Vấn đề chênh lệch tiền lương tại khu vực Đông Nam Bộ theo giới tính, khu vực thành thị và nông thôn

Mục đích của nghiên cứu này là nhằm phân tích chênh lệch thu nhập tại khu vực Đông Nam Bộ với dữ liệu

VHLSS năm 2014 và phương pháp hồi quy OLS theo giới tính và theo nhóm đối tượng thành thị và nông thôn. Kết quả cho

thấy có sự chênh lệch tiền lương lao động nam – nữ, trong đó đặc biệt là chênh lệch liên quan đến việc trả thù lao theo bằng

cấp của lao động nam cao hơn của nữ. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy có chênh lệch tiền lương lao động ở thành thị

- nông thôn, các lao động ở thành thị có kinh nghiệm và học vấn cao được trả lương cao hơn lao động ở nông thôn, đặc biệt

ở khu vực TP Hồ Chí Minh, kế đến là Bình Dương và Đồng Nai. Dựa trên các kết quả này, bài viết đã đề xuất một số kiến

nghị nhằm giảm sự chênh lệch thu nhập giữa các đối tượng tại khu vực Đông Nam Bộ.

pdf 6 trang kimcuc 19340
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề chênh lệch tiền lương tại khu vực Đông Nam Bộ theo giới tính, khu vực thành thị và nông thôn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề chênh lệch tiền lương tại khu vực Đông Nam Bộ theo giới tính, khu vực thành thị và nông thôn

Vấn đề chênh lệch tiền lương tại khu vực Đông Nam Bộ theo giới tính, khu vực thành thị và nông thôn
JOURNAL OF SCIENCE
OF LAC HONG UNIVERSITY
JSLHU 
 Tp chí Khoa hc Lc Hng      
Tp chí Khoa hc Lc Hng 141
VẤN ĐỀ CHÊNH LỆCH TIỀN LƯƠNG TẠI KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ 
THEO GIỚI TÍNH, KHU VỰC THÀNH THỊ VÀ NÔNG THÔN 
The problem of wage differentials in the south east of Vietnam by sex, urban 
and rural 
Nguyễn Thị Ngọc Diệp1, Nguyễn Quốc Huy2,*, Lữ Phi Nga3 
 1Khoa Sau Đại Học - Trường Đại học Lạc Hồng, Đồng Nai, Việt Nam 
2,3Khoa Tài chính kế toán; Trường Đại học Lạc Hồng, Đồng Nai, Việt Nam
TÓM TẮT. Mục đích của nghiên cứu này là nhằm phân tích chênh lệch thu nhập tại khu vực Đông Nam Bộ với dữ liệu 
VHLSS năm 2014 và phương pháp hồi quy OLS theo giới tính và theo nhóm đối tượng thành thị và nông thôn. Kết quả cho 
thấy có sự chênh lệch tiền lương lao động nam – nữ, trong đó đặc biệt là chênh lệch liên quan đến việc trả thù lao theo bằng 
cấp của lao động nam cao hơn của nữ. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy có chênh lệch tiền lương lao động ở thành thị 
- nông thôn, các lao động ở thành thị có kinh nghiệm và học vấn cao được trả lương cao hơn lao động ở nông thôn, đặc biệt 
ở khu vực TP Hồ Chí Minh, kế đến là Bình Dương và Đồng Nai. Dựa trên các kết quả này, bài viết đã đề xuất một số kiến 
nghị nhằm giảm sự chênh lệch thu nhập giữa các đối tượng tại khu vực Đông Nam Bộ. 
TỪ KHOÁ: Tiền lương; Đông Nam Bộ; Việt Nam 
ABSTRACT. The paper applying OLS approach aims to analyzes the wage differential of male and female workers, and labor 
in urban and rural areas in the South East provinces using the VHLSS 2014 data. The result for there is a difference in the 
wages of female workers, in which the difference in labor-related wages is higher than that of women. In addition, the study 
also found that there was a difference in wages in urban areas have more experienced and educated workers than in rural 
areas, especially in the Ho Chi Minh City, next Binh Duong and Dong Nai provinces. Based on these results, the paper 
proposes a number of recommendations to reduce the income gap in the South East provinces. 
