN 
THÔNG TIN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 
CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 
The issue of concept and orientation in teaching informational texts in language 
arts and literature curricula of some countries in the world 
ThS. Nguyễn Thị Ngọc Thúy 
Trường Đại học Sư phạm TP.HCM 
Tóm tắt 
Năng lực đọc hiểu văn bản thông tin đóng một vai trò rất quan trọng, hỗ trợ cho sự thành công của 
người học trong tương lai. Bài viết này, trên cơ sở tìm hiểu dạy học văn bản thông tin trong chương 
trình Ngữ văn của một số nước trên thế giới đã xác định lại đặc điểm của văn bản thông tin và những 
định hướng dạy học loại văn bản này trong chương trình của các nước; từ đó đưa ra một số gợi ý cho 
việc dạy học loại văn bản này trong chương trình Ngữ văn của nước ta sau năm 2018. 
Từ khóa: Văn bản thông tin, chương trình Ngữ văn, năng lực đọc hiểu. 
Abstract 
Informational text reading comprehension competency has an extremely important role, supporting 
students to succeed in the future. Therefore, on the basis of studying the teaching of informational texts 
in Language Arts and Literature curricula of some countries in the world, this paper redefines the 
characteristics of informational texts, orientations of teaching these texts in these curricula; and offers 
some suggestions for teaching this type of text in our Language Arts and Literature curriculum after 
2018. 
Keywords: informational text, Language Arts and Literature curriculum, reading comprehension 
competency. 
1. Đặt vấn đề 
Trong bối cảnh xã hội bùng nổ thông 
tin như hiện nay, năng lực tiếp cận và làm 
chủ thông tin đóng vai trò rất quan trọng, 
quyết định sự thành công của mỗi cá nhân 
trong công việc và cuộc sống. Vì vậy, 
trong chương trình dạy học Ngữ văn của 
một số nước trên thế giới, bên cạnh văn 
bản (VB) văn chương, học sinh còn được 
học đọc hiểu một hệ thống VB khác có nội 
dung liên quan trực tiếp đến thế giới hiện 
thực, không sử dụng những yếu tố hư cấu, 
tưởng tượng, thực hiện chức năng chủ yếu 
là cung cấp thông tin. Đó chính là văn bản 
thông tin (VBTT). Trong Chương trình 
Ngữ văn được ban hành kèm theo Thông 
tư số 32/2018/TT-BGDĐT, VBTT cũng 
được đề cập đến với tư cách là một trong 
Email: thuyntn@hcmue.edu.vn 
NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
27 
ba loại VB mà học sinh cần phải đọc hiểu. 
Vì vậy, qua bài viết này, chúng tôi muốn 
trình bày cách hiểu và những định hướng 
dạy học loại VB này trong chương trình 
Ngữ văn của một số nước trên thế giới, từ 
đó đưa ra gợi ý đối với việc dạy học kiểu 
VB này trong chương trình Ngữ văn ở 
nước ta sau năm 2018. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Để tìm hiểu việc dạy học VBTT trong 
chương trình Ngữ văn của một số nước, 
chúng tôi chủ yếu sử dụng nhóm phương 
pháp nghiên cứu lí thuyết, cụ thể như sau: 
- Phân tích và tổng hợp lí thuyết: 
 Phương pháp phân tích được sử 
dụng để nghiên cứu VB chương trình 
Ngữ văn của các nước ở khía cạnh dạy 
học đọc hiểu VBTT theo cách phân tích 
chúng thành từng bộ phận nhằm tìm hiểu 
vấn đề một cách toàn diện. Còn phương 
pháp phân tích tổng hợp được dùng để 
liên kết, sắp xếp các tài liệu thành một hệ 
thống lí thuyết đầy đủ, sâu sắc về vấn đề 
nghiên cứu. 
- Phân loại và hệ thống hóa lí thuyết: 
Phương pháp phân loại được sử dụng 
để sắp xếp các tài liệu khoa học thành một 
hệ thống logic chặt chẽ theo từng vấn đề. 
Còn phương pháp tổng hợp lại được dùng 
để sắp xếp các tri thức khoa học thành một 
hệ thống trên cơ sở các kiểu loại VBTT và 
chuẩn đầu ra của việc dạy học loại VB này 
trong chương trình Ngữ văn của một số 
nước nhằm làm cho sự hiểu biết về vấn đề 
nghiên cứu được toàn diện và sâu sắc hơn. 
Cơ sở dữ liệu được thu thập, khảo sát 
là VB chương trình Ngữ văn của một số 
nước như Australia, NewZealand, Mỹ, 
Anh, Singapore, đó là những nước có nền 
giáo dục tiên tiến đại diện cho một số châu 
lục trên thế giới. Hầu hết các VB chương 
trình được khảo sát đều là những VB mới 
nhất của những nền giáo dục ấy. 
