Vấn đề định giá chuyển giao ở các quốc gia đang phát triển: Phân tích khả năng áp dụng APA tại Việt Nam

Định giá chuyển giao là thuật ngữ dùng để nói về việc định giá các giao dịch về tài sản hoặc dịch

vụ xuyên biên giới, giữa các bên có liên quan trong nội bộ doanh nghiệp (được gọi là các doanh nghiệp liên kết hoặc các bên liên kết). Những giao dịch này được gọi là những giao dịch “có kiểm soát”, khác với loại giao dịch tự do giữa các bên độc lập (dựa trên giá thị trường). Cấu trúc của các giao dịch nội bộ trong một công ty đa quốc gia bị tác động bởi các yếu tố thị trường lẫn nội bộ công ty, các yếu tố này lại khác với các điềukiện thị trường mở giữa các công ty độc lập. Ngày càng nhiều giaodịch quốc tế không còn bị ch phối hoàn toàn bởi các tác nhân thị trường nữa, mà bị tác động bởi lợi ích chung của các thực thể trong cùng tập đoàn. Vì vậy việc định giá chuyển giao cho các giao dịch này là chuyện bình thường trong hoạt động của các công ty đa quốc gia, không nhất thiết dẫn tới việc tránh thuế. Trừ khi việc định giá này không tuân theo những quy ước quốc tế hoặc không tuân theo nguyên tắc giá thị trường mà luật thuế nội địa đặt ra thì khi đó mới được xem là hành vi định giá sai, định giá không thỏa đáng hay định giá

không theo nguyên tắc giá thị trường. Từ đó, chúng ta mới xét đền vấn đề trốn thuế hay tránh thuế của các giao dịch liên kết.

pdf 5 trang kimcuc 20340
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề định giá chuyển giao ở các quốc gia đang phát triển: Phân tích khả năng áp dụng APA tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề định giá chuyển giao ở các quốc gia đang phát triển: Phân tích khả năng áp dụng APA tại Việt Nam

Vấn đề định giá chuyển giao ở các quốc gia đang phát triển: Phân tích khả năng áp dụng APA tại Việt Nam
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
58
1. Định giá chuyển giao
Định giá chuyển giao là thuật 
ngữ dùng để nói về việc định giá 
các giao dịch về tài sản hoặc dịch 
vụ xuyên biên giới, giữa các bên 
có liên quan trong nội bộ doanh 
nghiệp (được gọi là các doanh 
nghiệp liên kết hoặc các bên liên 
kết). Những giao dịch này được 
gọi là những giao dịch “có kiểm 
soát”, khác với loại giao dịch tự 
do giữa các bên độc lập (dựa trên 
giá thị trường).
Cấu trúc của các giao dịch 
nội bộ trong một công ty đa quốc 
gia bị tác động bởi các yếu tố thị 
trường lẫn nội bộ công ty, các 
yếu tố này lại khác với các điều 
kiện thị trường mở giữa các công 
ty độc lập. Ngày càng nhiều giao 
dịch quốc tế không còn bị chi 
phối hoàn toàn bởi các tác nhân 
thị trường nữa, mà bị tác động 
bởi lợi ích chung của các thực 
thể trong cùng tập đoàn. Vì vậy 
việc định giá chuyển giao cho 
các giao dịch này là chuyện bình 
thường trong hoạt động của các 
công ty đa quốc gia, không nhất 
thiết dẫn tới việc tránh thuế. Trừ 
khi việc định giá này không tuân 
theo những quy ước quốc tế hoặc 
không tuân theo nguyên tắc giá 
thị trường mà luật thuế nội địa 
đặt ra thì khi đó mới được xem 
là hành vi định giá sai, định giá 
không thỏa đáng hay định giá 
không theo nguyên tắc giá thị 
trường. Từ đó, chúng ta mới xét 
đền vấn đề trốn thuế hay tránh 
thuế của các giao dịch liên kết.