KEYWORDS: Wage; Gender; Urban; Rural; South East Delta 
1. GIỚI THIỆU 
Trong giai đoạn 2007-2016, Việt Nam đã đạt được nhiều 
kết quả tích cực và quan trọng, GDP bình quân đầu người 
của Việt Nam đạt 289 USD năm 1995 nhưng đến năm 2016 
là 2.215 USD, cao gấp gần 7,5 lần so với năm 1995. Kinh tế 
luôn duy trì được mức tăng trưởng khá cao, bình quân hơn 
6%/năm. Tại Việt Nam, dù kinh tế đã ghi nhận nhiều cải 
thiện vượt bậc, tình trạng bất bình đẳng kinh tế vẫn còn khá 
dai dẳng. Theo Oxfam (2017) thì tình trạng gia tăng của bất 
bình đẳng tại Việt Nam đang đe dọa thành tựu phát triển của 
đất nước trong nhiều thập kỷ qua. Việc gia tăng bất bình đẳng 
trong thu nhập có thể gây bất ổn cho xã hội, góp phần làm 
giảm tăng trưởng kinh tế và khiến cho nhóm người nghèo 
càng khó thoát nghèo. Theo ADB (2014) thì bất bình đẳng 
kinh tế đang cản trở công cuộc giảm nghèo, và ước tính có 
thêm 240 triệu người trong vùng đáng lý đã thoát nghèo cùng 
cực trong 20 năm qua nếu tăng trưởng không đi kèm tăng bất 
bình đẳng. Theo số liệu Ngân hàng Thế giới (NHTG) cho 
thấy bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam tăng trong hai thập 
kỷ qua, và đáng chú ý hơn là số người giàu đang chiếm phần 
thu nhập quá lớn. Điều đáng quan tâm là nhóm có sự chênh 
lệch trong thu nhập sẽ đang phải gánh chịu sự bất bình đẳng 
nhất. Theo Oxfam (2017) mức độ thay đổi khoảng cách về 
thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất ở Việt Nam rất 
rõ rệt. Người giàu nhất Việt Nam có thu nhập trong một ngày 
cao hơn thu nhập của người Việt Nam nghèo nhất trong 10 
năm. Trong một giờ, người giàu nhất Việt Nam có mức thu 
nhập cao hơn gần 5.000 lần số tiền mà nhóm 10% nghèo nhất 
Việt Nam chi hàng ngày cho các nhu cầu thiết yếu. Đặc biệt, 
sự bất bình đẳng giữa nam và nữ còn rõ rệt. 
Đối với các tỉnh Đông Nam Bộ, theo định hướng của 
Chính phủ và tại Diễn đàn Kinh tế Đông Nam Bộ năm 7/2017 
tại TPHCM đều nhận định vùng Đông Nam Bộ là vùng kinh 
tế động lực quan trọng hàng đầu của cả nước, là 'cửa ngõ' 
kinh tế và cầu nối của Việt Nam ra thế giới. Đối với các vùng 
kinh tế Đông Nam Bộ, vùng Đông Nam Bộ là địa bàn về cơ 
bản sẽ đạt công nghiệp hóa vào năm 2035. Khu vực Đông 
Nam Bộ đóng góp khoảng 40% GDP, chiếm gần 60% nguồn 
thu ngân sách quốc gia, GDP tính theo đầu người cao gần 
gấp 2,5 lần mức bình quân cả nước; có tỷ lệ đô thị hóa cao 
nhất nước; tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng luôn cao hơn 
khoảng 1,4 lần đến 1,6 lần tốc độ tăng trưởng bình quân 
chung cả nước. 
Bên cạnh đó, Đông Nam Bộ là khu vực có tỉ lệ dân nhập 
cư cao nhất cả nước phục vụ cho nhu cầu lao động tại các 
khu công nghiệp, tập trung tập trung ở "tứ giác" TPHCM, 
Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu, đang mở rộng 
ra Long An, Tiền Giang, đồng thời thu hút được đầu tư tư 
nhân (cả trong nước và FDI) nhiều nhất nước. Sự gia tăng 
liên tục hai nhân tố đầu vào này đã giúp Đông Nam Bộ duy 
trì được tốc độ tăng trưởng GRDP cao hơn mặt bằng chung 
của cả nước, do vậy đóng góp rất lớn vào kết quả kinh tế 
chung của cả nước. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này cũng đối 
diện với thách thức lớn là khoảng cách giàu nghèo ngày càng 
lớn và sự chênh lệch về tiền lương cũng ngày càng gia tăng. 
Theo số liệu khảo sát mức sống dân cư VHLSS (2004-
2014) và nghiên cứu Oxfam (2017) cho thấy, các vùng ở 
Đông Nam Bộ có khoảng cách tiền lương giữa các vùng có 
xu hướng tăng. Như vậy, vùng Đông Nam bộ rõ ràng là một 
khu vực đang thực sự vượt trội về năng suất và tăng trưởng 
so với các vùng còn lại trong cả nước. Cho đến nay, các 
nghiên cứu kinh tế về tình hình Đông Nam Bộ có nhiều, tuy 
nhiên chưa có nghiên cứu nào phân tích đồng thời chênh lệch 
tiền lương theo giới tính và theo khu vực thành thị - nông 
thôn giữa các vùng tại Đông Nam Bộ. Những kết quả đạt 
được từ nghiên cứu này sẽ đưa ra các yếu tố giải thích chênh 
Received: January, 18th, 2018 
Accepted: May, 31st, 2018 
 *Corresponding author. 
 E-mail: nguyenquochuy@lhu.edu..vn 
 
Tp chí Khoa hc Lc Hng142
Vấn đề chênh lệch tiền lương tại khu vực đông nam bộ theo giới tính, khu vực thành thị và nông thôn 
lệch tiền lương, đặc biệt là yếu tố phân biệt đối xử giữa lao 
động nam và nữ sẽ mang lại rất nhiều hàm ý quan trọng trong 
chính sách phát triển cho vùng Đông Nam Bộ. 
2. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 
2.1 Chênh lệch thu nhập giữa thành thị - nông thôn 
Sự chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn có 
thể giải thích phần lớn bởi các đặc tính của cá nhân, mức độ 
giáo dục và loại hình nghề nghiệp (Ali và cộng sự, 2013). 
