Vấn đề đánh giá chất lượng giảng dạy và học tập các môn Lý luận chính trị tại Đại học Đà Nẵng

Chất lượng giảng dạy và học tập các môn học Lý luận chính trị ở các trường đại học,

cao đẳng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng giáo dục đại học ở nước ta hiện nay. Các môn học

này không chỉ chiếm một thời lượng chương trình lớn trong đào tạo theo học chế tín chỉ, mà

còn bởi mục tiêu của các môn học đề ra là trang bị cho người học thế giới quan và phương

pháp luận khoa học, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bài viết khái

quát thực trạng, đề ra các tiêu chí cho việc đánh giá chất lượng giảng dạy và học tập các môn

Lý luận chính trị tại Đại học Đà Nẵng hiện nay đó là: Căn cứ đánh giá khách quan; Hệ thống lại

dung chương trình mang tính thống nhất; Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Đánh giá

chất lượng môn học từ hiệu ứng xã hội. Cần có sự đầu tư từ các cấp quản lý.

pdf 8 trang kimcuc 3020
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề đánh giá chất lượng giảng dạy và học tập các môn Lý luận chính trị tại Đại học Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề đánh giá chất lượng giảng dạy và học tập các môn Lý luận chính trị tại Đại học Đà Nẵng

Vấn đề đánh giá chất lượng giảng dạy và học tập các môn Lý luận chính trị tại Đại học Đà Nẵng
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011 
 113
VẤN ĐỀ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP 
CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TẠI ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
AN EVALUATION OF THE TEACHING AND LEARNING OF POLITICAL 
THEORY SUBJECTS AT DA NANG UNIVERSITY 
Lê Hữu Ái 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng 
TÓM TẮT 
Chất lượng giảng dạy và học tập các môn học Lý luận chính trị ở các trường đại học, 
cao đẳng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng giáo dục đại học ở nước ta hiện nay. Các môn học 
này không chỉ chiếm một thời lượng chương trình lớn trong đào tạo theo học chế tín chỉ, mà 
còn bởi mục tiêu của các môn học đề ra là trang bị cho người học thế giới quan và phương 
pháp luận khoa học, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bài viết khái 
quát thực trạng, đề ra các tiêu chí cho việc đánh giá chất lượng giảng dạy và học tập các môn 
Lý luận chính trị tại Đại học Đà Nẵng hiện nay đó là: Căn cứ đánh giá khách quan; Hệ thống lại 
dung chương trình mang tính thống nhất; Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Đánh giá 
chất lượng môn học từ hiệu ứng xã hội. Cần có sự đầu tư từ các cấp quản lý. 
ASBTRACT 
Today the quality of teaching and learning political theory courses at colleges and 
universities has a great influence on the quality of higher education in our country. These 
subjects not only account for a large amount of time in credit-based training programs, but they 
are also aimed to equip students with the world outlooks and scientific theories, guidelines and 
policies of the Party and State. This article deals with the generalization of real situations and 
the establishment of criteria for evaluating the teaching and learning of political theory subjects 
at the University of Danang in terms of objective assessment bases, unified academic 
programs systemization, teaching staff’s quality improvement and subjects quality assessment 
based on social effects. On the whole, it needs investments from different administrative levels. 
1. Đặt vấn đề 
Chất lượng giảng dạy và học tập các môn học Lý luận chính trị trong những năm 
vừa qua tại trường đại học, cao đẳng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải có cái nhìn 
một cách toàn diện và khách quan, nhất là từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đổi 
mới, sắp xếp lại các môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là vấn đề 
hiện nay còn có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Từ thực tế giảng dạy các môn học này tại 
Đại học Đà Nẵng những năm gần đây, cũng như vị trí và vai trò của việc trang bị thế giới 
quan, phương pháp luận khoa học, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà 
nước, đòi hỏi cần phải có những đánh giá một cách khách quan về chất lượng giảng dạy 
và học tập đối với các môn học này. Đại học Đà Nẵng là một trong những đại học vùng 
lớn nhất của cả nước, việc nâng cao chất lượng đào tạo, kể cả các môn học này là một yêu 
cầu bức thiết, nhất là từ khi chúng ta chuyển đổi sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011 
 114 
2. Quá trình dạy học và vấn đề đánh giá chất lượng 
2.1. Bản chất của quá trình dạy học 
Bản chất của quá trình dạy học là sự tương tác giữa chủ thể truyền đạt (người 
thầy) và khách thể tiếp nhận thông tin (học trò). Ở các trường đại học, quá trình này có 
xu hướng chuyển biến, nghĩa là chủ thể truyền đạt xử lý và chuyển tải những thông tin 
chuyên môn hẹp cho người nghe. Gắn với quá trình này có nhiều mối tương tác, nhưng 
có lẽ hành vi có sự tác động mạnh mẽ nhất cho cả hai đối tượng là thầy và trò. 