3. Nội dung nghiên cứu 
3.1. Khái niệm văn bản thông tin 
3.1.1. Vấn đề tên gọi văn bản thông tin 
trong chương trình Ngữ văn của một số nước 
Chương trình Ngữ văn của một số 
nước đã dùng những tên gọi khác nhau để 
chỉ loại VB có nội dung liên quan trực tiếp 
đến thế giới hiện thực, không sử dụng 
những yếu tố hư cấu, tưởng tượng, thực 
hiện chức năng chủ yếu là cung cấp thông 
tin. Chẳng hạn như: 
- Trong khung chuẩn cơ bản chương 
trình Tiếng Anh của liên bang ở Mỹ (sau 
đây xin gọi là chương trình Ngữ văn của 
Mỹ), khái niệm văn bản thông tin 
(informational text) được sử dụng trong 
tương quan với khái niệm văn bản văn 
chương (literary text) để tạo thành hệ thống 
VB hoàn chỉnh. 
- Chương trình Ngữ văn Tiểu học 
và Trung học của Singapore xác định 
rõ hai loại VB chính được dạy là VB 
văn học (literary text) và VB thông tin 
(informational text)/ VB chức năng 
(functional text)1. 
- Ở Úc, chương trình Ngữ văn của 
quốc gia sử dụng khái niệm VB tưởng 
tượng, hư cấu (imaginative text), VB thông 
tin (informative text), VB thuyết phục 
(persuasive text) trong cấu trúc hệ thống 
VB của chương trình2. Trong đó, VB thông 
tin và VB thuyết phục có nội dung liên 
quan trực tiếp đến thế giới hiện thực và 
không sử dụng các yếu tố hư cấu. 
- Còn trong chương trình Ngữ văn của 
Anh thì “tất cả học sinh đều được khuyến 
khích đọc rộng ở cả hai loại VB: VB hư 
cấu (fiction) và VB phi hư cấu (non-
fiction) để phát triển kiến thức của họ cũng 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 
28 
như những hiểu biết về thế giới mà họ đang 
sống, để thiết lập một nhận thức đúng đắn 
cùng tình yêu đối với việc đọc và cũng để 
tích lũy kiến thức thông qua chương trình.” 
[7, tr.14]. 
- Chuẩn cơ bản của chương trình đọc – 
viết cho trẻ từ 1 đến 8 tuổi của New 
Zealand cũng quy định rõ hệ thống VB sử 
dụng trong chương trình là VB hư cấu 
(fiction text) và VB phi hư cấu (non-fiction 
text). 
Từ việc điểm qua hệ thống khái niệm 
VB được sử dụng trong chương trình Ngữ 
văn của một số nước trên thế giới, chúng 
tôi nhận thấy ở các nước, chương trình 
Ngữ văn đều sử dụng đa dạng loại VB 
trong dạy học. Ít nhất là có hai hệ thống 
VB cùng tồn tại trong chương trình, một hệ 
thống liên quan đến tác phẩm văn chương, 
tạm gọi là VB văn học và một hệ thống 
khác có nhiệm vụ cung cấp và truyền tải 
thông tin, tạm gọi là VB thông tin. Trong 
đó tên gọi của hệ thống VB cung cấp và 
truyền tải thông tin thay đổi tùy theo từng 
nước, ví dụ như informational text trong 
chương trình của Mỹ và Singapore, 
informative text và persuasive text trong 
chương trình của Úc và non-fiction text 
trong chương trình của Anh và New 
Zealand. Đó là điểm khác biệt giữa các 
chương trình. Tuy nhiên trong chương 
trình của bang California (Mỹ), bên cạnh 
khái niệm informational text còn một khái 
niệm khác được nhắc tới với ý nghĩa tương 
đương, đó là expository text, tạm dịch là 
VB trình bày, bình luận 
3.1.2. Các khái niệm có liên quan đến 
văn bản thông tin 
Trong chương trình Ngữ văn của các 
nước, hệ thống VBTT được sử dụng với 
nhiều tên gọi khác nhau. Vấn đề đặt ra là 
nên hiểu các khái niệm này như thế nào. 