Nhiều nghiên cứu đã đạt được sự đồng thuận rằng sự bất bình 
đẳng thu nhập giữa thành thị và nông thôn gia tăng trong quá 
trình các nước phát triển chuyển đổi nền kinh tế (Knight and 
Song, 2003; Benjamin và cộng sự, 2005; Heshmati, 2007b; 
Su và Heshamti, 2013; Landmesser, 2016). 
Nghiên cứu của Yang và Zhou (1999) cho thấy sự bất bình 
đẳng thu nhập giữa thành thị và nông thôn gia tăng khi năng 
suất lao động trong các ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà 
nước ở thành thị cao hơn so với các ngành công nghiệp, nông 
nghiệp ở nông thôn, mặc dù trước đó, sự bất bình đẳng giữa 
thành thị và nông thôn đã được thu hẹp bởi thành công của 
chính sách nhằm giảm sự chênh lệch giữa nông thôn - thành 
thị, như tăng giá mua sắm nông sản, tự do hóa thị trường địa 
phương, và giảm các rào cản về việc các lao động di chuyển 
đến các thành phố. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức chênh 
lệch thu nhập thành thị - nông thôn chiếm 80% tổng mức bất 
bình đẳng trong xã hội Trung Quốc. Trong nghiên cứu của 
Wu và Perloff (2005) sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập thì 
chênh lệch tiền lương giữa thành thị - nông thôn cũng đóng 
vai trò quan trọng. Sự chênh lệch này cũng tìm thấy trong 
các nghiên cứu của Kanbur và Zhao (1999), Lin và cộng sự 
(2002), Heshmati (2004), và Yao cùng cộng sự (2005). 
Bên cạnh đó, sự chênh lệch thu nhập giữa thành thị và 
nông thôn còn do chiến lược phát triển trong giai đoạn đầu 
theo ngành được cho là mũi nhọn để kéo theo sự phát triển 
của các ngành khác và của cả nền kinh tế, đặc biệt là các 
ngành công nghiệp nặng. Chính vì thế, các chính sách đãi 
ngộ cùng với các hỗ trợ tài chính, ưu đãi về thuế đã thúc đẩy 
sự phát triển của khu vực thành thị. Do đó, thặng dư nông 
nghiệp được trích ra để tích lũy vốn đô thị lại trợ cấp đô thị 
chứ không dùng để phát triển chính ngành nông nghiệp, đã 
góp phần làm cho ngành nông nghiệp bị tụt hậu và sử dụng 
làm nền tảng cho phát triển các ngành khác (Kanbur và 
Zhang, 2005). 
Quá trình đô thị hóa và việc di dân từ nông thôn vào thành 
thị đã góp phần đóng góp thu nhập của nông thôn vào thành 
thị. Sự phát triển của khu vực thành thị đã thu hút sự nhập cư 
của các lao động có tay nghề, vốn, hàng hóa  đã làm tăng 
thu nhập cho khu vực thành thị (theo Li (2009), Murphy 
(2002)). Guo (2005) cho thấy có sự khác biệt về vốn con 
người và tỷ lệ sinh giữa thành thị và nông thôn, trong đó các 
phát triển tích cực chủ yếu là ở khu vực thành thị. Ngoài ra, 
sự chênh lệch tiền lương giữa các tỉnh với nhau trong nghiên 
cứu của Zhang (2004) là do sự phát triển của khu vực tài 
chính. Nghiên cứu của Su và Heshamti (2013) cho thấy học 
vấn và nghề nghiệp là các nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến 
thu nhập của hộ gia đình. Cả 2 yếu tố này thể hiện các ảnh 
hưởng không giống nhau tại thành thị, học vấn được đánh 
giá cao hơn đối với các cá nhân có thu nhập cao, trong khi 
với khu vực nông thôn, học trường nghề hoặc đại học có ý 
nghĩa quan trọng với các hộ gia đình thu nhập thấp. Kết quả 
cho thấy chênh lệch tiền lương được giải thích chủ yếu do 
đặc tính của các cá nhân, đặc biệt là học vấn và nghề nghiệp. 
Chênh lệch tiền lương thành thị - nông thôn còn do các 
chênh lệch về khả năng đọc, viết và trình độ học vấn và nghề 
nghiệp. Mức học vấn thấp có có hệ số cao trong khu vực 
nông thôn, trong khi mức học vấn cao hơn có hệ số tốt hơn 
ở khu vực thành thị. Các lao động trong lĩnh vực nông và ngư 
nghiệp có thu nhập thấp nhất được tìm thấy trong nghiên cứu 
của Ali và ctg. (2013). Haisken-Denew và Michaelsen 
(2011) sử dụng các biến gồm nguồn vốn con người (học vấn, 
nghề nghiệp hoặc kinh nghiệm), các đặc điểm cá nhân (tuổi, 
giới tính, tình trạng hôn nhân) và những đặc điểm lao động 
của địa phương để phân tích khoảng cách giữa thành thị và 
nông thôn nghiên cứu trong các khu vực sản xuất chính thức 
và phi chính thức tại Mexico. Kết quả cho thấy kinh nghiệm 
làm việc đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích chênh 
lệch tiền lương thành thị - nông thôn, và thực tế đã kéo lao 
động từ khu vực nông thôn sang thành thị. Landmesser 
(2016) nghiên cứu các hộ gia đình tại Ba Lan cho thấy có xu 
hướng gia tăng chênh lệch tiền lương giữa thành thị và nông 
thôn, điều này cho thấy các cư dân nông thôn bị bất lợi về 
tiền lương. 