Khi việc đánh thuế với một 
giao dịch quốc tế xảy ra thì sẽ liên 
quan đến các thành viên trong 
cùng tập đoàn đa quốc gia và các 
cơ quan thuế của các quốc gia 
tương ứng. Các tình huống đánh 
thuế giữa hai quốc gia luôn gặp 
phải là những vấn đề về quyền 
đánh thuế, phân phối thu nhập và 
xác định giá trị tính thuế của các 
giao dịch tương ứng, chẳng hạn: 
Chính phủ nước nào sẽ đánh thuế 
thu nhập của các đối tượng tham 
gia giao dịch, và chuyện gì xảy ra 
nếu cả hai chính phủ đều muốn 
đánh thuế lên cùng khoản thu 
nhập đó. Các vấn đề thuế quốc 
tế, nhất là những vấn đề liên 
quan đến định giá chuyển giao 
đặt ra rất nhiều thách thức, mà sự 
phức tạp và quy mô của chúng 
thường làm nản lòng những cơ 
quan quản lý thuế cỡ nhỏ. Vì vậy, 
việc ban hành các quy định về 
giá chuyển giao rất cần thiết cho 
các quốc gia để bảo vệ cơ sở tính 
thuế của họ, để tránh đánh thuế 
hai lần và để cải thiện giao dịch 
quốc tế. Đối với các quốc gia 
đang phát triển, các quy định về 
định giá chuyển giao là cần thiết 
để tạo ra một môi trường chắc 
chắn cho trao đổi quốc tế, đồng 
thời đảm bảo không mất nguồn 
thu từ thuế.
2. các nguyên tắc điều chỉnh giá 
chuyển giao nội bộ của các giao 
dịch liên kết
2.1. Nguyên tắc giá thị trường
Bản thân thuật ngữ giá thị 
trường không phải là thuật ngữ 
được chính thức đề cập trong 
Khoản 1, Điều 9 của Công ước 
Vấn đề định giá chuyển giao ở 
các quốc gia đang phát triển: Phân tích 
khả năng áp dụng APA tại Việt Nam
THS. ĐặnG THị BạcH Vân & THS. Lê THùy GianG 
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Bài viết này tập trung nghiên cứu về chủ đề định giá chuyển giao và những quan ngại thực tế xung quanh chủ đề này ở các quốc gia đang phát triển. Bên cạnh đó, bài viết cũng lưu 
ý một số vấn đề khi bước đầu thực hiện cơ chế thỏa thuận giá trước 
(APA) ở VN.
Từ khoá: Định giá chuyển giao, cơ chế thoả thuận giá trước 
(APA), Việt Nam.
Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
59
mẫu về thuế của Liên Hiệp 
Quốc, nhưng nó được chấp nhận 
rộng rãi bởi các quốc gia tuân 
thủ Điều 9 này và được lý giải 
đôi chút khác nhau tùy vào thực 
tế mỗi nước. Ngay cả các hướng 
dẫn của OECD về việc xác định 
giá thị trường cho các giao dịch 
liên kết cũng dựa trên nguyên tắc 
này
Cơ sở của nguyên tắc giá thị 
trường là thị trường chi phối hầu 
hết các giao dịch trong nền kinh 
tế nên ta có thể coi các giao dịch 
nội bộ tương đương với các giao 
dịch giữa các thực thể độc lập. 
Theo nguyên tắc giá thị trường, 
giá của các giao dịch nội bộ được 
kiểm tra và có thể bị điều chỉnh 
nếu giá chuyển giao đi chệch 
ra khỏi mức giá trong những 
giao dịch thị trường. Các giao 
dịch liên kết phải được so sánh 
với các giao dịch độc lập trong 
những điều kiện tương đương để 
từ đó xác định mức giá chuyển 
giao hợp lý. Do đó, những thực 
thể độc lập trong thị trường là 
cơ sở, là mốc để xác định giá 
chuyển giao hợp lý cho những 
giao dịch liên kết có liên quan tới 
nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, việc áp 
dụng giá thị trường vào thực tế 
là một việc làm phức tạp, đòi hỏi 
phải xác định được những giao 
dịch thị trường đáng tin cậy có 
thể so sánh được. Ngoài ra, các 
bên có liên quan, nhất là cơ quan 
thuế các nước cần nhận thức rõ 
một thực tế là có rất nhiều yếu 
tố ảnh hưởng đến giá thị trường, 
các yếu tố này có thể là do chính 
sách, quy định của chính phủ cho 
đến dòng luân chuyển vốn của 
các thực thể trong cùng một tập 
đoàn đa quốc gia.