3.1.2.1. Khái niệm văn bản phi hư cấu 
Theo Wikipedia, VB chủ yếu được 
phân chia thành hai loại phổ biến là VB phi 
hư cấu (non-fiction) và VB hư cấu 
(fiction). “VB phi hư cấu là một câu 
chuyện được xây dựng dựa trên sự kiện và 
thông tin có thật. VB phi hư cấu có thể là 
một câu chuyện kể, một VB miêu tả lại sự 
việc đã xảy ra, hoặc là một sản phẩm giao 
tiếp khác mà tác giả của nó tin rằng sự 
khẳng định và miêu tả là có thật. Những sự 
khẳng định và miêu tả này có thể chính xác 
hoặc không, có thể mô tả đúng hoặc sai về 
đối tượng. Tuy nhiên, người ta cho rằng 
tác giả của những VB ấy tin rằng chúng 
đúng sự thật tại thời điểm mà họ soạn thảo, 
hoặc ít nhất đã khiến người tiếp nhận VB 
tin rằng chúng đúng về phương diện lịch 
sử hoặc theo kinh nghiệm. Việc báo cáo về 
niềm tin của mọi người đối với những VB 
loại này không nhất thiết là sự chứng thực 
về tính chân thực của chúng, chỉ đơn giản 
nó đúng sự thật khi mọi người tin nó. () 
VB phi hư cấu không nhất thiết chỉ là VB 
viết, vì tranh ảnh và phim cũng có nội dung 
miêu tả sự thật về một đề tài, vấn đề nào 
đó” [12]. Từ định nghĩa trên, Wikipedia đã 
xác định những kiểu VB cụ thể thuộc loại 
VB này: “bài tiểu luận, bài báo, ký sự, 
nhật ký, các tài liệu, VB khoa học, tranh 
ảnh, tiểu sử, sách giáo khoa, sách hướng 
dẫn du lịch, bản vẽ chi tiết, tài liệu kỹ 
thuật, sách hướng dẫn sử dụng, biểu đồ” 
[12]. 
Tuy nhiên sự phân loại này chỉ có ý 
nghĩa tương đối vì có những VB mang đặc 
điểm của cả hai loại VB ấy, chẳng hạn như 
VB tự biểu hiện, thư từ, tạp chí và VB có 
yếu tố tưởng tượng, hư cấu. Một số VB hư 
cấu có thể bao hàm những yếu tố phi hư 
NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
29 
cấu. Trong khi đó, một số VB phi hư cấu 
lại chứa đựng những yếu tố tiền giả định, 
sự suy diễn hoặc điều tưởng tượng không 
thể xác minh, kiểm chứng. Điều đó có thể 
khiến người đọc hiểu sai bản chất của VB 
phi hư cấu. Vì thế thuật ngữ VB phi hư cấu 
có tính văn chương (literary non-fiction) 
được sử dụng trong quan hệ đối lập với 
khái niệm VB phi hư cấu thuần túy, để chỉ 
những VB phi hư cấu có sử dụng yếu tố 
văn chương. Những yếu tố có tính sáng tạo 
và văn chương thường được cho là không 
phù hợp với VB phi hư cấu nhưng vẫn xuất 
hiện và thường không làm mờ đi thông tin 
của VB. Sự đơn giản, sáng rõ và trực tiếp 
là những yêu cầu được đặt ra với VB phi 
hư cấu. Khái niệm này cũng được nhắc đến 
trong chương trình Tiếng Anh của Mỹ. 
3.1.2.2. Khái niệm văn bản thông tin 
Duke3 đã từng đưa ra định nghĩa về 
VBTT (informational text/ informative 
text) như sau: “Mục đích chính của VBTT 
là truyền tải thông tin về thế giới tự nhiên 
và xã hội, điển hình là từ những người 
được cho là biết thông tin đến những người 
được cho là không biết.” [6, tr.16]. Từ định 
nghĩa trên, Duke cho rằng VB tiểu sử, VB 
miêu tả các quy trình hay hướng dẫn các 
thao tác đều là VB phi hư cấu, không phải 
là VBTT vì mục đích chính của chúng là 
truyền tải thông tin về cuộc đời của một cá 
nhân hoặc hướng dẫn thao tác chứ không 
phải chuyển tải thông tin về một điều gì đó. 
Do đó “những VB phi hư cấu có tính chất 
kể chuyện hoặc là “những câu chuyện kể 
về sự thật” cũng là VB phi hư cấu chứ 
không phải là VBTT vì mục đích chính là 
kể về một sự kiện hoặc một chuỗi các sự 
kiện đã xảy ra.” [6, tr.16]. Từ đó, Duke đã 
khẳng định VBTT trình bày toàn bộ các 
phân lớp của sự vật (khác với tiểu sử, chỉ 
tập trung vào một cá thể, một cá nhân) và 
nhìn đối tượng theo cách phi thời gian 
(khác với tiểu sử, chỉ tập trung vào những 
điểm thời gian đặc biệt). Do đó, VBTT có 
nội dung bao quát hơn. Trên cơ sở ấy, 
nhóm nghiên cứu của Duke đã xác định các 
đặc điểm cơ bản của VBTT gồm: VB có sự 
trình bày và lặp lại của đề tài, chủ đề; miêu 
tả những thuộc tính và những sự kiện đặc 
thù; sử dụng cấu trúc so sánh/ tương phản 
và phân loại; sử dụng từ ngữ kỹ thuật; 
minh họa bằng thực tế hoặc hình ảnh; các 
chương mục; giúp đỡ, hỗ trợ, định hướng 
cho người đọc bằng mục lục, số trang, đề 
mục và những phương tiện hình ảnh đa 
dạng như biểu đồ, bảng biểu và sơ đồ. Vì 
vậy, việc đọc hiểu VBTT không đơn giản 
chỉ là đọc lần lượt theo từng dòng; mà còn 
phải đọc những sơ đồ, bảng biểu và suy 
nghĩ, tính toán; rồi tiếp tục đọc VB và xem 
xét lại sơ đồ, bảng biểu hoặc tính toán. 