2.2 Khác biệt về tiền lương giữa nam và nữ 
Các nghiên cứu về lựa chọn công việc cho rằng các mức 
tiền lương trên thị trường cao hơn đủ hấp dẫn thu hút lao 
động giỏi và có năng suất cao hơn để làm giảm chi phí trong 
kinh doanh bao gồm các yếu tố như: chi phí phỏng vấn tìm 
người thay người nghỉ việc, chi phí do thừa nhân viên không 
hiệu quả. Nếu nam giới bình quân có các đặc điểm cần 
thiết cho công việc để có khả năng tiến hành công việc phức 
tạp, và có năng suất cao hơn và có trách nhiệm thì họ nên 
được trả cao hơn phụ nữ. Kết quả này được thể hiện trong 
nghiên cứu của Kirkwood và Wigbout (1999), Dixon (1996) 
cho thấy chênh lệch này được giải thích bằng các đặc điểm 
quan sát được như tuổi, học vấn, loại hình công việc, nghề 
nghiệp, dân tộc, tình trạng hôn nhân, Frolich (2007) cho 
thấy chuyên ngành tốt nghiệp cũng có ý nghĩa quan trọng 
trong việc giải thích chênh lệch tiền lương theo giới tính tại 
Anh. Dixon (2000, 2003) cho rằng chênh lệch trong tương 
lai sẽ giảm do các cải thiện trong học vấn của nữ, cũng như 
kỳ vọng về việc các mức chi trả của nam và nữ sẽ dần giống 
nhau và các thay đổi khác về điều kiện nghề nghiệp của nam 
– nữ. 
Ryczkowski và Sliwicki (2014) nghiên cứu tại Ba Lan, và 
cho thấy nhân viên nữ dù có các đặc điểm phù hợp với nhu 
cầu của thị trường lao động, thì phần chênh lệch tiền lương 
theo giới tính là 10,1% - 14,6%, cho thấy và phụ nữ chịu thiệt 
hơn về lương so với nam giới, thể hiện phân biệt đối xử. Tuy 
nhiên, mức chênh lệch sau khi đã xem xét các yếu tố khác 
như tâm lý xã hội và các đặc điểm xã hội thì mức chênh lệch 
đã giảm với mức độ bất bình đẳng trong tiền lương giữa hai 
giới là khoảng 5%. 
Pacheco và ctg (2007) với dữ liệu nghiên cứu khảo sát tại 
NewZealand, sử dụng các biến giải thích là tuổi, dân tộc, tình 
trạng di cư, học vấn, nghề nghiệp, ngành công nghiệp, đặc 
điểm địa phương, đặc điểm hộ gia đình, tuổi của trẻ em để 
nghiên cứu về chênh lệch tiền lương trong đó có giới tính. 
Kết quả cho thấy chênh lệch về tiền lương là 12,71% và nhân 
viên là nữ giới thiệt thòi hơn. Theo nghiên cứu của Korn 
Ferry (2017) với dữ liệu khảo sát năm 2016 tại Thụy Điển, 
Pháp, Tây Ban Nha, Đức và Anh cho thấy phần lớn các nhân 
viên nữ được trả lương thấp hơn các nhân viên nam mặc dù 
đó là cùng loại công việc, đặc biệt ở Tây Ban Nha và Đức thì 
tỷ lệ tiền lương của nhân viên nữ thấp hơn nam giới rất nhiều 
từ 15-20%. 
Tp chí Khoa hc Lc Hng 143
Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Nguyễn Quốc Huy, Lữ Phi Nga 
Tại Việt Nam, Hoang và ctg. (2001) phân tích thu nhập ở 
thành thị và nông thôn, và hệ số hồi quy của biến giả của biến 
khu vực nông thôn có giá trị âm. Điều này cho thấy thu nhập 
trung bình ở nông thôn thấp hơn thành thị, và mức chênh lệch 
này gia tăng trong các năm tiếp theo. Liu (2001) sử dụng số 
liệu khảo sát VHLSS 1993 và 1998 để phân tích chênh lệch 
tiền lương, kết quả nghiên cứu cho thấy chênh lệch tiền 
lương giữa nam và nữ năm 1998 so với năm 1993 giảm 
khoảng 6%. Nguyễn và ctg. (2006) sử dụng dữ liệu VHLSS 
năm 2002 nhằm phân tích chênh lệch tiền lương giữa 2 khu 
vực kinh tế công và tư nhân, và chênh lệch tiền lương theo 
giới tính trong từng khu vực cho thấy công nhân làm việc tại 
các khu vực công nhận lương thấp hơn so với trong khu vực 
tư nhân, và học vấn là yếu tố gây ra chênh lệch tiền lương 
của khu vực công và tư nhiều nhất. 
Trần Thị Tuấn Anh (2015) đã sử dụng dữ liệu VHLSS 
2012 để tìm ra các yếu tố tác động lên tiền lương ở thành thị 
và nông thôn, đồng thời xác định mức chênh lệch giữa hai 
vùng này. Kết quả của nghiên cứu cho thấy bằng cấp tác 
động mạnh đến chênh lệch tiền lương và lao động ở thành thị 
có thu nhập cao hơn là ở nông thôn ở mọi phân vị nghiên 
cứu. 