Việc tính toán giá thị trường dựa 
trên phân tích định giá chuyển giao 
là một công việc phức tạp. Công 
việc này đòi hỏi nỗ lực và thiện 
chí từ cả bên người nộp thuế lẫn cơ 
quan thuế xét về các mặt giấy tờ, 
cơ sở, phân tích và nghiên cứu; các 
dữ liệu so sánh đóng vai trò quan 
trọng. Vấn đề chính là làm sao áp 
dụng nguyên tắc giá thị trường 
vào thực tiễn để tính ra được giá 
thị trường của một giao dịch. Có 
một vài phương pháp định giá thị 
trường chấp nhận được, tạo ra cơ 
sở để tính giá thị trường, chẳng hạn 
phương pháp so sánh giá giao dịch 
độc lập, phương pháp giá bán lại 
và phương pháp giá vốn cộng lãi. 
Không có phương pháp duy nhất 
nào phù hợp với mọi tình huống 
và người nộp thuế phải lựa chọn 
phương pháp mà họ cho là sát với 
giá thị trường nhất cho giao dịch 
đang xét đến.
Nguyên tắc giá thị trường được 
xem là nguyên tắc truyền thống, đã 
và đang được chấp nhận rộng rãi 
và đưa vào các quy định về định 
giá chuyển giao ở nhiều nơi trên 
thế giới. Quá trình xác định giá thị 
trường thường gồm các bước sau:
- So sánh tính tương đương giữa 
giao dịch liên kết với giao dịch độc 
lập
- Đánh giá giao dịch
- Đánh giá từng giao dịch riêng 
lẻ và các giao dịch kết hợp
- Sử dụng biên độ giá trị trường 
hay trung vị của biên độ
- Sử dụng dữ liệu thu thập được 
qua nhiều năm
- Xem xét các khoản lỗ
- Xem xét các khoản tiết kiệm 
và tiền thuê địa điểm
- Xem xét xác khoản bù trừ có 
chủ đích và
- Sử dụng định giá hải quan
2.2. Phương pháp phân chia lợi 
nhuận toàn cầu
Bên cạnh nguyên tắc giá thị 
trường, phương pháp phân chia 
lợi nhuận toàn cầu cũng được sử 
dụng để giải quyết vấn đề định 
giá chuyển giao của các giao dịch 
liên kết. Phương pháp này phân bổ 
lợi nhuận toàn cầu giữa các doanh 
nghiệp liên kết của một tập đoàn 
đa quốc gia dựa trên một công thức 
điều chỉnh nhiều hệ số (chẳng hạn 
như tài sản, chi phí hoặc doanh thu, 
..).
Có hai kiểu phương pháp dựa 
trên lợi nhuận giao dịch được đưa 
ra trong quy định về thuế của cơ 
quan thuế Mỹ và trong hướng dẫn 
của OECD, đó là Phương pháp so 
sánh lợi nhuận (phương pháp lợi 
nhuận ròng giao dịch, TNMM, 
hay phương pháp lợi nhuận tương 
đương CPM) và phương pháp tách 
lợi nhuận.
Như đã nói, ba phương pháp 
đầu tiên (CUP, RPM, CM) thường 
được gọi là phương pháp “giao 
dịch truyền thống” còn hai phương 
pháp cuối được gọi là “phương 
pháp lợi nhuận giao dịch” hay 
phương pháp “dựa trên lợi nhuận”. 
càng ngày người ta càng coi trọng 
các phương pháp dựa trên lợi 
nhuận. Tất cả những phương pháp 
này được chấp nhận rộng rãi tại cơ 
quan thuế của các nước.