Việc đọc cứ trở đi trở lại nhưng không theo 
đường thẳng; mà có thể tiến về phía trước 
rồi lại đọc lùi về sau và khai thác tối đa 
hiệu quả thông tin từ những phương tiện 
thể hiện đặc thù của loại VB này để giúp 
cho việc đọc hiểu sâu hơn, rõ ràng hơn. 
Chẳng hạn như trong VBTT, việc sử dụng 
hình ảnh, bảng biểu, sơ đồ hỗ trợ tích 
cực cho người đọc trong quá trình giải mã 
thông tin. Do vậy, người đọc cần được 
trang bị kỹ năng đọc hiểu loại công cụ này 
để có thể sẵn sàng giải mã chúng chứ 
không phải là bỏ qua chúng trong quá trình 
đọc. Về hình thức thể hiện của VBTT, theo 
Duke, có nhiều loại khác nhau. Có loại VB 
là sách (Vd: sách tham khảo, sách giáo 
khoa, sách chuyên ngành, sách viết về 
những thông tin mang tính quá trình) và 
những loại VB không phải là sách (Vd: tạp 
chí, báo, áp phích quảng cáo, trang web và 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 
30 
CD-ROM ). 
3.1.2.3. Khái niệm văn bản trình bày, 
bình luận 
Trong chương trình của một số quốc 
gia, khái niệm VB trình bày, bình luận 
(expository text) được sử dụng để thay thế 
cho khái niệm VB phi hư cấu hay VBTT. 
Khái niệm này xuất hiện trong cách nhìn 
nhị phân của một số tác giả về các loại VB, 
bao gồm narrative text (tạm dịch là VB 
trần thuật) và expository text (tạm dịch là 
VB trình bày, bình luận). Moss đã đưa ra 
cách định nghĩa expository text như sau: 
“Trong khi mục đích của “narrative text” 
là kể chuyện, thì mục đích của “expository 
text” là thông báo, miêu tả hoặc báo cáo, 
tường thuật. Trong “narrative text” thì tác 
giả sẽ tưởng tượng, hình dung ra nhân vật, 
sự kiện và sử dụng cấu trúc của một câu 
chuyện kể để tạo ra câu chuyện. Còn khi 
viết VBTT, tác giả sẽ tổ chức bài viết của 
mình theo hướng đạt đến những thông tin 
về chủ đề mà họ muốn hướng đến. Họ sẽ tổ 
chức, sắp xếp thông tin sao cho hợp lý và 
hấp dẫn bằng cách sử dụng các cấu trúc 
khác nhau của “expository text”. [] 
Những VB dạng “expository text” cũng có 
cấu trúc riêng của nó. Những cấu trúc này 
sẽ cung cấp cho người học một sơ đồ chỉ 
dẫn họ khám phá, tìm hiểu nội dung VB. Sự 
nhận thức của người học về cấu trúc và 
cách thức tổ chức của VB “expository 
text” càng lớn bao nhiêu thì việc họ nắm 
bắt thông tin của người viết sẽ càng nhanh 
hơn ấy nhiêu.”. [10, tr.712] 
3.1.2.4. Điểm thống nhất và khác biệt 
giữa các khái niệm 
Từ định nghĩa về các khái niệm, người 
viết nhận thấy tuy chương trình của các 
nước sử dụng những tên gọi khác nhau để 
định danh cho loại VB ấy nhưng nhìn 
chung các tên gọi đều được dùng để chỉ 
một loại VB có nội dung liên quan trực tiếp 
đến thế giới thực (không chứa những yếu 
tố hư cấu, tưởng tượng). Trong đó được sử 
dụng rộng rãi nhất là hai khái niệm VB phi 
hư cấu (non-fiction) và VB thông tin 
(informational text). 
Cả hai loại VB này đều được tạo lập từ 
những thông tin có thật. Có tác giả cho 
rằng hai khái niệm này đồng nhất với nhau, 
vậy nên họ thường dùng hai khái niệm này 
thay thế cho nhau. Nhưng cũng có một số 
nhà nghiên cứu như nhóm của Duke (2003) 
lại cho rằng hai khái niệm này không hoàn 
toàn đồng nhất với nhau, VBTT chỉ là một 
loại rất quan trọng của VB phi hư cấu vì 
VB phi hư cấu bao gồm tất cả các VB viết 
về những sự việc có thật. Theo Duke 
“VBTT khác với các loại khác của VB phi 
hư cấu ở mục đích, đặc điểm và hì ... ý chi tiết hỗ trợ; còn VB trình 
bày, bình luận (exposition) lại trình bày 
mối liên hệ giữa các lập luận (chẳng hạn 
như tiểu sử, các bài báo, tạp chí, tập san)” 
[9, tr.34]. 
