Vấn đề chuyển giá của công ty đa quốc gia trên thế giới và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam

Công ty đa quốc gia là một trong những xu thế phát triển lớn của kinh tế thế giới trong Thế kỷ 21. Có thể nói, chúng đang ngày càng chứng tỏ là xương sống, là chủ lực của nền kinh tế thế giới. Công ty đa quốc gia đang mang lại những lợi ích không nhỏ cho nhiều quốc gia, nhưng bên cạnh đó cũng không ít những hệ lụy. Một trong những vấn đề gây nhức nhối, tạo

ra nhiều hậu quả xấu cho những quốc gia có nhiều công ty, chi nhánh của các tập đoàn đa quốc gia là

tình trạng chuyển giá trốn thuế. Trong gần 30 năm qua ở Việt Nam đã thu hút được hơn 130 tỷ USD với

hơn 15.000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang hoạt động. Kinh tế FDI đã có những đóng góp

quan trọng cho nền kinh tế, nhưng bên cạnh đó cũng không ít những mảng xám, như hủy hoại môi trường,

chuyển giá trốn thuế Bài viết dưới đây cố gắng đi sâu hơn vấn đề chuyển giá trốn thuế.

pdf 9 trang kimcuc 14200
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề chuyển giá của công ty đa quốc gia trên thế giới và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề chuyển giá của công ty đa quốc gia trên thế giới và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam

Vấn đề chuyển giá của công ty đa quốc gia trên thế giới và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN32 Số 111 - tháng 1/2017
vaán ñeÀ chuyeån giaù cuÛa coâng ty 
ña Quoác gia treân theá giôùi vaø 
doanh nghieäP ñaÀu tö tröïc tieáP 
nöôùc ngoaøi ôÛ vieät nam
PGS.TS. PHaN Duy MINH*
Công ty đa quốc gia là một trong những xu thế phát triển lớn của kinh tế thế giới trong Thế kỷ 21. Có thể nói, chúng đang ngày càng chứng tỏ là xương sống, là chủ lực của nền kinh tế thế giới. Công ty đa quốc gia đang mang lại những lợi ích không nhỏ cho nhiều quốc gia, nhưng bên cạnh đó cũng không ít những hệ lụy. Một trong những vấn đề gây nhức nhối, tạo 
ra nhiều hậu quả xấu cho những quốc gia có nhiều công ty, chi nhánh của các tập đoàn đa quốc gia là 
tình trạng chuyển giá trốn thuế. Trong gần 30 năm qua ở Việt Nam đã thu hút được hơn 130 tỷ USD với 
hơn 15.000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang hoạt động. Kinh tế FDI đã có những đóng góp 
quan trọng cho nền kinh tế, nhưng bên cạnh đó cũng không ít những mảng xám, như hủy hoại môi trường, 
chuyển giá trốn thuế Bài viết dưới đây cố gắng đi sâu hơn vấn đề chuyển giá trốn thuế...
Từ khóa: Công ty đa quốc gia, chuyển giá, trốn thuế.
Transfer pricing issues of multinational companies worldwide and FDI companies in Vietnam
Multinational corporation is one of the major development trends of the world economy in the 21st century. 
Having said that, they are increasingly proving to be the backbone of the world economy. Multinational 
corporations are bringing significant benefits to many countries, but there also many implications. One of 
the most aching problems, creating negative consequences for the countries with subsidiary companies of 
multinational corporations is transfer pricing and tax evasion. In Vietnam, more than $ 130 billion has been 
attracted in nearly 30 years with more than 15,000 projects in foreign direct investment (FDI) is active. FDI 
Economy has made an important contribution to the economy, but there are not few patches of gray, such 
as environmental destruction, transfer pricing, tax evasion... The following article tries to go deeper than the 
issue of transfer pricing and tax evasion...
keyword: transfer price, multinational companies, FDI companies
1. khái quát về công ty đa quốc gia
Công ty đa quốc gia (Multinational Company 
- MNC) là một loại hình công ty xuất hiện phổ 
biến từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đang trở 
thành một trong những xu hướng lớn của kinh tế 
thế giới thế kỷ 21.
Về nguyên tắc, một công ty trong đó việc sản 
xuất kinh doanh được tiến hành cùng một lúc tại 
hai quốc gia trở lên thì có thể gọi là công ty đa quốc 
gia. Tuy vậy, theo thông lệ quốc tế, một công ty đa 
quốc gia phải là công ty gồm có một công ty chính 
(công ty mẹ) tại một quốc gia và có các công ty 
chi nhánh (công ty con) hoạt động sản xuất kinh 
doanh tại ít nhất là 5, 6 quốc gia khác. Điều quan 
trọng ở đây là, các công ty chi nhánh ở các quốc 
gia khác cũng phải tiến hành sản xuất kinh doanh 
tương tự như công ty chính, là pháp nhân kinh tế 
có tính độc lập tương đối ở các quốc gia đó. 