Như vậy, phương pháp học, phương pháp dạy, phương pháp đánh giá là các vấn 
đề hàng đầu mà hệ thống giáo dục phải quan tâm. Giáo dục Đại học là một hệ thống con 
của hệ thống giáo dục, nhưng nó là bộ phận quan trọng nhất, vì đó là môi trường tập 
hợp những người có trình độ cao, nhằm chuẩn bị tri thức đủ chuẩn cho một chuyên môn 
hẹp để phục vụ cho việc tác nghiệp sau khi ra trường. 
Bất kỳ một quá trình dạy học nào mà chủ thể tham gia cũng hướng tới việc tạo 
ra những biến đổi nhất định trong con người đó. Muốn biết những biến đổi đó xảy ra ở 
mức độ nào phải đánh giá hành vi trong một tình huống nhất định. Việc đánh giá cho 
phép chúng ta xác định, một là, mục tiêu giáo dục được đặt ra có phù hợp hay không và 
có đạt được mục tiêu đã đặt ra hay không, hai là, việc giảng dạy có thành công hay là 
ngược lại, người học có sự chuyển biến theo hướng tích cực hay ngược lại. Đánh giá có 
thể thực hiện ngay trong quá trình giảng dạy hay khi đã kết thúc nhằm giúp chúng ta tự 
kiểm định chất lượng và tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất để điều chỉnh cho phù hợp 
với các tiêu chuẩn chung của giáo dục đại học. 
2.2. Đánh giá chất lượng dạy và học 
Để đánh giá chất lượng dạy và học đương nhiên phải được dựa trên các tiêu chí 
cụ thể và phải được đo lường, cái mà ta vẫn hay sử dụng thuật ngữ lượng hóa. 
Đối với nhân loại, việc đánh giá kết quả đã diễn ra hàng nghìn năm trước đây (ở 
Trung Quốc từ khoảng năm 2000 TCN), nhưng một khoa học thực sự về đo lường trong 
tâm lý và giáo dục thì mới xuất hiện cách đây khoảng hơn một thế kỷ. Đo lường 
(measurement) được hiểu là một quá trình thực hiện các quan sát thực nghiệm một 
thuộc tính, đặc trưng hoặc hiện tượng nào đó và chuyển đổi các quan sát đó thành một 
dạng thức phân loại hoặc định lượng theo một quy tắc hoặc một quá trình xác định rõ 
ràng. Ở châu Âu, nhất là ở Mỹ, lĩnh vực khoa học này phát triển mạnh vào thời kỳ trước 
thế chiến thứ nhất với những dấu mốc quan trọng như Trắc nghiệm trí tuệ Stanford-
Binet xuất bản năm 1916, bộ trắc nghiệm thành quả học tập tổng hợp đầu tiên Stanford 
Achievement Test ra đời vào 1923. Với việc đưa chấm trắc nghiệm bằng máy của IBM 
năm 1935, việc National council on Measurement in Education (NCME) thành lập vào 
thập niên 1950 và Education Testing Service (ETS) ra đời năm 1947, một công nghệ 
trắc nghiệm đã hình thành ở Mỹ. Từ đó đến nay khoa học về đo lường trong tâm lý và 
giáo dục đã phát triển liên tục, những phê bình chỉ trích về khoa học này cũng xuất hiện 
thường xuyên nhưng chúng không đánh đổ được ngành công nghiệp trắc nghiệm mà chỉ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011 
 115
làm cho nó tự điều chỉnh và phát triển mạnh mẽ hơn. Hiện nay ở Mỹ ước tính mỗi năm 
có cỡ 1/4 tỷ lượt trắc nghiệm tiêu chuẩn hóa và 5 tỷ lượt trắc nghiệm do giáo viên soạn. 