2.3. Vấn đề định giá chuyển giao 
trong quy định thuế nội địa
Điều 9 (“Doanh nghiệp liên 
kết”) trong các hiệp ước thuế thường 
chỉ quy định những điều kiện cơ 
bản để điều chỉnh giá chuyển giao 
và những điều chỉnh tương ứng 
nhằm hạn chế hiện tượng đánh 
thuế hai lần. Điều này đề xuất việc 
áp dụng nguyên lý giá thị trường 
nhưng không nói cụ thể các quy tắc 
tính giá chuyển giao. Vì vậy, người 
ta thường hiểu là Điều 9 không áp 
dụng vào nội địa – nó không tạo ra 
một cơ chế định giá chuyển giao 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
60
tại một quốc gia nơi mà một cơ chế 
như vậy chưa tồn tại.
Tuy nhiên, các cơ chế định giá 
chuyển giao là sản phẩm của luật 
thuế nội địa và mỗi quốc gia cần 
phải đưa ra những quy định chi 
tiết của nước mình để thực thi các 
quy định về định giá chuyển giao. 
Nhiều quốc gia đã thông qua các 
quy định về định giá chuyển giao 
nội địa nhưng chúng lại giới hạn 
việc áp dụng những quy định đó 
chỉ đối với các giao dịch liên kết 
quốc tế mà thôi. Quan trọng là 
chúng ta để ý định nghĩa về “doanh 
nghiệp liên kết” được dựa trên tình 
hình trong nước và như thế nó có 
sự biến đổi theo từng nước. Ví 
dụ, phần lớn các quốc gia sử dụng 
những tiêu chuẩn kết hợp để đánh 
giá những người nộp thuế như vậy, 
đó là sự kết hợp về tiêu chuẩn cổ 
đông tối thiểu (thường là bằng 
hoặc hơn 50%) và kiểm soát có 
hiệu quả bằng bất kỳ nhân tố nào 
khác (Sự phụ thuộc vào những điều 
kiện tài chính, nhân sự và thương 
mại). Tiêu chí De Minimis (Mức 
tối thiểu) để tính giá trị giao dịch 
các bên có liên kết cũng có tồn tại. 
Nói cách khác, một số giao dịch có 
thể được coi là nhỏ tới mức mà chi 
phí tuân thủ hay chi phí thu thuế 
không bù đắp được cho việc áp 
dụng các quy tắc định giá chuyển 
giao, nhưng nó sẽ không cho phép 
những giao dịch trong thực tế lớn 
hơn được tách thành những giao 
dịch nhỏ hơn để tránh áp dụng luật 
thuế tối thiểu này. 
Việc quy định về ngưỡng an 
toàn - những quy định trong đó nếu 
lợi nhuận mà người nộp thuế báo 
cáo có đúng nằm trong khoảng, 
phần trăm hay dưới một mức nào 
đó, thì người nộp thuế sẽ không 
phải tuân theo một quy định phức 
tạp - chỉ có thể được sử dụng bởi 
người nộp thuế tùy theo họ chọn. 
Việc áp dụng ngưỡng an toàn cũng 
có rủi ro, chẳng hạn như việc đặt 
ra tham số hay ngưỡng, vốn chủ sở 
hữu và các vấn đề đồng nhất cũng 
có khi rất tùy tiện, không tương 
thích với nguyên tắc giá thị trường, 
các cơ hội lên kế hoạch thuế và 
trốn thuế, và các rủi ro tiềm năng 
về đóng thuế hai lần. Trong bất kỳ 
trường hợp nào, để nhất quán với 
mục đích của tài liệu này, việc giới 
thiệu quy định về ngưỡng an toàn 
sẽ liên quan tới việc phân tích liệu 
những lợi ích về đơn giản thủ tục 
hành chính khi áp dụng ngưỡng an 
toàn có thể bù đắp cho chi phí phát 
sinh khi áp dụng một luật lệ khác 
với nguyên tắc giá thị trường hay 
không.