Nghiên cứu của Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Tây 
Ban Nha tại Việt Nam (AECID) giai đoạn 2004 – 2014 thì 
khoảng cách tiền lương vẫn tồn tại và khác biệt giữa lao động 
nam và nữ và chênh lệch khá lớn. Năm 2004 bình quân tiền 
lương của lao động nữ chỉ bằng ¾ của nam, đến giai đoạn 
2012 – 2014, mức chệnh lệch tuy có giảm nhưng còn rất 
chậm. Khoảng cách tiền lương theo giới ở thành thị có độ 
giãn cách lớn hơn ở nông thôn. Nếu tính theo vị thế việc làm, 
hầu hết các nhóm đều tồn tại khoảng cách tiền lương theo 
giới, chỉ duy nhất nhóm lao động nữ là chủ cơ sở SXKD có 
khoả ... hìn chung trình độ 
của lao động trong khu vực này là không cao đa phần có trình 
độ trung học phổ thông và nghề. 
Thống kê này phù hợp với tình hình thực tế tại khu vực 
Đông Nam Bộ, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện có 12.000 dự án với 
tổng vốn đầu tư hơn 145 tỷ USD. Dự kiến, trong giai đoạn 
2016 – 2020, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào 
vùng sẽ đạt gần 60 tỷ USD, chiếm hơn một nửa tổng vốn FDI 
của cả nước. Qua đó, có thể thấy rõ sự vượt trội của khu vực 
này về năng suất và tăng trưởng so với các vùng còn lại khi 
chiếm khoảng 50% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả 
nước. Điều này góp phần thu hút số lượng lớn người lao động 
phổ thông từ các vùng nông thôn đến lao động và làm việc 
tại khu vực. Tình trạng này sẽ còn tiếp diễn trong giai đoạn 
sắp tới vì vùng Đông Nam Bộ được Ban Kinh tế Trung ương 
nhận định là vùng kinh tế động lực quan trọng hàng đầu của 
cả nước, là 'cửa ngõ' kinh tế và cầu nối của Việt Nam ra thế 
giới, nhất là Nghị quyết 53 ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị 
về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh 
Tp chí Khoa hc Lc Hng144
Vấn đề chênh lệch tiền lương tại khu vực đông nam bộ theo giới tính, khu vực thành thị và nông thôn 
vùng Đông Nam Bộ và kinh tế phía Nam tới năm 2010 và 
định hướng đến năm 2020. 
Theo kết quả ma trận hệ số tương quan của mô hình ở bảng 
2, giá trị tuyệt đối của hệ số tương quan giữa các biến độc 
lập đều nhỏ hơn 0.8 (Gujarati, 2004) cho kết luận rằng không 
có sự tương quan của các biến trong mô hình. Ngoài ra, biến 
bằng cấp có tương quan dương với biến tiền lương và có ý 
nghĩa thống kê ở mức 5%, nghĩa là bằng cấp càng cao thì 
tương ứng với thu nhập theo giờ cũng cao hơn. 
Bảng 2. Ma trận tương quan 
 hourlywage urban qualification age 
hourlywage 1 
urban 0,0194 1 
qualification 0,0876* 0,2233* 1 
age 0,0198 0,0279 0,0844* 1 
 married male dantoc 
married 1 
male 0,0312* 1 
kinh 0,0205 -0,0115 1 
*: có ý nghĩa thống kê là 5% 
Nhóm tác giả dùng hệ số phóng đại phương sai VIF 
(Variance Inflation Factor) để kiểm tra đa cộng tuyến, các 
kết quả cho thấy hệ số VIF < 10 có thể kết luận không có 
hiện tượng đa cộng tuyến (Gujarati, 2004), nhưng mô hình 
có hiện tượng phương sai thay đổi, do đó phương pháp khắc 
phục với phương pháp White - White robust standard errors 
- được sử dụng để thu được kết quả tốt hơn trong nghiên cứu 
này. 