Tương ứng với ngành công nghệ trắc nghiệm đồ sộ và sự phát triển của công nghệ 
thông tin, lý thuyết về đo lường trong tâm lý giáo dục đã phát triển nhanh. Đáng lưu ý là 
Lý thuyết Ứng đáp Câu hỏi (Item Respond Theory – IRT) đạt những thành tựu quan 
trọng nâng cao độ chính xác của phương pháp trắc nghiệm nói chung, và trên cơ sở đó 
công nghệ Trắc nghiệm thích ứng nhờ máy tính (Computerized – Adaptive Testing – 
CAT) ra đời. Ngoài ra, trên cơ sở những thành tựu của IRT và ngôn ngữ học máy tính 
(Computational linguistics), công nghệ E-RATE chấm tự động trắc nghiệm tiếng Anh 
nhờ máy tính của ETS đã được triển khai qua mạng Internet mà hiện nay khá phổ biến 
trên thế giới. 
Ở Việt Nam trước năm 1975, về lĩnh vực này vẫn còn ít được quan tâm. Nhưng 
sau đó, một số nhà khoa học của Việt Nam đã chủ động mời một số chuyên gia từ nước 
ngoài sang tổ chức hội thảo, đã dịch một số sách về khoa học này, mặt khác đề nghị Bộ 
Giáo dục và Đào tạo cử số cán bộ, giáo viên Đại học về khoa học này đi học ở nước 
ngoài. Vì thế, hiện nay hầu như các trường Đại học lớn ở nước ta đã có cán bộ chuyên 
trách về lĩnh vực này. 
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập “Cục Khảo thí và Kiểm định 
chất lượng” để cải tiến việc thi trong toàn hệ thống đánh giá chất lượng các trường Đại 
học, và quyết định sẽ dùng phương pháp trắc nghiệm khách quan để làm đề thi tuyển 
Đại học vào mùa thi 2005. Đây là cơ hội để phát triển của khoa học về đo lường trong 
giáo dục ở nước ta. Hầu hết các trường Đại học của ta hiện nay đã thành lập bộ phận 
này để xử lý việc Kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của sinh viên. 
3. Thực trạng giảng dạy các môn Lý luận chính trị hiện nay 
Những quy định mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo về giảng dạy chương 
trình các môn Lý luận chính trị tại các trường đại học, cao đẳng. Theo Quyết định số 
52/2008/QĐ-BGDĐT về ban hành chương trình các môn Lý luận chính trị trình độ đại 
học, cao đẳng dùng cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ 
Chí Minh. Chương trình các môn Lý luận chính trị gồm 3 môn học: Những nguyên lý 
cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối cách mạng của 
Đảng Cộng sản Việt Nam. 
3.1. Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin 
Ngoài chương Mở đầu giới thiệu khái lược về chủ nghĩa Mác-Lênin và một số 
vấn đề chung của môn học. Căn cứ vào mục tiêu môn học, nội dung, chương trình môn 
học được cấu trúc thành 3 phần, 9 chương: Phần thứ nhất gồm 3 chương khái quát 
những vấn đề cơ bản về thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác-
Lênin; phần thứ hai có 3 chương, trình bày những nội dung cơ bản của học thuyết kinh 
tế Mác-Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; phần thứ ba gồm 3 chương, 
nhằm khái quát những lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011 
 116 
những vấn đề đặt ra cho chủ nghĩa xã hội hiện thực, cũng như triển vọng của hình thái 
kinh tế - xã hội này. 
3.2. Môn học tư tưởng Hồ Chí Minh 
Nội dung môn học gồm 7 chương: chương 1, trình bày về cơ sở, quá trình hình 
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh; từ chương 2 đến chương 7 trình bày những 
nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về: Vấn đề dân tộc và cách mạng giải 
phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; 
về Đảng cầm quyền; về đoàn kết dân tộc và quốc tế; về vấn đề dân chủ và xây dựng nhà 
nước của dân, do dân, vì dân; về đạo đức, giá trị văn hoá nhân văn. 
3.3. Môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam 
Môn học cung cấp cho sinh viên những hiểu biết cơ bản có hệ thống về đường 
lối của Đảng, đặc biệt là đường lối trong thời kỳ đổi mới. Nội dung môn học gồm 8 
chương với kết cấu: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu 
tiên của Đảng; Đường lối đấu tranh giành chính quyền (1930-1945); Đường lối kháng 
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975); Đường lối công 
nghiệp hoá; Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 
Đường lối xây dựng hệ thống chính trị; Đường lối xây dựng văn hoá và giải quyết các 
vấn đề xã hội; Đường lối đối ngoại. 