- Chương trình Ngữ văn của Mỹ xác 
định VBTT (informational texts) được dạy 
với những loại cụ thể như: 
Trong chương trình từ mẫu giáo đến 
lớp 5, VBTT được xác định với những loại 
cụ thể như: “VB phi hư cấu có tính văn 
chương (Literacy Nonfiction) gồm tiểu sử 
và tự truyện; VB về lịch sử, khoa học 
(Historical, Scientific Texts) gồm sách viết 
về lịch sử, khoa học xã hội, khoa học tự 
nhiên và nghệ thuật; VB thuộc lĩnh vực kỹ 
thuật (Technical Texts) gồm những VB 
hướng dẫn, những mẫu đơn và những VB 
trình bày về nhiều lĩnh vực được thể hiện 
dưới dạng đồ thị, biểu đồ, sơ đồ hoặc dữ 
liệu thông tin đã được số hóa, v.v.” [5, 
tr.31]. 
Trong chương trình từ lớp 6 đến lớp 
12, VBTT chỉ còn được giảng dạy với một 
loại là VB phi hư cấu có tính văn chương 
(Literacy Nonfiction) được chia thành 
những tiểu loại cụ thể như: “những kiểu VB 
giải thích; VB thể hiện sự tranh luận; VB 
chức năng dưới hình thức những bài tiểu 
luận, những bài phát biểu, nói chuyện, 
những mẩu ý kiến cá nhân; bài tiểu luận về 
nghệ thuật hay văn học; tiểu sử; tự truyện; 
bài báo; VB miêu tả; báo cáo về các vấn 
đề lịch sử, khoa học, kỹ thuật hoặc kinh tế 
(bao gồm cả những nguồn tư liệu đã được 
số hóa) dành cho đại chúng.” [5, tr.57] 
- Chương trình Ngữ văn của Úc quy 
định các kiểu loại cụ thể của VBTT 
(informative texts) và VB thuyết phục 
(persuasive texts) như sau: 
VB thông tin (informative text): “Loại 
văn bản này bao gồm những kiểu VB cụ thể 
như VB giải thích và miêu tả các hiện 
tượng tự nhiên, VB thuật lại các sự kiện, 
VB hướng dẫn, VB trình bày các quy tắc và 
luật lệ, quy định cũng như những VB tường 
thuật tin tức ngắn gọn.” [1, tr.200]. 
VB thuyết phục (persuasive text): 
“Loại VB này bao gồm những VB quảng 
cáo; những VB thể hiện sự tranh luận, thảo 
luận; những bài bút chiến, luận chiến; 
những bài luận có sức thuyết phục và cả 
những bài báo.” [1, tr.200]. 
Từ đó, có thể nhận thấy trong chương 
trình Ngữ văn của một số nước, VBTT 
được dạy với sự đa dạng về kiểu loại. Mặc 
dù đa dạng về kiểu loại nhưng nhìn chung 
đó đều là những VB có nội dung liên quan 
trực tiếp đến thế giới thực, không mang 
màu sắc hư cấu, tưởng tượng. Tuy nhiên, 
chương trình Ngữ văn của Mỹ đã có một 
số sự khác biệt khi xếp những VB thể hiện 
sự tranh luận vào nhóm VBTT trong khi 
chương trình của Úc lại gọi kiểu VB ấy là 
NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
33 
VB thuyết phục, còn chương trình 
Singapore lại xếp nó vào nhóm VB trình 
bày, bình luận và các nước thường đặt 
kiểu VB này trong thế tương quan với 
VBTT. Chương trình Ngữ văn của Việt 
Nam sau năm 2018 cũng đã xác định VB 
nghị luận là một loại VB riêng mà người 
học cần phải tìm hiểu bên cạnh VB văn 
học, VBTT. Ngoài ra, chương trình Mỹ 
cũng đã xác định rõ VB không liên tục 
(VB có thông tin được trình bày dưới dạng 
đồ thị, biểu đồ, sơ đồ, số hóa) cũng là 
một dạng của VBTT – điều mà chương 
trình của một số nước chưa đề cập đến 
một cách tường minh. 
3.2.3. Định hướng về chuẩn đầu ra 
của việc dạy học văn bản thông tin 
Trong chương trình Ngữ văn của một 
số nước, chuẩn đầu ra của việc dạy học 
VBTT được thiết kế rất chi tiết, cụ thể; chủ 
yếu hướng đến việc hình thành và rèn 
luyện năng lực tiếp nhận và tạo lập VBTT 
cho người học. 
- Chương trình Ngữ văn của Singapore 
đã xác định rõ những kỹ năng, chiến lược, 
thái độ và hành vi cần phải đạt được khi 
đọc và quan sát VBTT (informational 
texts)/ VB chức năng (functional texts) ở 
bậc trung học như sau: 
+ Về bố cục VB: Xác định những đặc 
điểm thuộc về kỹ thuật in ấn và trực quan; 
xác định những đặc điểm của VB; nhận 
diện mô hình cấu trúc của VB. 