2.4. Điều khoản tập đoàn nước 
ngoài có kiểm soát
Một số quốc gia thực hiện quy 
định về tập đoàn nước ngoài có 
kiểm soát (CFC). Các quy định 
CFC được thiết kế để ngăn chặn 
việc nộp chậm thuế hay tránh thuế 
của các đơn vị nộp thuế sử dụng 
những tập đoàn nước ngoài trong 
đó chúng đóng vị trí là cổ đông nắm 
quyền kiểm soát trong những nước 
có thuế suất thấp và “đạt” thu nhập 
tại các nước đó. Các quy định CFC 
coi nguồn thu nhập này như thể nó 
đã được quay trở về nước và do đó 
phải chịu thuế trước khi nguồn thu 
nhập đó chuyển về nước thật sự. Ở 
nơi áp dụng cả quy định CFC lẫn 
như quy định về định giá chuyển 
giao, một câu hỏi quan trọng nảy 
sinh là quy định này được ưu 
tiên hơn trong việc điều chỉnh lợi 
nhuận của người nộp thuế. Do các 
quy định về định giá chuyển giao 
giả định là mọi giao dịch ban đầu 
đều được thực hiện dưới nguyên 
tắc giá thị trường, nên người ta 
thường cho rằng các quy định về 
định giá chuyển giao nên được ưu 
tiên áp dụng trước quy định CFC. 
Sau khi áp dụng các quy định về 
định giá chuyển giao, các quốc gia 
có thể áp dụng quy định CFC vào 
phần lợi nhuận mà các công ty con 
nước ngoài giữ lại.
2.5. Vấn đề “vốn chủ sở hữu 
thấp” – Thin Capitalization
Khi vốn của một công ty được 
thành lập mà có số tiền vay lớn hơn 
số vốn chủ sở hữu, thì người ta gọi 
doanh nghiệp đó có “vốn mỏng”. 
Theo quan điểm về thuế, khi cung 
cấp tài chính bằng cách đi vay cho 
một công ty sẽ có lợi hơn là đóng 
góp vốn chủ sở hữu bởi vì tiền lãi 
vay có thể được khấu trừ vào tiền 
thuế còn cổ tức trả cho cổ đông 
thì không được khấu trừ. Để khiến 
cho các công ty không thể tránh 
thuế bằng cách này, nhiều nước 
đã áp dụng các luật lệ ngăn chặn 
tình trạng “vốn mỏng”, bằng cách 
đưa ra một tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở 
hữu tối đa. Các cơ quan thuế của 
quốc gia thường áp dụng những 
quy định đặt giới hạn lên số tiền lãi 
vay có thể được khấu trừ thuế khi 
tính lợi nhuận của công ty. Những 
quy định như vậy được đặt ra sao 
cho chúng tránh được việc chuyển 
lợi nhuận ra nước ngoài thông qua 
hình thức vay lớn, và do đó sẽ giúp 
quốc gia bảo vệ được cơ sở tính 
thuế của mình. Từ quan điểm làm 
chính sách, nếu không kiểm soát 
được các khoản trả tiền lãi vay của 
các doanh nghiệp liên kết thì các 
công ty đa quốc gia sẽ lợi dụng kẽ 
hở này và có lợi thế hơn các công 
ty trong nước không có được ưu 
thế đó.
2.6. Chuẩn bị hồ sơ
Một vấn đề quan trọng khác 
khi triển khai luật thuế nội địa đó 
là yêu cầu về hồ sơ liên quan tới 
chuyển giá. Cơ quan thuế cần rất 
Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
61
nhiều loại văn bản kinh doanh để 
áp dụng nguyên tắc giá thị trường 
cho từng kiểu loại đơn vị nộp thuế 
cụ thể. Tuy nhiên, tùy quy định 
thì lại đòi hỏi những giấy tờ khác 
nhau, mức hình phạt khác nhau và 
đơn vị chức năng cấp nào có quyền 
đòi những giấy tờ này nếu đơn vị 
nộp thuế không đưa ra những giấy 
tờ đó. Và còn cả vấn đề là liệu 
những hồ sơ này có cần phải nộp 
cùng một lúc hay không.
Khi xác định các yêu cầu về hồ 
sơ cần thiết thì cần phải để ý tới 
chi phí thi hành mà người nộp thuế 
phải bỏ ra để hình thành hoàn chỉnh 
hồ sơ. Một vấn đề khác là liệu các 
lợi ích trong việc hoàn thành hồ sơ 
xét từ quan điểm quản lý của cơ 
quan thuế khi chỉ xử lý được một 
số ít những người nộp thuế không 
tuân thủ thì có thỏa đáng không 
khi mà nó đặt gánh nặng lên số 
đông người nộp thuế nói chung. 