4. Một số tiêu chí nhằm đánh giá chất lượng giảng dạy và học tập các môn Lý luận 
chính trị tại Đại học Đà Nẵng hiện nay 
Từ thực tiễn giảng dạy các môn học này ở Đại học Đà Nẵng, theo chúng tôi để 
đánh giá chất lượng giảng dạy cần tiến hành một số biện pháp sau đây: 
Một là, căn cứ đánh giá: Các môn học lý luận chính trị được kết cấu là những 
môn thuộc khối kiến thức cơ sở cho chương trình khung của tất cả các ngành học ở bậc 
đại học và cao đẳng. Vì vậy, đây là khối kiến thức có tính chất nền tảng, trên cơ sở đó 
hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho sinh viên, góp phần trang bị 
và có những định hướng cơ bản về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà 
nước, giải quyết những vấn đề lý luận, thực tiễn mà cuộc sống đã và đang đặt ra. Chính 
từ mục tiêu tổng quát như vậy, nên việc đánh giá chất lượng dạy và học không thể dừng 
lại ở việc lượng hóa bằng những chỉ số được thể hiện trên giấy tờ như: Sự phù hợp hay 
chưa phù hợp của nội dung chương trình; đánh giá chất lượng giáo viên từ sinh viên; 
bảng điểm phản ánh kết quả học tập của sinh viên; chỉ số niềm tin của đối tượng tiếp 
nhận, sự ăn khớp giữa lý luận và thực tiễn, v.v 
Hai là, về nội dung chương trình. Như đã đề cập ở trên, các môn lý luận chính 
trị được rút gọn từ 5 môn học thành 3 môn học: Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa 
Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt 
Nam. Theo chúng tôi việc rút gọn đó là cấp thiết theo đúng yêu cầu của lộ trình đào tạo 
theo học chế tín chỉ. Nhưng ở đây chúng ta cần nhìn nhận một cách khách quan về kết 
cấu của từng môn học để từ đó rút ra những bài học bổ ích cho việc tiếp tục cải tiến nội 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011 
 117
dung của từng môn học cho phù hợp với thực tiễn đặt ra. Trong phạm vi bài viết, chúng 
tôi chỉ trao đổi về nội dung của môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. 
Theo chúng tôi với dung lượng nội dung lớn như trong giáo trình Những nguyên 
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin đã ban hành, và với thời gian dành cho môn học là 5 
tín chỉ (75 tiết) như vậy thì rất khó để đạt được mục tiêu như môn học đã đề ra. Vì vậy, 
việc đánh giá thầy dạy và trò học là một việc làm bất khả thi. Bởi với một thời lượng 
chương trình như thế, cộng thêm sự lắp ghép một cách cơ học từ nội dung chương trình 
của 3 môn học trước đây là triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học, 
thêm nữa các môn học này đều có đối tượng nghiên cứu và phương pháp tiếp cận riêng. 
Vì vậy, sẽ là rất khó để một giáo viên có thể đảm nhiệm cả ba khối kiến thức khác nhau 
với đối tượng nghiên cứu khác nhau, nên theo chúng tôi cần phải có một giải pháp cụ 
thể. Chẳng hạn, giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” phải là 
một giáo trình chuẩn về nội dung kiến thức, đích thực là những nguyên lý khoa học của 
chủ nghĩa Mác-Lênin, được trình bày một cách có hệ thống, rõ ràng và dễ hiểu, đồng 
thời phải nhanh chóng sửa chữa cả về nội dung lẫn kết cấu, cả về ngôn từ lẫn văn 
phong, trong đó có những nội dung hoàn toàn xa lạ với tư tưởng của chính các nhà sáng 
lập chủ nghĩa xã hội khoa học. Từ sự bất cập của giáo trình, cộng thêm việc dự lớp và 
nghe hiểu của sinh viên cũng không đồng đều, trong khi những thông tin về tư tưởng và 
lý luận mà sinh viên có thể biết được hàng ngày lại hết sức đa dạng, nhiều chiều và 
phức tạp; và trên tất cả là, môn học đặc thù, có quan hệ trực tiếp đến nền tảng tư tưởng, 
thì những tri thức mà nó có nhiệm vụ đem lại cho người học phải đóng vai trò là “kim 
chỉ nam” cho hành động cách mạng của họ, và do vậy, Giáo trình “Những nguyên lý cơ 
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” phải là một giáo trình chuẩn về nội dung kiến thức, 
đích thực là những nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, được trình bày một 
cách có hệ thống, rõ ràng và dễ hiểu. 