4.2 Kết quả nghiên cứu 
Kết quả OLS được trình bày trong bảng 3 cho thấy kết quả 
hồi quy được nghiên cứu trên hai đối tượng nam và nữ. Đối 
với lao động Nam các bằng cấp có ý nghĩa thống kê và mức 
độ ảnh hưởng cao đến tiền lương trong khi đó ở nữ lại không 
có ý nghĩa thống kê. Độ tuổi thể hiện kinh nghiệm làm việc 
càng cao của Nam có hệ số dương và có ý nghĩa trong khi nữ 
giới thì thấp hơn và không có ý nghĩa thống kê, cho thấy thị 
trường lao động trong khu vực Đông Nam Bộ đánh giá cao 
các lao động Nam có tay nghề và kinh nghiệm. Lao động nữ 
làm việc tại khu vực tư nhân và nước ngoài có mức độ ảnh 
hưởng đến tiền cao hơn lao động Nam, đặc biệt là lao động 
tại khu vực tư nhân. Xét theo từng tỉnh thì khu vực TP HCM 
lao động nữ có mức ảnh hưởng đến tiền lương cao hơn nam 
giới hơn 2,5 lần và đều có ý nghĩa thống kê. Điều này có thể 
do đặc thù tại các loại hình doanh nghiệp tại khu vực Đông 
Nam Bộ là các khu công nghiệp với các ngành nghề may 
mặc, giày da  
Bảng 3. Hồi quy OLS với số liệu cả mẫu và mẫu cho lao động 
nam và nữ 
Tiền lương 
Nam Nữ 
Hệ số Sai số Hệ số Sai số 
Khu vực 
(urban) 
0,0698 
*** 
1,2330 
-9,3997 
10,5399 
Bằng cấp 
3,1603 
** 
0,3484 
1,3513 
1,3029 
Tuổi 
0,1421 
* 
0,0708 
0,1272 
* 
0,2323 
Tình trạng 
kết hôn 
5,4061 1,7061 10,3564 9,2630 
DN nhà nước 0,4664 1,9057 9,4275 7,8509 
DN tư nhân 
2,5189 
1,6337 
37,4967 
** 
34,0674 
DN nước 
ngoài 
2,2683 
1,7979 
7,9467 
** 
3,1166 
Tp.HCM 
3,9540 
* 
2,3365 
8,8258 
*** 
3,3866 
Bà Rịa -VT 0 - 0 - 
Bình Dương 0,6757 2,2212 8,0651 8,2260 
Bình Phước -2,3107 2,6294 1,3142 4,4439 
Tây Ninh 0,5655 2,9522 1,1380 4,4832 
Đồng Nai 0,1408 2,5063 39,2270 38,837 
Hằng số 7,2294 3,1172 -5,0447 5,0925 
*, **, ***: có ý nghĩa thống kê tại 10%, 5% và 1% 
Tương tự phân tích ở trên, nghiên cứu tiến hành phân tích 
chênh lệch tiền lương giữa lao động ở thành thị và nông thôn. 
Bảng 4 trình bày kết quả hồi quy các yếu tố tác động như thế 
nào đối với tiền lương của 2 nhóm ở thành thị và nông thôn. 
Ở thành thị thì lao động là nam và có bằng cấp càng cao 
thì có mức ảnh hưởng đến tiền lương cao, thể hiện ở hệ số 
hồi quy là dương và có ý nghĩa thống kê hơn khu vực nông 
thôn. Điều này chứng tỏ tại các thành phố lớn, mức lương tỷ 
lệ thuận với kinh nghiệm làm việc và trình độ học vấn. Cụ 
thể, lao động ở thành thị trung bình có bằng cấp cao hơn so 
với nông thôn, và đây cũng là lý do chính tiền lương lao động 
thành thị cao hơn nông thôn. Ngoài ra, lao động thành thị làm 
việc trong công ty nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân nhiều 
hơn, nên thu nhập theo giờ cao hơn so với nhóm lao động 
làm việc ở các loại hình tương tự tại nông thôn. 
Bảng 4. Hồi quy OLS cho 2 mẫu lao động ở thành thị và nông 
thôn 
Tiền lương 
Thành thị Nông thôn 
Hệ số Sai số Hệ số Sai số 
Giới tính 
4,7928 
*** 
1,3899 
-6,9126 
13,0168 
Bằng cấp 
3,1516 
*** 
0,3152 
1,5996 
* 
0,7083 
Tuổi 
0,2944 
*** 
0,0790 
-0,0123 
0,2237 
Tình trạng 
kết hôn 
3,4197 
* 
1,7585 
14,0927 
12,2941 
DN nhà nước 1,4360 2,0524 2,5563 2,8506 
DN tư nhân 
3,1046 
** 
1,5753 49,6196 46,3161 
DN nước 
ngoài 
9,5888 
*** 
1,9289 
-2,0824 
6,5831 
Tp.HCM 
12,5366 
*** 
2,5126 
0 
- 
Bà Rịa -VT 
6,6471 
** 
3,2086 
7,2696 
13,3955 
Bình Dương 
7,1809 
*** 
2,6284 
14,4811 
19,5983 
Bình Phước 0 - 15,0230 21,1785 
Tây Ninh 
5,53531 
* 
2,8733 
12,6149 
* 
17,9307 
Đồng Nai 
5,5905 
*** 
2,8645 
34,2139 
* 
38,2349 
Hằng số -10,3757 3,5559 -4,4953 14,0041 
*, **, ***: có ý nghĩa thống kê tại 10%, 5% và 1% 
Tp chí Khoa hc Lc Hng 145
Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Nguyễn Quốc Huy, Lữ Phi Nga 
5. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 
Nghiên cứu này phân tích chênh lệch tiền lương của lao 
động nam và nữ, và lao động tại thành thị và nông thôn tại 
các khu vực Đông Nam Bộ sử dụng dữ liệu VHLSS năm 
2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy chênh lệch tiền lương lao 
động nam – nữ cho thấy chênh lệch giữa nam và nữ chủ yếu 
do trình độ học vấn và kinh nghiệm làm việc (age), và nam 
giới được trả lương cao hơn nữ giới. Hơn nữa, sự chênh lệch 
này đáng kể hơn khi phân theo khu vực thành thị và nông 
thôn, các lao động ở thành thị có trình độ học vấn cao và kinh 
nghiệm có mức ảnh hưởng cao đến tiền lương tính theo giờ, 
đặc biệt là nam giới. Kết quả này không tìm thấy có ý nghĩa 
thống kê tại khu vực nông thôn. 