Một nguyên tắc hiệu quả cần nhớ 
đó là cần tuân thủ phương pháp 
quốc tế tính tới chi phí tuân thủ của 
người nộp thuế, trừ phi nếu không 
sử dụng phương pháp này thì phải 
có lý do rõ ràng và thỏa đáng, bởi 
vì các quy định địa phương không 
dễ gì thay đổi ngay được (Các quy 
định ở đây là những yêu cầu về thể 
chế hay những yêu cầu pháp luật 
quan trọng). Trong những trường 
hợp khác thì tất cả các bên đều có 
lợi nếu cùng sử dụng một quan 
điểm đã được chấp nhận rộng rãi.
3. Thỏa thuận xác định giá 
trước
Gần đây, các công ty đa quốc 
gia thường phụ thuộc vào thỏa 
thuận định giá trước (APA) với 
cơ quan thuế, nhất là về phần 
tiến trình thỏa thuận chung. Các 
thỏa thuận này được đặt tên như 
vậy bởi vì phương pháp định giá 
được thống nhất trước tùy vào 
kiểu giao dịch, và chúng thường 
được gọi là “các giao dịch được 
bảo đảm.” APA giúp tạo ra sự 
vững chắc cho người nộp thuế 
về vấn đề nộp thuế cho những 
giao dịch quốc tế nhất định và 
nó được người nộp thuế coi là 
cách thức an toàn nhất để tránh 
bị đánh thuế hai lần, nhất là khi 
những thỏa thuận này mang tính 
song phương hay đa phương. 
4. Giới hạn về mặt thời gian
Một điểm quan trọng khác trong 
luật nội địa về định giá chuyển giao 
đó là vấn đề “thời hiệu” – thời gian 
cho phép trong luật nội địa để cơ 
quan quản lý thuế thực hiện kiểm 
toán vấn đề định giá chuyển giao 
và đưa ra những đánh giá cần thiết. 
Do việc kiểm toán vấn đề định giá 
chuyển giao có thể là gánh nặng 
cho người nộp thuế lẫn cơ quan 
thuế, nên “thời hiệu” thi hành 
thường được mở rộng hơn so với 
các trường hợp đánh thuế trong 
nước nói chung. Tuy nhiên, nếu 
khoảng thời gian điểu chỉnh quá 
dài sẽ khiến cho người nộp thuế 
trong một số trường hợp chịu rủi 
ro tài chính lớn. Sự khác biệt trong 
cách thức hoạt động ở các quốc gia 
liên quan tới giới hạn thời gian có 
thể dẫn tới đánh thuế hai lần. Các 
quốc gia nên nghĩ tới việc cân bằng 
giữa lợi ích của người nộp thuế với 
khoản thuế mình thu được khi họ 
mở rộng thời hiệu điều chỉnh.
5. các hiệp ước thuế và các quy 
định về định giá chuyển giao nội 
địa 
Cả các quốc gia phất triển lẫn 
đang phát triển đều cần phải có các 
quy định về định giá chuyển giao 
nội địa để chống lại hành vi thao 
túng giá chuyển giao và cũng cần 
điều khoản về doanh nghiệp liên 
kết trong các hiệp ước thuế (thường 
là Điều 9) mà điều này liên quan 
tới việc tránh và loại bỏ việc tránh 
đánh thuế hai lần do các điều chỉnh 
giá chuyển giao. Một quan điểm 
cho rằng điều khoản các doanh 
nghiệp liên kết trong một hiệp ước 
thuế giúp tạo ra một cơ sở tách 
biệt và độc lập cho một nước để 
từ đó điều chỉnh giá chuyển giao. 
Một quan điểm trái ngược lại cho 
rằng các hiệp ước thuế không tăng 
quyền thu thuế của một quốc gia 
và kết quả là điều khoản các doanh 
nghiệp liên kết trong hiệp ước thuế 
của một quốc gia không thể được 
coi là một quyền thu thuế riêng lẻ 
được. Chi tiết này trong luật nội 
địa sẽ khác nhau theo từng quốc 
gia và thường khác nhau tùy thuộc 
vào việc quốc gia đó đã tiến bộ ra 
sao trong tiến trình định giá chuyển 
giao của mình.