Ba là, về số lượng và chất của đội ngũ giảng viên. Thực tế cho thấy, ở hầu hết 
các trường đại học, cao đẳng trong cả nước nói chung, Đại học Đà Nẵng nói riêng, số 
lượng giảng viên của các môn lý luận chính trị vẫn còn hạn chế, đặc biệt là sự hụt hẫng 
về đội ngũ kế cận. Hiện nay giảng viên các môn lý luận chính trị hầu hết đã ở độ tuổi về 
hưu và chuẩn bị về hưu, nhưng thế hệ kế cận lại rất mỏng và nhiều người được đào tạo 
đúng chuyên ngành lại không mặn mà với nghiệp giảng dạy. Đây là những môn học vốn 
mang tính đặc thù cao, đòi hỏi phải có sự hy sinh lớn, phải đam mê nghề nghiệp thì mới 
có thể hoàn thành nhiệm vụ. Trong khi đó, từ năm học 2002 Đảng và Nhà nước đã có 
những chính sách ưu tiên cho đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính trị, cũng như 
miễn học phí cho các chuyên ngành đào tạo đại học thuộc các môn khoa học Mác-Lênin 
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng kết quả lại ngược lại, ngày càng có ít người theo học 
những ngành học này. Chẳng hạn, đối với chuyên ngành Kinh tế chính trị học tại trường 
Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng, trong 03 khóa tuyển sinh gần đây hầu như rất ít thí 
sinh có nguyện vọng vào học ngành học này. Song, trong khi đó Nhà trường cũng đang 
tiến tới việc đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội, nên việc tạm dừng đào tạo đối với 
chuyên ngành này đã và đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải cho lực lượng đội ngũ kế cận 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011 
 118 
trong tương lai. Ngay trong Bộ môn Kinh tế chính trị, hiện nay lực lượng giảng viên trẻ 
còn mỏng, thêm vào đó, nguyện vọng của các giảng viên khi học tiếp lên bậc học cao 
hơn, họ lại không muốn đi đúng chuyên ngành mà mình sẽ giảng dạy. 
Trong điều kiện hiện nay, khi thời lượng dành cho môn học Những nguyên lý cơ 
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin phải cắt giảm đến gần 70% so với trước đây, trong khi 
đó, trình độ đội ngũ giảng viên như đã đề cập ở phần trên là không đồng đều. Ngay 
trong từng giảng viên, mức độ nhận thức cũng không giống nhau đối với các vấn đề lý 
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Cần phải khẳng định rằng xu hướng chung trong việc 
tổ chức giảng dạy là một giảng viên sẽ đảm trách cả 3 nội dung tách biệt trước đây là 
cần thiết, nhưng theo chúng tôi cần phải nhìn thẳng vào thực tế về thực trạng đội ngũ 
giảng viên của các môn lý luận chính trị hiện nay. Đó là, đội ngũ giảng viên được đào 
tạo từ nhiều nguồn khác nhau theo chuyên ngành hẹp. Trong quá trình công tác các 
giảng viên cũng chỉ giảng dạy theo chuyên môn của mình. Qua nhiều năm giảng dạy, 
đội ngũ giảng viên hầu như ít học tập, nghiên cứu, kết hợp những nội dung của chuyên 
môn khác vào nội dung chuyên ngành của mình. Nếu có thì ở mức độ còn hạn chế. Mặt 
khác bề dày kinh nghiệm giảng dạy và quản lý cũng như trình độ sư phạm của đội ngũ 
giảng viên là rất khác nhau. Với thực trạng như vậy, nay lại đảm nhận giảng cả 3 nội 
dung, đã đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết cho trước mắt và lâu dài. 