+ Về sự phản hồi đối với VB: Dự đoán 
nội dung của VB dựa vào kiến thức nền; 
những đặc điểm thuộc về kỹ thuật in ấn và 
trực quan; mô hình và cấu trúc tổ chức VB. 
+ Giải thích những dự đoán về nội 
dung của VB có thể chấp nhận được không 
hay phải thay đổi, điều chỉnh. Tại sao? 
+ Trình bày lại ý tưởng chính và 
những chi tiết quan trọng. 
+ Kiểm tra/ nghiên cứu những ý kiến 
tranh luận, trái chiều đối với một vấn đề, 
bao gồm cả chất lượng của những tranh 
luận ấy. 
+ Xác định và đưa ra những bằng 
chứng chứng minh cho những tranh luận, 
gồm có: sự kiện; nguyên nhân; yêu cầu đặt 
ra đối với những người có thẩm quyền; sử 
dụng phương pháp logic trong tranh luận. 
+ Nhận xét cách sử dụng ngôn ngữ của 
tác giả đã thay đổi như thế nào cho phù 
hợp với mục đích và đối tượng hướng đến 
của VB để đạt hiệu quả như mong muốn. 
[9, tr.45] 
- Trong chương trình Ngữ văn của Mỹ, 
mục tiêu cần đạt của việc dạy học VBTT 
chủ yếu cũng hướng đến kỹ năng đọc hiểu. 
Chẳng hạn, việc đọc hiểu VBTT ở lớp 9 – 
10 cần phải đạt được những kết quả sau: 
 “Về ý chính và chi tiết: trích dẫn 
được những chứng cứ mạnh mẽ và xuyên 
suốt VB để củng cố cho kết quả phân tích 
đã được thể hiện rõ trong VB cũng như kết 
quả suy luận từ VB; xác định được ý chính 
của VB và phân tích sự phát triển của ý 
chính qua diễn biến của VB, bao gồm cả 
việc nó hiện lên nổi bật như thế nào trong 
VB và được chắt lọc, định hình như thế nào 
qua những chi tiết cụ thể; cung cấp được 
một bản tóm tắt khách quan về VB; phân 
tích xem tác giả đã sắp xếp và phân tích hệ 
thống các ý kiến và sự kiện như thế nào, 
bao gồm cả trật tự sắp xếp, cách giới thiệu 
và phát triển các quan điểm cũng như sự 
nối kết giữa các ý kiến và sự kiện đó. 
Về kỹ xảo ngôn ngữ được sử dụng 
trong VB và cấu trúc VB: xác định được ý 
nghĩa của từ ngữ được sử dụng trong VB, 
bao gồm ý nghĩa ẩn dụ, ý nghĩa mở rộng, 
và cả ý nghĩa chuyên môn; phân tích được 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 
34 
những tác động cộng hưởng của việc lựa 
chọn từ ngữ đối với ý nghĩa và giọng điệu 
của VB; phân tích chi tiết những ý kiến và 
sự khẳng định của tác giả đã được phát 
triển và chắt lọc như thế nào qua những 
câu văn, đoạn văn đặc biệt hoặc là từ 
những bộ phận lớn hơn câu, đoạn; xác 
định được quan điểm hoặc mục đích của 
tác giả qua VB và phân tích được tác giả 
đã sử dụng hình thức tu từ nào để phát 
triển quan điểm hoặc mục đích của mình 
” [5, tr.40]. 
- Trong chương trình Ngữ văn của Úc, 
VBTT được dạy chủ yếu ở phần kiến thức 
về ngôn ngữ (Language) và phần kỹ năng 
đọc viết (Literacy). Chuẩn đầu ra của việc 
dạy VBTT trong chương trình của Úc 
không được tách thành phần riêng như 
trong chương trình Ngữ văn của Singapore 
và Mỹ. Trong phần kiến thức về ngôn ngữ 
(Language), học sinh thường được học về 
VBTT qua những hiểu biết liên quan đến 
cấu trúc và tổ chức của VB, cách thức sử 
dụng ngôn ngữ để thể hiện và phát triển ý 
tưởng. Còn ở phần kỹ năng đọc viết 
(Literacy), chuẩn đầu ra đối với việc dạy 
học VBTT là những nội dung liên quan 
đến kỹ năng đọc và viết VB trong ngữ 
cảnh, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong sự 
tương tác với những cá nhân khác, kỹ năng 
hiểu – phân tích – đánh giá các ý kiến, 
thông tin, vấn đề từ nhiều nguồn khác nhau 
và kỹ năng tạo lập VB. Ở đây, chúng tôi 
xin nêu ra một số ví dụ cụ thể về chuẩn đầu 
ra trong chương trình Ngữ văn lớp 6 của 
Úc mà chúng tôi cho rằng có liên quan đến 
việc dạy học VBTT: 
“Tìm hiểu đa dạng các loại VB từ VB 
hàng ngày, VB hành chính, VB văn học và 
VBTT; thảo luận về những yếu tố liên 
quan đến cấu trúc VB và những đặc điểm 
ngôn ngữ; so sánh cấu trúc tổng thể và 
hiệu quả sự lựa chọn của tác giả ở hai hay 
nhiều VB.” [1, tr.108] 
 “Quan sát xem chuỗi các sự kiện liên 
tiếp được thể hiện bằng những phương tiện 
hình ảnh như thế nào, bao gồm cả những 
tranh hài hước, chuỗi hình ảnh được sắp 
xếp theo dòng thời gian, những biểu đồ có 