Có thể nói, manh nha của công ty đa quốc gia 
có từ thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, 
do yêu cầu phải tìm kiếm nguyên liệu thô cho nền 
kinh tế công nghiệp hóa của các quốc gia. Tiếp đến, 
từ xuất khẩu hàng hoá, các nhà kinh doanh đã nghĩ 
*Phó Giám đốc Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 33Số 111 - tháng 1/2017
tới việc đưa các yếu tố sản xuất đến tổ chức sản 
xuất kinh doanh ngay trên các thị trường có nhiều 
tiềm năng, vừa tận dụng được các nguồn nguyên 
liệu tại chỗ, kể cả khai thác và chuyển chúng về cho 
các cơ sở sản xuất ở chính quốc, vừa giảm bớt được 
chi phí vận chuyển. Về thực chất là thực hiện xuất 
khẩu tư bản, các cơ sở sản xuất kinh doanh được 
thiết lập ngay trên các thị trường tiêu thụ hàng hoá. 
Cùng với thời gian, đặc biệt là từ sau Chiến tranh 
thế giới thứ hai, do những lợi thế không thể phủ 
định của các công ty chi nhánh ở nước ngoài, nên 
chúng được quan tâm củng cố, mở rộng và phát 
triển không ngừng. Thế giới đã và đang chứng 
kiến những Tập đoàn đa quốc gia khổng lồ, có chi 
nhánh ở hàng trăm quốc gia, hàng năm tạo ra phần 
lớn thu nhập cho Tập đoàn. Lấy hãng Coca Cola 
là một ví dụ. Hiện hãng có chi nhánh tại hơn 160 
quốc gia trên thế giới, sử dụng hơn 40 đồng tiền 
khác nhau phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh 
doanh và các chi nhánh ở nước ngoài đã tạo ra hơn 
60% thu nhập hàng năm cho toàn hãng.
Ngày nay, có hơn 630.000 MNC trên toàn thế 
giới, đóng góp tới 2/3 GDP toàn cầu, trong đó có 
khoảng 500 hãng khổng lồ nắm giữ hầu hết các 
ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn của thế giới. 
Những quốc gia có nhiều MNC khổng lồ là Mỹ, 
Nhật Bản, Tây Âu, Hàn Quốc Chúng đang khẳng 
định một xu thế lớn về phát triển của kinh tế thế 
giới thế kỷ 21. Đối với Việt Nam, sau hơn 20 năm 
thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã có hàng 
nghìn MNC đầu tư mở công ty chi nhánh, với số 
vốn gồm nhiều chục tỷ uSD.
Đặc điểm nổi bật nhất của MNC là môi trường 
hoạt động của chúng được trải rộng ở nhiều quốc 
gia khác nhau, thậm chí là hầu hết các quốc gia trên 
thế giới. Đặc điểm này đã làm cho các MNC có rất 
nhiều lợi thế, nhưng cũng luôn đối mặt với rủi ro 
lớn là rủi ro chính trị của các quốc gia.
- Tận dụng được chi phí cơ hội của các quốc gia 
về lợi thế so sánh, giảm chi phí vận chuyển, tránh 
không phải nộp các khoản thuế như xuất khẩu 
hàng hóa đến
- Nhanh chóng tiếp cận các thị trường mới nổi
- Tận dụng được các cơ hội khác như qui mô lớn, 
có công nghệ nguồn, thuận lợi trong thanh toán 
quốc tế
Về mô hình tổ chức hoạt động, hiện nay trên thế 
giới có hai loại mô hình chủ yếu của các MNC, đó 
là mô hình tổ chức theo chiều ngang và mô hình tổ 
chức theo chiều dọc.
Trong mô hình tổ chức theo chiều ngang, các 
công ty chi nhánh gần như là những “bản sao” của 
công ty mẹ, tạo thành một dàn những công ty tương 
tự nhau. Mô hình này được áp dụng nhiều cho các 
loại hình sản xuất mà sản phẩm không có quá nhiều 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN34 Số 111 - tháng 1/2017
các chi tiết, bộ phận, đặc biệt phổ biến trong các lĩnh 
vực kinh doanh về thương mại, dịch vụ.
Trong mô hình tổ chức theo chiều dọc, các công 
ty như là những “mắt xích” trong một chuỗi sản 
xuất, đảm nhận những công đoạn và tạo ra những 
sản phẩm không hoàn toàn giống nhau. Mô hình 
này thường được áp dụng cho các MNC sản xuất với 
chu trình sản xuất qua nhiều công đoạn khác nhau, 
sản phẩm cuối cùng do nhiều chi tiết hợp thành.
Về quản lý tài chính, cũng có 2 loại mô hình 
chính được áp dụng cho các MNC.
- Mô hình quản lý tài chính tập trung: Công ty 
mẹ vừa quản lý tài chính của mình vừa đồng thời 
tham gia trực tiếp quản lý tài chính của các công ty 
chi nhánh, các công ty chi nhánh chịu song trùng 
quản lý.
- Mô hình quản lý tài chính phi tập trung của 
MNC: Theo mô hình này, các công ty chi nhánh 
hầu như được tự chủ hoàn toàn trong quản lý tài 
chính, công ty mẹ chỉ quản lý thông qua đầu mối, 
với những nội dung hoạt động nào có liên quan 
đến công ty mẹ. 
Mục tiêu chủ yếu của MNC là tối đa hoá lợi 
nhuận của công ty và làm gia tăng giá trị của cải 
cho các chủ sở hữu.