Để đạt được yêu cầu này tất nhiên cần có thời gian, song trước hết, đòi hỏi tinh 
thần trách nhiệm cao trước sinh viên, trước xã hội của đội ngũ giảng viên, Bộ Giáo dục 
và Đào tạo đã tổ chức 2 đợt tập huấn cho đội ngũ giảng viên, song như vậy chưa thể nói 
là đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Theo chúng tôi, nên đặt ra 2 mục tiêu để qua đó tổ 
chức thực hiện giảng dạy cho phù hợp: Thứ nhất, các giảng viên phải tự học tập nắm 
vững kiến thức tổng hợp của cả 3 bộ môn, để từ đó có thể vận dụng nhuần nhuyễn vào 
bài giảng. Thứ hai, trong quá trình tổ chức thực hiện, nhà trường, Khoa lý luận chính trị 
cần triển khai các bước cụ thể: Yêu cầu các giảng viên xây dựng bài giảng, giáo án kỹ 
lưỡng, có sự thảo luận đóng góp của các chuyên môn khác nhau, hình thành bài giảng 
chuẩn trong đó cần khẳng định những nội dung trọng tâm. Sau đó tổ chức giảng thí 
điểm với sự tham dự của các giảng viên chuyên ngành khác, cùng rút kinh nghiệm, 
đóng góp bổ sung cho nhau. Đồng thời lấy ý kiến phản hồi của sinh viên về mức độ tiếp 
thu của họ qua đó đánh giá được hiệu quả bài giảng. Trên cơ sở chuẩn bị kỹ lưỡng như 
vậy sẽ triển khai trên diện rộng. Thứ ba, cần tạo ra diễn đàn để các giảng viên và sinh 
viên trao đổi nội dung, phương pháp dạy và học phù hợp với yêu cầu của đổi mới. Ở 
Đại học Đà Nẵng, các trường thành viên cần tạo ra một diễn đàn đối với những môn học 
này, qua đó giảng viên và sinh viên có nhiều điều kiện để trao đổi những vấn đề mang 
tính học thuật, chia sẻ kinh nghiệm và liên hệ với thực tiễn nhiều hơn, nâng cao tính chủ 
động, say mê của người học và trách nhiệm của người dạy. Chỉ có như vậy mới có thể 
có nhiều cơ sở để đánh giá, kiểm định chất lượng đối với môn học đặc thù này. 
Bốn là, hiệu ứng xã hội của môn học. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: 
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chắc chắn nhất, cách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011 
 119
mạng nhất là Chủ nghĩa Lênin”. Sau này Người quan niệm đầy đủ hơn, đó là Chủ nghĩa 
Mác – Lênin. Theo Người, mục đích của việc học tập lý luận chính trị là: Thứ nhất, học 
để sửa chữa tư tưởng. Hăng hái theo cách mạng, điều đó rất hay nhưng tư tưởng chưa 
thật đúng là tư tưởng cách mạng, vì thế cần phải học tập để sửa chữa cho đúng. Tư 
tưởng đúng, mới khỏi sai lạc và làm tròn nhiệm vụ cách mạng được. Thứ hai, học để tu 
dưỡng đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tuỵ với cách 
mạng, mới lãnh đạo được quần chúng, đưa cách mạng thắng lợi hoàn toàn. Thứ ba, học 
để tin tưởng, tin tưởng vào đoàn thể, tin tưởng vào nhân dân, tin tưởng vào tương lai của 
dân tộc, tin tưởng vào tương lai cách mạng. Có như vậy thì lúc ra thực hành mới vững 
chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới dám hi sinh. Thứ tư, học để hành: “Học với hành 
phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi 
chảy”. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể giai cấp và 
nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. 
Từ những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của học tập lý luận 
chính trị, chúng ta có thể khẳng định rằng, giáo dục lý luận chính trị trong các trường 
đại học, cao đẳng không chỉ giúp người học hình thành thế giới quan và phương pháp 
luận khoa học mà còn hình thành trong giới trẻ niềm tin, lý tưởng trong sáng về tương 
lai của đất nước, về lòng tự hào dân tộc, về trách nhiệm và nghĩa vụ công dân trước vận 
mệnh của Tổ quốc. Vì vậy, trong trường hợp như đã nêu trên, việc thiết kế chương trình 
chưa thật sự phù hợp, thì rất dễ tạo ra những hiệu ứng ngược, phản tác dụng, đi ngược 
với mục đích đã đặt ra. Đây là một thực tế đòi hỏi phải có sự tính toán thật kỹ lưỡng khi 
triển khai thực hiện và cũng là vấn đề không thể không đề cập khi đưa nó vào là một 
trong những tiêu chí để kiểm định chương trình các môn lý luận chính trị tại các cơ sở 
đào tạo đại học, cao đẳng nói chung, Đại học Đà Nẵng nói riêng. 