tính quá trình, biểu đồ phát triển, biểu đồ 
chu trình, chuỗi hình ảnh trong những 
quyển sách hình ảnh.” [1, tr.110] 
 “So sánh nhiều VB với nhau bao gồm 
cả những VB đa phương tiện để tìm hiểu 
các cách khác nhau mà các VB đã sử dụng 
để trình bày ý kiến và sự kiện.” [1, tr.114] 
Từ việc khảo sát ấy, chúng tôi nhận 
thấy chuẩn đầu ra được xác định rõ là vừa 
cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ 
bản về loại VB này, vừa phát triển cho các 
em những kỹ năng cụ thể để tương tác với 
loại VB này trong cuộc sống, đó là những 
kỹ năng liên quan đến việc tạo lập và tiếp 
nhận VB trong hoạt động giao tiếp, cụ thể 
là kỹ năng đọc và viết. Do đó, có thể nói 
chương trình dạy học VBTT ở một số 
nước đã hướng đến việc phát triển năng 
lực tạo lập và tiếp nhận loại VB này cho 
người học. 
3.3. Một số gợi ý từ việc khảo sát 
chương trình dạy học văn bản thông tin 
của một số nước trên thế giới 
Thứ nhất, trong chương trình Ngữ văn 
của chúng ta sau năm 2018, VBTT nên 
được cân nhắc giảng dạy ở một mức độ 
phù hợp với vị trí quan trọng của loại VB 
này trong cuộc sống. Nếu chúng ta chỉ coi 
trọng VB văn học mà quên đi vai trò của 
VBTT trong việc chuẩn bị kỹ năng đọc 
hiểu cho học sinh thì các em sẽ gặp nhiều 
khó khăn trong công việc và cuộc sống khi 
VBTT là đối tượng mà các em phải tiếp 
NGUYỄN THỊ NGỌC THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
35 
cận nhiều hơn và thường xuyên hơn. 
Thứ hai, khi thiết kế nội dung giảng 
dạy VBTT trong chương trình Ngữ văn sau 
năm 2018, các tác giả sách giáo khoa nên 
lưu ý đến tính đa dạng của kiểu loại VB 
này để giúp học sinh tiếp cận càng nhiều 
kiểu loại VBTT cụ thể càng tốt vì đây chủ 
yếu là những dạng VB mà các em tiếp xúc 
hàng ngày. Đó cũng là một trong những 
tiêu chí để học sinh cảm thấy môn Ngữ văn 
thiết thực, gắn bó chặt chẽ với cuộc sống 
và công việc của họ. 
Thứ ba, việc dạy học đọc hiểu loại VB 
này trong chương trình hiện hành ở nước ta 
tuy có được đề cập đến nhưng tỷ lệ chưa 
tương xứng với vai trò quan trọng của VB 
trong cuộc sống. Trong chương trình Ngữ 
văn trung học phổ thông hiện hành của 
nước ta, VBTT được thể hiện dưới hình 
thức những VB cung cấp cho người học 
thông tin liên quan đến lịch sử văn học, lý 
luận văn học và những vấn đề cấp thiết 
trong cuộc sống4. Theo quan niệm của 
chương trình hiện hành, VB nghị luận sẽ 
được nhìn nhận như một tiểu loại trong VB 
văn học. Vì vậy nếu quan niệm VBTT là 
những VB chủ yếu dùng để cung cấp thông 
tin thì tỷ lệ xuất hiện của loại VB này trong 
nội dung dạy học đọc hiểu của bộ sách giáo 
khoa Ngữ văn Cơ bản bậc trung học phổ 
thông được thể hiện như sau: 
Khối 
lớp 
Tỷ lệ VBTT 
(không bao gồm VB nghị luận) 
10 17.4% 
11 14.6% 
12 17.5% 
Những con số thống kê cho thấy sự 
xuất hiện của VBTT trong chương trình 
đọc hiểu hiện nay của nước ta chiếm tỷ lệ 
khá khiêm tốn trong toàn bộ hệ thống VB 
bắt buộc của chương trình Ngữ văn trung 
học phổ thông. Hơn nữa, đây vẫn là những 
bài học được thiết kế trong mạch chương 
trình theo định hướng nội dung nên mục 
tiêu chủ yếu vẫn là tìm hiểu nội dung của 
VB chứ chưa hướng đến việc hướng dẫn 
người học hình thành và phát triển năng 
lực đọc hiểu VBTT. Chẳng hạn như mức 
độ cần đạt của nhóm VB liên quan đến vấn 
đề quá trình văn học ở lớp 10 đã được 
chương trình xác định như sau: “Hiểu được 
những nét chính về quá trình phát triển và 
những đặc điểm cơ bản của văn học Việt 
Nam; hiểu được những nét chính về đặc 
trưng và giá trị của văn học dân gian Việt 
Nam; hiểu được những nét chính về quá 
trình phát triển, đặc điểm và thành tựu cơ 
bản” [2, tr.153]. Nhìn chung, cách tiếp cận 
ấy chủ yếu vẫn hướng đến nội dung của 
VB. Vì thế từ kinh nghiệm xây dựng 
chương trình dạy học VBTT của một số 
nước, chúng tôi hi vọng rằng chương trình 
của chúng ta sau năm 2018 sẽ chú ý nhiều 
hơn đến việc dạy loại VB này theo hướng 
phát triển năng lực cho người học. 