2. Chuyển giá của MNC
Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính 
sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được 
chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua 
biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu 
hóa số thuế của các MNC trên phạm vi toàn cầu.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ 
thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao 
đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên 
liên kết. Hành vi ấy có đối tượng tác động chính là 
giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những 
giao dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau.
Thứ nhất, Xuất phát từ quyền tự do định đoạt 
trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền 
quyết định giá cả của một giao dịch. Do đó, họ 
hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ 
với giá họ mong muốn.
Thứ hai, Xuất phát từ mối quan hệ gắn bó 
chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác 
biệt về giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ 
thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi 
lợi ích toàn cục.
Thứ ba, Việc quyết định chính sách giá giao 
dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết không 
thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay 
đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định 
giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết 
cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. 
Ở đây cần phân biệt chuyển giá với trường hợp 
khai giá giao dịch thấp đối với cơ quan quản lý để 
trốn thuế nhưng đằng sau đó họ vẫn thực hiện 
thanh toán đầy đủ theo giá thỏa thuận; còn giao 
dịch bị chuyển giá, họ sẽ không phải thực hiện vế 
sau của việc thanh toán trên và thậm chí họ có thể 
định giá giao dịch cao. Các đối tượng này nắm bắt 
và vận dụng được những quy định khác biệt về 
thuế giữa các quốc gia, các ưu đãi trong quy định 
thuế để hưởng lợi có vẻ như hoàn toàn hợp pháp 
(tránh thuế). 
Ngoài ra, hành vi chuyển giá nhằm tối thiểu 
nghĩa vụ thuế thu nhập DN không chỉ diễn ra tại 
các DN FDI, mà còn diễn ra giữa các bên liên kết 
trong nội địa một quốc gia. Đó là khi Tập đoàn 
kinh tế trong nước lợi dụng chính sách ưu đãi của 
nhà nước, thành lập một số công ty con hoạt động 
trong những lĩnh vực và địa bàn khác nhau, trong 
đó có những lĩnh vực, địa bàn được ưu đãi thuế 
TNDN, từ đó tìm cách chuyển lợi nhuận trước 
thuế từ DN không được ưu đãi thuế sang DN liên 
kết được ưu đãi thuế hoặc chuyển lợi nhuận trước 
thuế từ DN có lãi sang DN bị lỗ thông qua giá 
chuyển giao sản phẩm và cung ứng dịch vụ giữa 
các bên để giảm thiểu nghĩa vụ thuế tổng hợp 
của cả tập đoàn. Hành vi chuyển giá của DN liên 
kết không chỉ đơn thuần là việc điều chuyển lợi 
nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế 
suất thấp hơn để tránh thuế mà nó còn bao gồm 
cả chiều ngược lại. Nguyên nhân chính là do công 
ty mẹ muốn thu hồi vốn nhanh hoặc việc chuyển 
lợi nhuận để thực hiện chiến lược kinh doanh đã 
được xây dựng. 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 35Số 111 - tháng 1/2017
Có rất nhiều dạng chuyển giá khác nhau của 
MNC
- Nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu
(tài sản vô hình);
- Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ ở 
nước ngoài, hoặc từ công ty đối tác trong liên 
doanh với giá cao. Những nguyên liệu này chủ yếu 
có tính độc quyền cao;
- Nâng chi phí các đơn vị hành chính và quản lý;
- Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết 
giá mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu giữa các 
công ty trong MNC;
- Chuyển giá thông qua hình thức tài trợ bằng 
nghiệp vụ vay từ công ty mẹ;
- Chuyển giá thông qua các trung tâm tái tạo hóa đơn;
- 
Có nhiều yếu tố thúc đẩy các MNC chuyển giá
- Sự khác biệt về thuế
Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình, 
các MNC luôn tìm kiếm một lợi thế từ thuế suất 
thuế TNDN của các quốc gia có mức thuế suất 
khác nhau bằng các hành vi chuyển giá. Các thủ 
thuật thường sử dụng là nâng giá mua đầu vào các 
nguyên vật liệu, hàng hóa và định giá bán ra hay 
giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng tại các 
quốc gia có thuế suất thuế TNDN cao. Nhờ vậy, các 
MNC đã chuyển một phần lợi nhuận từ quốc gia 
có thuế suất thuế TNDN cao sang quốc gia có thuế 
suất thuế TNDN thấp, như thế các MNC đã thực 
hiện được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình. 
Nói tóm lại, sự khác biệt về thuế suất thuế TNDN 
là động cơ lớn thúc đẩy chuyển giá.
- Sự thay đổi của tỷ giá hối đoái
Nhằm bảo toàn vốn ban đầu theo nguyên tệ, 
MNC rút vốn đầu tư ở quốc gia mà họ kỳ vọng vào 
việc đồng tiền nước đó sẽ yếu đi trong tương lai. 
Như vậy, lúc này, ngoài lợi nhuận thu được, MNC 
còn thu được một khoản lợi nhuận chênh lệch do 
sự biến động có lợi về tỷ giá.