Việc các công ty đa quốc gia lợi 
dụng giá chuyển giao để chuyển lợi 
nhuận từ quốc gia có mức thuế suất 
thấp sang quốc gia có mức thuế 
suất cao có vẻ là một nghịch lý, tuy 
nhiên điều này lại xảy ra trong thực 
tế (Ví dụ, như thể hưởng lợi ích về 
thuế tại nước có thuế suất cao hoặc 
là do các khoản lỗ ở nước thuế cao 
có thể được bù đắp bởi khoản lợi 
nhuận ở nước có mức thuế thấp). 
Các công ty đa quốc gia cũng có thể 
có một động cơ chuyển lợi nhuận 
tới những nước chưa áp dụng luật 
thuế, chẳng hạn như chưa áp dụng 
các quy định về định giá chuyển 
giao. Định giá chuyển giao là “một 
cuộc chơi ăn thua”, nó là một tình 
huống trong đó nếu một nước này 
muốn thu được lợi trong lợi nhuận 
chịu thuế thì nước còn lại phải chịu 
tổn hại. Hậu quả là một số doanh 
nghiệp quốc tế phải định ra một 
mức giá chuyển giao sao cho có lợi 
cho một nước có khả năng thi hành 
các quy định về định giá chuyển 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
62
giao, có như vậy thì công ty đó mới 
giảm thiểu được rủi ro khi chuyển 
lợi nhuận trong định giá chuyển 
giao và tránh được những hình 
phạt tại quốc gia đó. Hơn nữa, nếu 
để xảy ra những bất đồng về định 
giá chuyển giao thì sẽ rất mất thời 
gian và tốn kém.
6. Sự phù hợp giữa các mô hình 
LHQ, oEcD, hướng dẫn của 
oEcD với bối cảnh/tình hình 
của các nước đang phát triển
Các quy định về định giá chuyển 
giao đã và đang được xây dựng và 
phát triển chủ yếu trong các nước 
thành viên của OECD (nghĩa là 
tại các quốc gia đang phát triển) 
chỉ bởi do yếu tố kinh tế và lịch sử 
của các quốc gia này. Nhiều quốc 
gia đang phát triển hiện đang đối 
mặt với những vấn đề tương tự mà 
các quốc gia OECD gặp phải giai 
đoạn từ thập niên 70 đến thập niên 
90. Do đó cần tập trung vào một 
số mảng chính mà các quốc gia 
đang phát triển hay gặp khó khăn 
trong việc thực thi nguyên tắc giá 
thị trường.
Các quốc gia đang phát triển 
thường gặp phải nhiều vấn đề với 
việc thu thập dữ liệu về các giao 
dịch thị trường để so sánh. Vấn đề 
cần chú ý là do nhiều quốc gia đang 
phát triển thường có một thị trường 
nội địa nhỏ, nên khó có thể tìm thấy 
được ở thị trường trong nước các 
giao dịch của bên thứ ba phù hợp 
để so sánh với các giao dịch nội bộ 
của một công ty đa quốc gia.
Cần lưu ý rằng những khác biệt 
trong yêu cầu về giấy tờ có thể làm 
nặng thêm chi phí tuân thủ của các 
công ty đa quốc gia và các doanh 
nghiệp nhỏ hơn. Có thể tinh gọn 
những yêu cầu về giấy tờ, chứ 
không cần phải đầy đủ tất cả giấy 
tờ, đối với các giao dịch đơn giản 
và thuế không lớn lắm. Điều này 
có thể đặc biệt quan trọng trong 
việc đáp ứng các nhu cầu và khả 
năng của các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ (SME).
7. Phân tích khả năng áp dụng 
aPa tại Vn
Có thể thấy APA là một công 
cụ có tác dụng hạn chế chuyển giá 
trong một số giao dịch liên kết của 
các công ty đa quốc gia và đã được 
áp dụng ở một số quốc gia trên thế 
giới, chẳng hạn Mỹ, Nhật, Canada. 