4. Kết luận 
Trên cơ sở khảo sát việc dạy học 
VBTT trong chương trình Ngữ văn của 
một số nước trên thế giới, chúng tôi tiến 
hành xác lập các khái niệm liên quan đến 
VBTT và tìm hiểu định hướng dạy học 
VBTT trong chương trình của các nước ấy. 
Từ đó, chúng tôi đã đưa ra những gợi ý đối 
với việc dạy học VBTT trong chương trình 
Ngữ văn ở nước ta sau năm 2018. Những 
định hướng ấy được hi vọng góp phần làm 
nên những thay đổi căn bản của chương 
trình Ngữ văn sau năm 2018, hướng đến 
việc phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ 
cho học sinh. 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 62 (02/2019) 
36 
Chú thích: 
1 Một trong hai mục tiêu quan trọng trong CT 
Tiếng Anh của Singapore là: “Nghe, đọc và 
quan sát với thái độ phê phán, đánh giá, sự 
chính xác; hiểu và đánh giá được những VB 
thuộc hai loại VB là VB văn học và VB thông 
tin/ VB chức năng ở cả dạng VB in và VB đa 
phương tiện.” [9, tr.10] 
2 Khái niệm về từng loại VB được xác định 
dựa theo mục đích của VB, trong đó VB 
thông tin và VB thuyết phục được định nghĩa 
như sau: 
 VB thông tin (informative text): “là những VB 
mà mục đích chính là cung cấp thông tin. 
Chúng bao gồm những VB có nội dung quan 
trọng về phương diện văn hóa trong xã hội và 
nội dung thông tin có thể được đánh giá như 
một kho lưu trữ tri thức hoặc chỉ là một phần 
của cuộc sống hàng ngày.” [1, tr.200] 
 VB thuyết phục (persuasive text): “là những 
VB mà mục đích chính là đưa ra một quan 
điểm và thuyết phục người đọc, người xem 
hoặc người nghe.” [1, tr.200] 
3 Theo Duke và Tower (2004), VB phi hư cấu 
được chia thành 5 loại như sau: VBTT, sách 
trình bày khái niệm, VB miêu tả quá trình, 
tiểu sử và những VB là tài liệu tham khảo. 
Cách sử dụng thuật ngữ VBTT (informational 
text) của họ hẹp hơn cách mà các nhà nghiên 
cứu khác vẫn thường sử dụng. 
4 Trong chương trình Ngữ văn hiện hành (ban 
hành năm 2006), những VB đề cập đến 
những vấn đề cấp thiết trong cuộc sống được 
gọi là VB nhật dụng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. ACARA (2018), The English – The 
Australian Curriculum. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương 
trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương 
trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn. 
4. California Department of Education (2007), 
Language Arts Framework for California 
Public Schools (Kindergarten Through 
Grade Twelve). 
5. Common Core State Standards Initiative 
(2017), Common core standards for English 
language arts & literacy in history/social 
studies, science, and technical subjects. 
6. Duke, N. K. (2003), Reading and writing 
informational text in the primary grades, 
Scholastic Teaching Resources. 
7. GOV.UK (2013), The National Curriculum 
in England (Framework Document).. 
8. Maloch, B., & Bomer, R. (2013), 
“Informational texts and the common core 
standards: What are we talking about, 
anyway?”, Language Arts, 90(3), 205. 
9. Ministry of Education Singapore (2010), 
English Language Syllabus 2010 - Primary 
& Secondary (Express/ Normal [Academic]). 
10. Moss, B. (2004), “Teaching expository text 
structures through information trade book 
retellings”, The reading teacher, 57(8), 710-
718. 
11. New Zealand Ministry of Education (2013), 
The New Zealand Curriculum. 
12. Wikipedia, the free encyclopedia. Non-fiction. 
Ngày nhận bài: 20/7/2016 Biên tập xong: 15/02/2019 Duyệt đăng: 20/02/2019 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_khai_niem_va_dinh_huong_day_hoc_van_ban_thong_tin_tro.pdf