- Hoạt động liên doanh liên kết
Nhằm tăng cường tỷ lệ vốn góp trong hoạt động 
liên doanh liên kết, MNC định giá thật cao các yếu 
tố đầu vào từ công ty mẹ nắm quyền quản lý.
- Tình hình lạm phát của các quốc gia
MNC sẽ tiến hành chuyển giá ở các nước có tỷ 
lệ lạm phát cao để bảo toàn số vốn đầu tư và lợi 
nhuận trong điều kiện đồng tiền nước đang đầu tư 
bị mất giá.
- Những biến động kinh tế - chính trị thế giới
MNC sẽ thực hiện chuyển giá để chống lại các 
tác động bất lợi của các chính sách kinh tế ở nước 
đang đầu tư, mặt khác hoạt động chuyển giá làm 
giảm các khoản lãi dẫn đến giảm áp lực đòi tăng 
lương của lực lượng lao động.
Căn cứ để xem xét hành vi chuyển giá
Giá giao kết được coi là cơ sở để xem xét hành 
vi chuyển giá. Chỉ có thể đánh giá một giao dịch có 
chuyển giá hay không khi so sánh giá giao kết với 
giá thị trường. Nếu giá giao kết không tương ứng 
với giá thị trường thì có nhiều khả năng để kết luận 
rằng giao dịch này có biểu hiện chuyển giá.
Ở Việt Nam hiện nay, hiện tượng chuyển giá 
phổ biến trong doanh nghiệp là làm tăng giá trị 
máy móc thiết bị, bí quyết công nghệ và nguyên 
vật liệu đầu vào của doanh nghiệp FDI, đồng thời 
làm giảm giá trị sản phẩm đầu ra khiến cho doanh 
nghiệp FDI bị thua lỗ giả tạo. Không ít trường hợp 
các doanh nghiệp liên doanh có vốn FDI liên tục 
thua lỗ (do chuyển giá) đã khiến cho phần vốn góp 
của phía Việt Nam trong liên doanh bị giảm tỷ lệ, 
buộc phía Việt Nam nhượng lại phần vốn góp do 
không chịu nổi thua lỗ, biến doanh nghiệp liên 
doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Bên cạnh đó, các thủ thuật chuyển giá khác còn 
có kê khai tăng chi phí bản quyền, quảng cáo, kê 
khống nhóm vật tư đặc biệt, tăng chi phí sản xuất, 
“vận dụng linh hoạt” các chi phí tài chính từ Tập 
đoàn mẹ ở nước ngoài.
Như vậy, khi công ty con a bán hàng cho công 
ty con B trong cùng một MNC thuộc hai quốc gia 
khác nhau, muốn xác định giá chuyển nhượng 
hàng hoá để tối thiểu hoá số thuế phải nộp sẽ dựa 
trên nguyên tắc cơ bản sau đây.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN36 Số 111 - tháng 1/2017
- Nếu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 
của công ty con a lớn hơn thuế suất của công ty B 
thì giá chuyển nhượng càng thấp càng tốt.
- Nếu thuế suất thu nhập doanh nghiệp của 
công ty con a nhỏ hơn thuế suất của công ty con B 
thì giá chuyển nhượng càng cao càng tốt.
3. Thực trạng chuyển giá của các doanh nghiệp 
FDI tại Việt Nam
Tính đến cuối năm 2016, cả nước có khoảng 
trên 15.000 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn 
đăng ký hơn 230 tỷ uSD, vốn thực hiện hơn 120 tỷ 
uSD. Cũng theo con số thống kê, trong số các dự 
án FDI đang hoạt động là chi nhánh, công ty con 
của hơn 1.600 MNC lớn nhỏ trên thế giới. Trong 
đó, đại bộ phận các MNC khổng lồ đều đã có chi 
nhánh và công ty con ở Việt Nam.
Có thể nói, khu vực kinh tế FDI là một bộ phận 
hết sức quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Ở đó 
có hơn 4 triệu lao động làm việc trực tiếp và hàng 
chục triệu lao động gián tiếp khác. Hàng năm, kinh 
tế FDI đã đóng góp khoảng ¼ GDP của nền kinh 
tế, gần 60% trong tổng kim ngạch xuất khẩu và gần 
20% trong tổng thu NSNN.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực 
cho nền kinh tế, khu vực FDI cũng đã và đang bộc 
lộ những vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực nổi bật là 
chuyển giá, trốn thuế, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi 
thật, gây thất thu n ...  (45 triệu 
uSD), Bắc Ninh (73 triệu uSD).
Trước vấn nạn chuyển giá ngày càng gia tăng, 
năm 2012 Tổng cục Thuế xây dựng chương trình 
thanh tra kiểm soát giá chuyển nhượng trong giai 
đoạn 2012-2015, đồng thời, quyết định thành lập 
Tổ quản lý giá chuyển nhượng. Chỉ tính trong 3 
năm kể từ khi Tổng cục Thuế thành lập Tổ quản 
lý giá chuyển nhượng đã phát hiện nhiều vụ việc 
chuyển giá, với giá trị điều chỉnh rất lớn. Tại các 
Cục thuế địa phương đều đã quyết liệt thực hiện 
thanh tra, kiểm tra nhằm ngăn ngừa tình trạng 
chuyển giá của các DN.