Từ kết quả nghiên cứu trên, nhóm tác giả đề xuất một số 
kiến nghị liên quan đến việc giảm khoảng cách chênh lệch 
tiền lương giữa nam và nữ; thành thị - nông thôn tại các tỉnh 
Đông Nam Bộ: 
(i) Kết quả nghiên cứu cho thấy trình độ học vấn có ảnh 
hưởng chính đến mức độ chênh lệch giữa các yếu tố giữa 
thành thị và nông thôn. Do vậy, vấn đề nâng cao trình độ học 
vấn của người lao động tại nông thôn là cần thiết để rút ngắn 
chênh lệch này. Điều này là cần thiết vì hiện tại, theo kết quả 
nghiên cứu thì đối tượng lao động là trung học phổ thông và 
nghề chiếm 89,75% (VHLSS, 2014) tại khu vực Đông Nam 
Bộ. Việc nâng cao trình độ người lao động ngoài việc bản 
thân người lao động có ý thức tự nâng cao trình độ học vấn, 
nghề nghiệp của chính bản thân, thì cần có sự quan tâm hỗ 
trợ của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần chú ý hơn 
đến các chính sách đào tạo nguồn nhân lực, việc nâng cao 
năng lực chuyên môn của người lao động. Việc làm này góp 
phần nâng cao năng suất lao động của chính bản thân người 
lao động, cải thiện tiền lương mà còn đem lại hiệu quả kinh 
tế cho chính bản thân doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các cơ 
quan bộ ngành cần tăng cường rà soát, thúc đẩy tạo điều kiện 
cho các chương trình phổ cập trình độ văn hóa, học vấn của 
người dân, đặc biệt là các đối tượng chưa đến độ tuổi lao 
động và trong độ tuổi lao động của khu vực nông thôn tại 
khu vực; 
(ii) Kết quả nghiên cứu cho thấy sự chênh lệch tiền lương 
giữa nam – nữ kể cả phân theo thu nhập thành thị và nông 
thôn thì nam giới thường có thu nhập tốt hơn. Vấn đề bình 
đẳng giới trong thu nhập cần được xem xét tới, ngoài tính 
chất của một số công việc có tính đặc thù cần có lao động nữ, 
thì lao động nam và nữ cần được trọng dụng và đối xử như 
nhau trong việc tiếp cận công việc, cơ hội thăng tiến và các 
mức phúc lợi được hưởng. Điều này cần có sự quan tâm của 
các cấp lãnh đạo, hội phụ nữ... Cần xây dựng chính sách tiền 
lương đối với cùng loại hình doanh nghiệp khu vực ở nông 
thôn, rà soát các chính sách liên quan đến bất bình đẳng giới, 
tăng cường giáo dục ý thức cộng đồng, sự phân biệt giới tính 
trong xã hội, đặc biệt là tại các vùng nông thôn có điều kiện 
kinh tế khó khăn. Ngoài ra, tình trạng nhập cư ở vùng Đông 
Nam Bộ cũng rất phức tạp và phổ biến, đặc biệt tại các khu 
công nghiệp trọng điểm, khu chế xuất. Vấn đề này cũng có 
tác động đến chất lượng và trình độ lao động góp phần vào 
sự sự chênh lệch tiền lương. 
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Benjamin, D., Brandt, L., and Giles. J. The Evolution of 
Income Inequality in Rural China. Economic Development 
and Cultural Change, 2005, 53 (4), 769-824. 
[2] Blinder, A. S. Wage discrimination: reduced form and 
structural estimates. Journal of Human Resources, 1973, 8, 
436-455 
[3] Christofides, L. N., Michael, M. Exploring the public-private 
sector wage gap in European countries. IZA Journal of 
European Labor Studies, 2013, 2(15) 
[4] Frolich, M. Propensity score matching without conditional 
independence assumption – with an application to the gender 
wage gap in the United Kingdon. The Econometrics Journal, 
2007, 10(2), 359-407 
[5] Guo, J.X. Human Capital, the Birth Rate and the Narrowing of 
the Urban-Rural Income Gap. Social Science in China 3, 2005, 
27-37. 
[6] Haisken-Denew, j. P. Michaelsen, M.M., Migration Magnet: 
The Role of Work Experience in Rural-Urban Wage 
Differentials in Mexico. Bochum: Ruhr Economic Papers, 
2011, no. 263. 
[7] Hoang., K., Baulch, B., Le, D., Nguyen, D., Ngo, G., and 
Nguyen, K. Determinants of earned incom, 2001. 
[8] Jann, B., The Blinder-Oaxaca Decomposition for Linear 
Regression Models. The Stata Journal, 2008, 8(4), 453-479. 
[9] Kanbur, R. and Zhang, X.B. Fifty Years of Regional 
Inequality in China: A Journey through Central Planning, 
Reform, and Openness. Review of Development Economics, 
2005, 9(1), 87-106 
[10] Landmesser, J. M. Decomposition of differences in income 
distributions using quantile regression. Statistics in Transition 
new series, 2016, 17(2), 331-348 
[11] Liu, A. Y. C. Markets, inequality and poverty in Vietnam, 
Asian Economic Journal, 2001, vol. 15, no.2, 217-35. 