Năm là, sự đầu tư của các cấp quản lý. Để thực hiện tốt việc đổi mới chương 
trình các môn học lý luận chính trị, theo chúng tôi sự đầu tư của các cấp quản lý cả về 
tri thức và những điều kiện vật chất là hết sức cần thiết. Như đã nói ở trên, hiện nay Nhà 
nước đã có những chính sách ưu tiên đối với đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính 
trị, đó là cơ chế hưởng phụ cấp ưu đãi 45%, hàng năm đều có chương trình tập huấn tập 
trung nhằm bổ sung, cập nhật những thông tin mới về lĩnh vực này. Nhưng theo chúng 
tôi, hiệu quả mang lại còn rất thấp. Với mức phụ cấp ưu đãi cao nhất trong tất cả các 
ngành như vậy, mà giảng viên vẫn phải giảng dạy nhiều giờ, giảng chay, hệ thống tài 
liệu tham khảo đa phần tự trang bị, các đợt tập huấn gần như chỉ mang tính hình thức và 
dường như là mong muốn chủ quan của một bộ phận các nhà quản lý, v.v thì chất 
lượng giờ dạy vẫn còn hạn chế là điều đương nhiên. 
Theo chúng tôi, cấp quản lý cao nhất là Ban chỉ đạo biên soạn chương trình, 
giáo trình các môn học lý luận chính trị của Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phải điều chỉnh 
ngay những khiếm khuyết về nội dung và thời lượng chương trình cho phù hợp với đối 
tượng môn học. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kết hợp với các cơ sở đào tạo để đưa ra 
những tiêu chí đánh giá cụ thể theo hướng lượng hóa về mặt chất lượng giảng dạy đối 
với các môn học này. Với Đại học Đà Nẵng, là một trong những đại học vùng lớn, với 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(43).2011 
 120 
nhiều trường thành viên, đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực như hiện nay, theo chúng tôi: 
Thứ nhất, cần phải để cho sinh viên đánh giá giảng viên một cách khách quan cả nội 
dung và phương pháp của bài giảng. Những kết quả đánh giá cần được chuyển trực tiếp 
cho giảng viên để mỗi người tự điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Thứ hai, vì thời 
lượng giảng dạy ngắn mà khối lượng kiến thức nhiều, nên việc bố trí số lượng sinh viên 
cho mỗi lớp học phải hợp lý, tránh tình trạng lớp quá đông như hiện nay ở một số 
trường. Để giáo viên có nhiều thời gian trao đổi, thảo luận với người học hơn, thiết nghĩ 
một lớp học nên bố trí từ 50 đến 60 sinh viên là phù hợp. 
5. Kết luận 
Đại học Đà Nẵng là một trong 20 trường Đại học, cao đẳng đầu tiên thực hiện 
chương trình thí điểm giảng dạy các môn lý luận chính trị theo tinh thần đổi mới các 
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Qua gần hai năm thực hiện chương trình này, đã và đang đặt ra nhiều bất cập về mặt 
chất lượng trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị. Vì 
vậy, việc nêu lên một cách khái quát thực trạng nội dung chương trình, thời lượng giảng 
dạy, số lượng, chất lượng đội ngũ giảng viên và hiệu quả đạt được từ mục tiêu của môn 
học là cơ sở để giải quyết nhiệm vụ cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong 
giai đoạn hiện nay. 
Các trường đại học, cao đẳng nói chung, Đại học Đà Nẵng nói riêng đang tiến 
hành quá trình kiểm định chất lượng đào tạo một cách toàn diện. Vì thế, việc nêu lên 
những tiêu chí phù hợp để đánh giá một cách khách quan đối với các môn lý luận chính 
trị cũng là một yêu cầu khách quan và cần thiết. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bộ Giáo dục & Đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, NXB Giáo 
Dục, Hà Nội, 2002. 
[2] Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (Chủ biên), Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài 
kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Khoá X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng CSVN lần thứ X, NXB Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. 
[5] Luật Giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. 
[6] Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản 
và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. 
[7] Phạm Minh Hạc, Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng của thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, 2002. 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_danh_gia_chat_luong_giang_day_va_hoc_tap_cac_mon_ly_l.pdf