Tại Cục thuế TP. Hồ Chí Minh, ngay trong năm 
2012, cơ quan này đã thanh tra DN kê khai lỗ và DN 
giao dịch liên kết có dấu hiệu chuyển giá. Kết quả, 
đã giảm lỗ hơn 2.688,5 tỷ đồng; giảm khấu trừ 86,8 
tỷ đồng; truy thu, truy hoàn và phạt 2.611 tỷ đồng.
Riêng thanh tra 16 DN dệt may có dấu hiệu 
chuyển giá, Cục thuế Thành phố đã giảm lỗ 367,8 tỷ 
đồng và truy thu 11,3 tỷ đồng. Chiêu thức chuyển 
giá của DN dệt may là khai tăng chi phí nguyên liệu 
đầu vào, giá gia công sản phẩm thấp dẫn tới thua 
lỗ triền miên. Cũng trong năm 2012, tại Đồng Nai, 
cơ quan thuế thanh tra giá chuyển nhượng tại một 
DN FDI sản xuất sợi (vốn đầu tư 7 triệu uSD) khai 
lỗ hơn 2.100 tỷ đồng. Kết quả, đã buộc DN giảm 
hết số lỗ khai báo và xác định thu nhập chịu thuế 
hơn 1.100 tỷ đồng. 
Kết quả thanh tra đã giúp ngân sách không bị 
thất thu hơn 340 tỷ đồng và có cơ sở để đấu tranh 
với các DN chuyển giá khác. Trong đó, tập trung 
thanh tra DN FDI ở 5 lĩnh vực là bất động sản, xây 
dựng (Hà Nội), dệt may (TP. Hồ Chí Minh), sản 
xuất sợi vải (Đồng Nai), sản xuất lắp ráp ô tô (Vĩnh 
Phúc), sản xuất cơ khí (Bình Dương). Hàng loạt 
DN liên tục báo lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng sẽ bị 
đưa vào tầm ngắm thanh tra.
Tháng 9/2012, Cục Thuế TP. Hà Nội đã tiến 
hành thanh tra chuyển giá tại Công ty TNHH một 
thành viên Keangnam Vina. Đây là DN 100% vốn 
của Hàn Quốc (thành lập năm 2007) nhưng liên 
tục báo lỗ với tổng số lỗ lũy kế đến hết năm 2011 
là 277 tỷ đồng.
Có nhiều nghi vấn chuyển giá trong các giao 
dịch liên kết đang được cơ quan thuế làm rõ, như 
Keangnam Vina trả lãi suất tiền vay tới 12%/năm (lãi 
suất của ngân hàng Việt Nam từ 5 - 7%/năm) cho 
khoản vay 400 triệu uSD từ ngân hàng Kookmin 
bank (Hàn Quốc), thành viên trong cùng tập đoàn; 
trả phí dàn xếp vốn tới 30 triệu uSD cho nhà thầu 
chính, Cty Keangnam Enterprises.Ltd, cùng với 
nhiều khoản chi phí khác lên tới vài triệu uSD
Trong năm 2013, ngành Thuế tiếp tục đẩy 
mạnh, tập trung nhân lực vào công tác trọng tâm 
chống chuyển giá đối với các DN FDI có giao dịch 
liên kết, liên tục khai lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng 
sản xuất, kinh doanh. Theo đó, kết quả thanh tra, 
kiểm tra tại 2.110 DN đã truy thu, truy hoàn, phạt 
hơn 988 tỷ đồng, giảm khấu trừ 136,95 tỷ đồng. 
Đặc biệt thanh tra thuế đã buộc DN phải giảm lỗ 
lên tới hơn 4.192 tỷ đồng. Theo đánh giá của thanh 
tra, số tiền truy thu chủ yếu tập trung ở khu vực 
DN FDI (chiếm 40% tổng số thu), tỷ lệ số thu bình 
quân trên 1 DN là 1,73 tỷ đồng. 
Tuy nhiên, con số trên chỉ phản ánh một phần 
của bức tranh về thực trạng trốn thuế của DN FDI. 
Báo cáo của 63 cục thuế, hơn 100 chi cục thuế trên cả 
nước thực sự khiến không ít người phải giật mình. 
Cụ thể, kết quả thanh tra tại 870 DN FDI có tới 720 
DN vi phạm. Đáng lưu ý là tại một số đơn vị, tỷ lệ vi 
phạm lên đến 100% như Cục thuế Bắc Giang thanh 
tra 16 DN thì cả 16 đều vi phạm. Tỷ lệ này diễn ra 
tương tự tại Hòa Bình (16/16), Gia Lai (15/15) 
Tại một số tỉnh, thành khác dù không đến 100% 
nhưng tỷ lệ này cũng rất lớn như Hà Nội thanh tra 
332 DN thì phát hiện có 326 đơn vị vi phạm, số 
tiền giảm lỗ hơn 1.500 tỉ đồng, truy thu, phạt, truy 
hoàn gần 498 tỷ đồng. TP. Hồ Chí Minh thanh tra 
193 DN FDI, có tới 164 DN vi phạm, giảm lỗ hơn 
870 tỷ đồng và truy thu, phạt gần 173 tỷ đồng. Còn 
tại 1.240 DN bị kiểm tra, có tới 942 DN vi phạm. 