[12] Nguyen, B., J. Albrecht, S. Wroman, and M. Westbrook. A 
Quantile Regression Decomposition of Urban-Rural 
Inequality in Vietnam. ADB Working Paper, 2006, (No. 
2006.2), Asian Development Bank, Manila, Philippines 
[13] Pacheco, G. The Changing Role of Minimum Wage in NZ. NZ 
Journal of Employment Relations, 2007, 32(3): 2-17. 
[14] Sicular, T., Yue, X. M., Gustafasson, B., Li, S. The urban-rural 
income gap and inequality in China. Review of Income and 
Wealth, 2007, 53(1). 93-126 
[15] Sliwicki, D., Ryczkowski, M. 2014. Gender pay gap in the 
micro level – case of Poland. Quantitative Methods in 
Economics, 15(1), 159-173 
[16] Stanley, T. D., and S. B. Jarrell. Gender Wage Discrimination 
Bias? A MetaRegression Analysis. The Journal of Human 
Resources, 1998, 33: 947–973. 
[17] Su, B., Heshmati, A. Analysis of the determinants of income 
and income gap between urban and rural China. Discussion 
Paper Series, Forchungsinstitut zur Zukunft der Arbeit, 2013, 
no. 7162. 
[18] Trần Thị Tuấn Anh. Phân rã chênh lệch tiền lương thành thị - 
nông thôn ở Việt Nam bằng phương pháp hồi quy phân vị. Tạp 
chí Kinh tế và Phát triển, 2015, 219, 20-29. 
[19] Weichselbaumer, D., and R. Winter-Ebmer. A Meta-Analysis 
of the International Gender Wage Gap. Journal of Economic 
Surveys, 2005, 19: 479–511. 
[20] Wu, X.M. and Perloff, J.M. China’s Income Distribution, 
1985-2001. The Review of Economics and Statistics, 2005, 
87(4), 763-775. 
[21] Yang, D.T. and Zhou, H. Rural-urban disparity and sectoral 
labour allocation in China. Journal of Development Studies, 
1999, 35(3), 105-133. 
[22] Zhang, Q. Development of Financial Intermediaries and 
Urban-Rural Income Inequality in China. China Journal of 
Finance, 2004, 11, 71-79. 
[23] Dixon, S. The distribution of earnings in New Zealand: 1984-
1994, Labour Market Bulletin, 1, 1996, 45-100 
[24] Dixon, S. Pay inequality between men and women in New 
Zealand, Labour Market Policy group, Department of Labour, 
Wellington, 2000. 
[25] Dixon, S. Understanding reductions in the gender wage 
differential: 1997-2003. New Zealand Conference on Pay and 
Employment Equity for Women, Wellington, 28-29 June 
2004. 
Tp chí Khoa hc Lc Hng146
Vấn đề chênh lệch tiền lương tại khu vực đông nam bộ theo giới tính, khu vực thành thị và nông thôn 
[26] Gujarati, D. N. Basic Econometrics, 4th ed, New York: The 
McGraw-Hill Irwin, 2004. 
[27] Heshmati A. Global Trends in Income Inequality, Hauppauge, 
Nova Science Publishers, NY, 2007a. 
[28] Heshmati A. Recent Developments in the Chinese Economy, 
Nova Science Publishers, NY, 2007b. 
[29] Kirkwood, H. Wigbout, M. An exploration of the difference in 
income received from wages and salaries by women and men 
in full-time employment, Statistics New Zealand, Wellington, 
1999. 
[30] Murphy, R. How Migrant Labor is Changing Rural China. 
Cambridge, UK, 2002. 
[31] https://baomoi.com/vung-dong-nam-bo-tang-truong-kinh-te-
can-seu-dau-dan/c/23409285.epi 
[32] Korn Ferry, The wage gap between men and women varies 
depending on job types. 2017. Nguồn: The Economic 
(https://www.economist.com/blogs/graphicdetail/ 2017/08/ 
daily-chart, truy cập ngày 12/08/2017) 
[33] Oxfam. Báo cáo Nghiên cứu chính sách, 2017. Nguồn: 
https://www.oxfam.org/sites/ 
https://www.oxfam.org/files/file_attachments/bp-vietnam-
inequality-120117-vn.pdf 
[34] Wu, X.M. and Perloff, J.M. China’s Income Distribution, 
1985-2001. The Review of Economics and Statistics 87(4), 
2005, 63-775. 
[35] Yang, D.T. and Zhou, H. Rural-urban disparity and sectoral 
labour allocation in China. Journal of Development Studies 
35(3), 1999, 105-133. 
[36] Zhang, Q., Development of Financial Intermediaries and 
Urban-Rural Income Inequality in China. China Journal of 
Finance 11, 2004, 71-79. 
[37] Korn Ferry. The wage gap between men and women varies 
depending on job types, 2017. Nguồn: The Economic 
(https://www.economist.com/blogs/graphicdetail/ 2017/08/ 
daily-chart, truy cập ngày 12/08/2017) 
[38] https://baomoi.com/vung-dong-nam-bo-tang-truong-kinh-te-
can-seu-dau-dan/c/23409285.epi. 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_chenh_lech_tien_luong_tai_khu_vuc_dong_nam_bo_theo_gi.pdf