Tại VN, hiện chúng ta đang thí 
điểm một vài tập đoàn như Intel, 
Samsung do sự đề nghị từ phía các 
tập đoàn này nhằm tạo sự chủ động 
về thuế. Là một phần của việc xây 
dựng khuôn khổ pháp lý về xác 
định giá thị trường của VN, Bộ Tài 
chính vừa ban hành Thông tư số 
201/2013/TTBTC cung cấp hướng 
dẫn chính thức về thỏa thuận trước 
về phương pháp xác định giá tính 
thuế (APA), bao gồm khung pháp 
lý quản lý, quy trình, vai trò, trách 
nhiệm và kỳ vọng chung của người 
nộp thuế và cơ quan có thẩm quyền 
của VN trong việc nộp hồ sơ xin áp 
dụng, đàm phán và thực hiện APA. 
Thông tư 201 sẽ có hiệu lực từ ngày 
05 tháng 02 năm 2014. Tuy nhiên, 
chúng ta cần lưu ý những vấn đề 
cơ bản sau:
Thứ nhất, APA chỉ là một thỏa 
thuận giữa người nộp thuế và cơ 
quan thuế, chính vì vậy quá trình 
đàm phán thường kéo dài và tốn 
kém chi phí. Với quan điểm người 
nộp thuế trả chi phí có thể là một 
rào cản đáng kể khiến cho không 
phải bất kỳ doanh nghiệp với quy 
mô nào cũng tham gia thực hiện 
APA.
Thứ hai, trường hợp những 
người nộp thuế tham gia APA 
thường là các tập đoàn đa quốc 
gia với quy mô rất lớn, và đều sử 
dụng các công ty tư vấn có tầm cỡ 
và kinh nghiệm quốc tế đại diện, 
hoặc tư vấn cho họ trong quá trình 
đàm phán với cơ quan thuế VN. Rõ 
ràng, trong tình huống này, xét về 
mức độ chuyên nghiệp giữa chuyên 
viên thuế chính phủ và chuyên viên 
các công ty tư vấn thuế; xét về hệ 
thống cơ sở dữ liệu của cơ quan 
thuế quốc gia với hệ thống cơ sở 
dữ liệu khu vực và quốc tế của các 
công ty tư vấn thuế; xét về mức độ 
am tường trong từng lĩnh vực đặc 
thù;..., cơ quan quản lý thuế các 
cấp của chúng ta đang phải chịu áp 
lực rất lớn cho yêu cầu thích nghi 
tốt cho công việc này.
Xét sâu hơn về yêu cầu của 
hệ thống cơ sở dữ liệu, một APA 
thường có hiệu lực áp dụng cho 
giai đoạn từ 3 đến 5 năm (tại VN 
là 5 năm), cho nên yêu cầu cơ bản 
ban đầu trong quá trình thương 
lượng, đàm phán cho đến thống 
nhất APA là cơ quan thuế thường 
đòi hỏi người nộp thuế cung cấp 
khối lượng thông tin minh chứng 
mang tính thuyết phục cho cơ sở 
hình thành giá, phương pháp xác 
định giá tính thuế, các giả định 
trọng yếu,...và những nội dung cơ 
bản khác trong một APA. Như vậy 
giả định hệ thống dữ liệu của cơ 
quan thuế yếu hơn hẳn so với hệ 
thống dữ liệu của người nộp thuế, 
chúng ta khó có thể kiểm chứng 
hoặc đánh giá được mức độ chính 
xác, đầy đủ, toàn diện của các yếu 
tố có liên quan cho một APA chính 
xác. Nếu vì lý do đó mà toàn bộ dữ 
liệu cho APA đều gần như bị chi 
phối bởi thông tin từ phía người 
nộp thuế cung ứng thì giải pháp 
áp dụng APA cho kiểm soát và hạn 
chế chuyển giá của chúng ta trở 
nên vô nghĩa. 
(Xem tiếp trang 70)

File đính kèm:

  • pdfvan_de_dinh_gia_chuyen_giao_o_cac_quoc_gia_dang_phat_trien_p.pdf