Cục thuế Bắc Giang kiểm tra 106 DN có 106 DN vi 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN38 Số 111 - tháng 1/2017
phạm, tỷ lệ này cũng xảy ra tại Đồng Nai 39/39, Gia 
Lai 30/30, Hải Phòng 45/45, Thái Nguyên 46/46, 
Quảng Ngãi 80/80
Năm 2014, ngành Thuế đã tiến hành thanh 
tra, kiểm tra chống chuyển giá tại 2.866 DN khai 
báo kinh doanh thua lỗ, DN nghi ngờ có dấu hiệu 
chuyển giá và DN có hoạt động giao dịch liên kết, 
tăng 80% so với năm 2013. Kết quả là, cơ quan thuế 
đã giảm lỗ hơn 5.830 tỷ đồng, truy thu, truy hoàn 
và phạt gần 1.701 tỷ đồng, so với năm 2013 tăng 
tương ứng gần 82% và 112%. Trong đó, qua thanh 
tra, kiểm tra đối với 30 DN FDI có giao dịch liên 
kết, rủi ro cao về chuyển giá, cơ quan thuế đã giảm 
lỗ trên 1.600 tỷ đồng, sau khi miễn giảm thuế do 
ưu đãi đầu tư, đã truy thu thuế thu nhập DN và xử 
phạt vi phạm trên 600 tỷ đồng.
Tính riêng trong 9 tháng đầu năm 2015, ngành 
Thuế đã kiểm tra và phát hiện 1.600 DN có dấu 
hiệu chuyển giá. Ngay cả trường hợp Công ty 
Metro Cash & Carry Việt Nam, sau khi công bố 
kết quả thanh tra bước đầu, đã điều chỉnh giảm lỗ, 
giảm khấu trừ và truy thu thuế với tổng số tiền 507 
tỷ đồng. Hiện nay, cơ quan thuế đang tiến hành rà 
soát, kiểm tra để làm rõ nghi vấn dấu hiệu chuyển 
giá ở Công ty này.
4. Giải pháp chống chuyển giá
Chuyển giá được coi là hoạt động “cổ điển” của 
các MNC, nhưng không hề giảm xuống trong đương 
đại. Chống chuyển giá là công việc làm đau đầu nhiều 
Chính phủ và các chuyên gia trên thế giới. Theo 
chúng tôi, cần phải triển khai áp dụng đồng bộ nhiều 
giải pháp và phải được tiến hành một cách quyết liệt, 
kiên trì, thường xuyên. Tại Việt Nam, để hạn chế tình 
trạng này cần tập trung thực hiện một cách quyết liệt 
và có hiệu quả vào một số giải pháp sau đây.
Thứ nhất, Khẩn trương hoàn thiện hơn nữa 
khuôn khổ pháp lý chống chuyển giá. Theo chúng 
tôi, trước mắt, Việt Nam cần tập trung khẩn trương 
hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá 
và tiến tới ban hành Luật Chống chuyển giá; thu 
hẹp các ưu đãi về thuế, cụ thể là hạn chế tối đa các 
chính sách xã hội trong ưu đãi thuế; chuyển giao 
quyền điều tra cho cơ quan thuế từ cấp Tổng cục và 
lâu dài đến cơ quan thuế cấp tỉnh, thành phố; hoàn 
thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người, DN nộp 
thuế để từ đó theo dõi sát sao những thay đổi về 
doanh thu, lợi nhuận của các DN. 
Thứ hai, Cần phải có một bộ máy chống chuyển 
giá hoàn chỉnh và đủ mạnh. Mới đây, Tổng cục 
Thuế chính thức thành lập Phòng Thanh tra giá 
chuyển nhượng. Đồng thời, lực lượng thanh tra giá 
chuyển nhượng được thành lập tại 4 Cục thuế địa 
phương có nhiều rủi ro liên quan đến giá chuyển 
nhượng như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình 
Dương và Đồng Nai. Đây là lực lượng chuyên trách 
làm việc chống chuyển giá tại cơ quan Thuế Trung 
ương đến địa phương, cũng như tiến hành thu thập 
xử lý thông tin từ các DN có quan hệ liên kết từ cơ 
quan thuế và bên thứ ba.
Vấn đề đặt ra hiện nay là các cơ quan thuế cần 
khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đáp 
ứng được yêu cầu khai thác, phân tích rủi ro và làm 
căn cứ để xác định giá thị trường đối với giao dịch 
liên kết. Bởi theo các Cục thuế địa phương, việc 
nhận dạng chuyển giá không khó, nhưng quá trình 
xử lý gặp rất nhiều khó khăn vì chưa có dữ liệu, 
nên cán bộ thuế vẫn phải làm thủ công, nhặt từng 
khoản mục để so sánh, đối chiếu.
Hơn nữa, không nên coi chống chuyển giá hầu 
như chỉ là trách nhiệm tập trung vào Tổng cục 
Thuế, mà nên coi đây là công việc bức bách, quan 
trọng của nhiều ngành, lĩnh vực khác nữa, như Cơ 
quan Quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài (Bộ Kế 
hoạch và Đầu tư), Tổng cục Hải quan, Cơ quản 
Quản lý thị trường (Bộ Công thương), Cảnh sát 
kinh tế (Bộ Công an) Do vậy, nên có một tổ chức 
chống chuyển giá quốc gia trực thuộc cơ quan nào 
đó của Chính phủ cao hơn Tổng cục Thuế, chí ít 
trước mắt cũng là nên trực thuộc Bộ Tài chính, thì 
mới đủ hiệu lực, hiệu quả để giải quyết các vấn đề.
Thứ ba, áp dụng bắt buộc phương pháp định 
giá thỏa thuận trước đối với MNC khi thực hiện 
đầu tư vào Việt Nam (advance pricing agreement 
- aPa). Biện pháp này đang được áp dụng rộng 
rãi tại châu Âu và nhiều nước trong khu vực như: 
Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Malaysia... Tại 
Việt Nam, theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung 
một số điều của Luật Quản lý Thuế, từ 1/7/2013 cơ 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 39Số 111 - tháng 1/2017
quan thuế được phép 
áp aPa. 
Theo cơ chế này, 
các MNC phải chủ 
động đề xuất biện 
pháp tính giá hoặc 
mức giá mua, bán 
hàng hóa, dịch vụ giữa 
các thành viên trong 
Tập đoàn, trước khi kê 
khai và nộp thuế. Cơ 
quan thuế sẽ phối hợp 
với cơ quan thuế nước 
ngoài đã ký kết hiệp 
định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam tổ chức 
giám sát, kiểm soát để chống gian lận thuế.
Về lý thuyết, aPa có thể giúp giảm bớt tình 
trạng khai gian giá và điệp khúc “lỗ giả lãi thật” 
mà dư luận đã nhắc tới ở nhiều DN. Tuy nhiên, 
do aPa áp dụng trên nguyên tắc tự nguyện nên 
cơ quan thuế không thể ép DN phải thực hiện. Cơ 
quan thuế cần có cơ chế khuyến khích các DN có 
giao dịch liên kết áp dụng aPa để tránh thanh tra 
về chuyển giá. Hiện nay, Việt Nam cũng đã ban 
hành hướng dẫn về aPa và đã có một số DN xin 
áp dụng. 
Tuy nhiên, aPa cũng là một quá trình phức 
tạp và mất nhiều thời gian nên chỉ phù hợp với 
các DN có quy mô lớn và có mô hình kinh doanh 
ổn định. Mặt khác, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế 
cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý trong quản 
lý chuyển giá. 
Thứ tư, Minh bạch, rõ ràng về ưu đãi thuế 
đối với DN FDI. Chính phủ và các cơ quan chức 
năng cũng cần rà soát, điều chỉnh theo hướng vừa 
thu hẹp khoảng cách về các ưu đãi thuế giữa các 
ngành, lĩnh vực và vùng miền, địa phương, vừa 
minh bạch, rõ ràng. Như đã nêu ở trên, một trong 
những nguyên nhân dẫn đến hành vi chuyển giá 
là có sự chênh lệch thuế thu nhập DN giữa các 
quốc gia, chênh lệch thuế suất thuế thu nhập DN 
trong một quốc gia do áp dụng thuế suất ưu đãi và 
các ưu đãi khác như miễn, giảm thuế. 
Chúng tôi cho rằng, đã đến lúc Việt Nam không 
còn thu hút FDI bằng mọi giá, do vậy nên cân nhắc, 
chỉ cho phép ưu đãi thuế đối với một số ngành 
nghề, lĩnh vực, vùng miền và trong những trường 
hợp có lợi nhất so với các hình thức ưu đãi khác. 
Thứ năm, Chú trọng, tăng cường công tác 
thanh kiểm tra thuế của cơ quan Thuế nhà nước 
đối với các DN FDI. Cơ quan thuế các cấp cần 
coi tăng cường thanh kiểm tra thuế có liên quan 
đến giá chuyển giao là một trong những nhiệm vụ 
trọng tâm của ngành Thuế. Đặc biệt chú trọng việc 
thanh tra, kiểm tra giá chuyển giao đối với các DN 
có nhiều thành viên, các ngành nghề có dấu hiệu 
rủi ro lớn về thuế do hành vi chuyển giá của DN 
liên kết, các DN đã và đang thực hiện tái cơ cấu có 
khả năng lợi dụng chuyển giá để tránh thuế. Đối 
với các trường hợp chuyển giá, phải có chế tài xử 
phạt theo hướng tăng mức phạt và hình thức phạt 
so với quy định hiện tại để đảm bảo tính nghiêm 
minh của pháp luật. 
Thứ sáu, Có chế tài xử phạt nặng đối với hành 
vi chuyển giá. Nhiều quốc gia có chế tài xử phạt rất 
nặng đối với hành vi chuyển giá như:
Australia, số tiền phạt bằng 50% số thuế tránh 
được nếu công ty trả thuế sử dụng giá chuyển 
nhượng với mục đích nhằm giảm thiểu số thuế 
phải nộp. Phạt 25% số thuế tránh được nếu công 
ty trả thuế sử dụng giá chuyển nhượng nhằm các 
mục đích khác;
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN40 Số 111 - tháng 1/2017
Trung Quốc, công ty trả thuế không khai báo về 
giá thị trường đúng hạn thì cơ quan thuế sẽ ấn định 
khoản tiền phạt lên đến 2.000 nhân dân tệ (tương 
đương trên 6 triệu đồng) và có thể lên đến 10.000 
nhân dân tệ (trên 30 triệu đồng) trong trường hợp 
nghiêm trọng;
Ấn Độ, cơ quan thuế địa phương có thể ấn định 
mức phạt lên đến 300% so với mức chênh lệch về số 
thuế phải nộp (giữa số thuế do công ty trả thuế khai 
báo và số thuế do cơ quan thuế tính lại). Các công 
ty trả thuế được yêu cầu tính trước thu nhập chịu 
thuế trong một năm và có nghĩa vụ phải nộp thuế 
trước. Trường hợp không hoàn thành nghĩa vụ này 
thì khoản chậm nộp phải chịu lãi suất 18%/năm;
Hàn Quốc, số tiền phạt sẽ được ấn định từ 10% 
đến 30% đối với số chênh lệch thuế thu nhập doanh 
nghiệp. Ngoài ra, công ty còn phải chịu lãi suất đối 
với khoản nộp bổ sung (được coi như chậm nộp) 
là 18,25%/năm. Nếu công ty trả thuế không trình 
ra được các tài liệu chứng minh theo yêu cầu thì có 
thể bị phạt đến 30 triệu won (tương đương gần 600 
triệu đồng theo thời giá);
New Zealand, nếu công ty trả thuế không đưa 
ra các tài liệu chứng minh thì cơ quan thuế sẽ ấn 
định một khoản phạt lên đến ít nhất là 20% so với 
số thuế phải nộp;
Philippines, công ty trả thuế sẽ bị phạt với số tiền 
tương đương 25% - 50% so với số thuế chênh lệch. 
Ngoài ra, số thuế chênh lệch này bị coi như là một 
khoản chậm nộp và phải chịu lãi suất 20%/năm.
Theo chúng tôi, Việt Nam cần học tập kinh 
nghiệm các nước, ban hành ngay các mức xử phạt 
nặng đối với các hành vi chuyển giá trốn thuế của 
DN FDI và cần qui định thành những điều khoản 
cụ thể trong Luật Chống chuyển giá đang được xây 
dựng và sẽ ban hành trong thời gian tới.
Thứ bảy, Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và 
liên thông dữ liệu, thông tin về DN FDI. Chúng tôi 
được biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang thực hiện 
vấn đề này. Đây là một đòi hỏi rất cấp thiết để các 
cơ quan chức năng của Việt Nam có sự phối hợp 
đồng bộ, thông suốt trong kiểm soát chuyển giá của 
các cơ quan chức năng. Thời gian tới, ngành Thuế, 
cơ quan cấp phép đầu tư, hải quan, công an, ngân 
hàng... cần tăng cường xây dựng cơ sở dữ liệu và 
kết nối thông tin để có được một hệ thống thông 
tin đảm bảo cho quá trình quản lý thuế nói chung 
và hoạt động phân tích rủi ro, thanh tra, xử lý vi 
phạm về giá chuyển giao giữa các thành viên liên 
kết nói riêng.
Thứ tám, Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn 
nhân lực cho ngành thuế, hải quan và một số các 
ngành khác có liên quan đối với công tác chống 
chuyển giá. Cần phải có đội ngũ cán bộ tinh thông 
nghiệp vụ, dày dạn kinh nghiệm, giỏi ngoại ngữ, 
am hiểu luật và thông lệ quốc tế thì mới có thể 
theo dõi, kiểm soát đúng, kịp thời việc chuyển giá. 
Muốn như vậy, phải tập trung đào tạo đội ngũ cán 
bộ một cách toàn diện, trong đó chú trọng đào tạo 
về kỹ năng xác định giá thị trường, kiến thức về 
luật và kinh doanh quốc tế, tin học, ngoại ngữ... 
Tóm lại, công tác chống chuyển giá đối với các 
DN FDI là rất cam go, trong ngắn hạn có thể tác 
động ít nhiều đến khả năng thu hút đầu tư nước 
vào Việt Nam, song về dài hạn, đây là công việc 
cần thiết. Có như vậy thì việc thu hút FDI vào Việt 
Nam mới có thể phát triển theo hướng tích cực, 
lành mạnh và bền vững, để FDI thực sự là nguồn 
lực quí giá như vốn có của nó, giúp cho Việt Nam 
trở thành đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng 
và văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quản trị tài chính công ty đa quốc gia, Giáo 
trình của Học viện Tài chính, Nxb Tài 
chính, 2010; 
2. TS. Nguyễn Thị Thu Hoài, NCS Dương Văn 
An, Chuyển giá trong các doanh nghiệp 
FDI: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Tài 
chính, kỳ 2, tháng 12/2015; 
3. Một số tình hình được tổng hợp từ báo cáo 
tổng hợp của Tổng cục Thuế.

File đính kèm:

  • pdfvan_de_chuyen_gia_cua_cong_ty_da_quoc_gia_tren_the_gioi_va_d.pdf