Vấn đề an sinh xã hội trong văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam
An sinh xã hội (ASXH), theo tổ chức Lao
động quốc tế (ILO), là khái niệm “Chỉ sự bảo vệ
của xã hội đối với những thành viên của mình,
bằng một loạt những biện pháp công cộng,
chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do
bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể
cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có
con nhỏ.”1 Như vậy, ASXH không chỉ thể hiện
quyền cơ bản của mỗi con người mà còn là công
cụ để xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh
không có sự loại trừ, đảm bảo sự đoàn kết, chia
sẻ và tương trợ của cộng đồng đối với các rủi
ro trong đời sống, đồng thời thúc đẩy sự đồng
thuận, bình đẳng, công bằng xã hội Do đó,
vấn đề ASXH luôn được Đảng ta quan tâm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề an sinh xã hội trong văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam
68 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Xã hội - Giáo dụcVẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI LẦN THỨ XI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Đỗ Minh Tứ * Đỗ Vĕn Vinh** TÓM TẮT Trong bài viết này, trên cơ sở nêu bật những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện an sinh xã hội trong những nĕm vừa qua, chúng tôi tập trung làm rõ những quan điểm mới của Đại hội XI về vấn đề an sinh xã hội. Qua đó, đề xuất những giải pháp mang tính định hướng và những nguyên tắc trong việc xây dựng và thực hiện an sinh xã hội ở nước ta trong thời gian tới. Từ khoá: An sinh xã hội, vĕn kiện Đại hộiSOCIAL SECURITY ISSUES IN THE XI COUNGRESS DOCUMENTS OF THE COMMUNIST PARTY OF VIET NAM ABSTRACT In this paper, on the basis of highlighting the achievements and constraints in the implementation of social security in recent years, we focus on clarifying the new perspective of the XI Congress on the issue of social Assembly. Thereby, the proposed solution oriented and principles in the development and implementation of social security in our country in the future. Key words: social security, congress documents * Thạc sỹ, GV. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. NCS ĐH. Quốc gia. HCM ** Học viên Cao học khóa 2010 – 2013, Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vĕn Tp.HCM ĐẶT VẤN ĐỀ An sinh xã hội (ASXH), theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), là khái niệm “Chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình, bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chĕm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ.”1 Như vậy, ASXH không chỉ thể hiện quyền cơ bản của mỗi con người mà còn là công cụ để xây dựng một xã hội hài hòa, vĕn minh không có sự loại trừ, đảm bảo sự đoàn kết, chia sẻ và tương trợ của cộng đồng đối với các rủi ro trong đời sống, đồng thời thúc đẩy sự đồng thuận, bình đẳng, công bằng xã hội Do đó, vấn đề ASXH luôn được Đảng ta quan tâm. 1. Thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện ASXH th̀i gian v̀a qua Nhìn lại 5 nĕm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, 10 nĕm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 và 20 nĕm thực hiện Cương lĩnh trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH nĕm 1991, cùng với những thành tựu về kinh tế, chính sách ASXH cũng đạt được những kết quả tích cực như: Chính sách ASXH từng bước được mở rộng về phạm vi, đối tượng và mức hưởng; Hệ thống ASXH đã hỗ trợ đắc lực cho người nghèo, người yếu thế và nhiều đối tượng khác; 69 Vấn đề an sinh ... Các chính sách hỗ trợ ngày càng nhận được sự ủng hộ, tham gia của cá nhân, cộng đồng dựa trên tinh thần đoàn kết, chia sẻ và tương trợ. Cụ thể, chúng ta đã tĕng cường phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khĕn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; xoá đói, giảm nghèo, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%; thực hiện chính sách với người và gia đình có công; giải quyết việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%; công tác chĕm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đạt được một số kết quả quan trọng; mức hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tĕng lên, đặc biệt với trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số... Nhờ đó, chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng được tĕng lên. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, hệ thống ASXH của chúng ta trong những nĕm qua vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục như: Hệ thống ASXH chưa có sự phát triển đồng bộ và tương xứng với thành tựu phát triển kinh tế, mức độ bao phủ thực tế còn thấp, khả nĕng tiếp cận của nhiều nhóm đối tượng đối với một số chính sách, chương trình còn hạn chế; Các chính sách còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, thiếu sự liên kết, chưa huy động nguồn lực và chưa bảo đảm tính bền vững. Tình trạng thiếu việc làm còn cao... Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khĕn. Xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Chất lượng công tác bảo vệ, chĕm sóc sức khoẻ còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách ASXH trong những nĕm qua chính là cơ sở thực tiễn để Đại hội XI của Đảng đưa ra những chủ trương về ASXH trong thời gian tới. 2. Mục tiêu, quan điểm của Đại hội XI về ASXH trong th̀i gian tới Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Để chủ trương này đi vào cuộc sống, hướng tới việc phát triển hài hoà đời sống vật chất và tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ĕn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh... ASXH đóng một vai trò quan trọng. Do đó, trong những nĕm tới Đảng ta đặt mục tiêu: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả.”2, trước hết “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chĕm sóc sức khoẻ cho nhân dân.”3. Phấn đấu “Đến nĕm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi..., thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5 - 2%/nĕm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chĕm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với nĕm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư.”4 Trên cơ sở những mục tiêu đã đặt ra, trong những nĕm tới, Đảng đưa ra nhiều chủ trương nhằm hoàn thiện hệ thống và chính sách ASXH, cụ thể: Đối với vấn đề bảo hiểm, trong những nĕm tới cần tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện và phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. “Khuyến khích và tạo điều kiện 70 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm”5 nhằm tĕng tỉ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. “Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh và viện phí phù hợp; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.”6 Đồng thời “đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ bảo hiểm xã hội... Thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội, đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ chế độ quy định đối với mọi đối tượng.”7 Về cứu trợ xã hội, hoạt động trợ giúp và cứu trợ xã hội phải “đa dạng, linh hoạt, có khả nĕng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương vượt qua khó khĕn hoặc các rủi ro trong đời sống...”8 Mở rộng các hình thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khĕn, đồng thời, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng, đảm bảo cho các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu và vươn lên trong cuộc sống. Đối với vấn đề xóa đói giảm nghèo, Đảng ta chủ trương “Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ”9, trong những nĕm tới cần “Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khĕn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức xoá đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xoá đói, giảm nghèo bền vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo.”10 Tuy nhiên, một trong những hạn chế trong việc thực hiện chính sách ASXH trong những nĕm vừa qua là việc xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo còn cao. Do đó, để bảo đảm giảm nghèo bền vững, Đại hội XI đã đưa ra giải pháp “hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng”, đặc biệt là đối tượng chính sách, người nghèo, người lao động nông thôn và vùng đô thị hoá. Về chính sách đối với người có công, Đại hội chủ trương “Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi và không ngừng nâng cao mức sống đối với người có công.”11 Để thực hiện được chủ trương đó, trong những nĕm tới, chúng ta phải tập trung “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chĕm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn.”12 Đối với hệ thống chĕm sóc y tế Thứ nhất, chú ý nhiều hơn công tác y tế dự phòng và chĕm sóc sức khoẻ nhân dân, phát triển mạnh y tế dự phòng, nâng cao chất lượng và bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, không để xảy ra dịch bệnh lớn, đồng thời tiếp tục kiềm chế và giảm mạnh lây nhiễm HIV trong những nĕm tới và các nĕm tiếp theo. Thứ hai, tập trung phát triển mạnh hệ thống chĕm sóc sức khoẻ và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế; Nhà nước tiếp tục tĕng đầu tư đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế thành lập các cơ sở y tế chuyên khoa có chất lượng cao để phát triển nhanh hệ thống y tế công lập và ngoài công lập; hoàn chỉnh mô hình tổ chức và củng cố mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao nĕng lực của trạm y tế xã, hoàn thành xây dựng bệnh viện tuyến huyện, nâng cấp bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến Trung ương; xây dựng thêm một số bệnh viện chuyên khoa có trình 71 Vấn đề an sinh ... độ cao và một số cơ sở khám, chữa bệnh có tầm cỡ khu vực tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số vùng nhằm khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh; đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các cơ sở y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch; chuẩn hoá chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng bệnh viện, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Thứ ba, tĕng cường đào tạo và nâng cao chất lượng chuyên môn, y đức, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ y tế, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực trong hoạt động khám, chữa bệnh. Phấn đấu đến nĕm 2020 tất cả các xã, phường có bác sĩ. Thứ tư, làm tốt công tác chĕm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, giảm mạnh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số. Thứ nĕm, thực hiện tốt chính sách khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em và người dân tộc thiểu số, chĕm sóc sức khoẻ người cao tuổi. Bảo đảm cho người có bảo hiểm y tế được khám, chữa bệnh thuận lợi. Thứ sáu, phát triển nhanh công nghiệp dược và thiết bị y tế. Phát triển mạnh y học dân tộc kết hợp với y học hiện đại. Quản lý chặt chẽ việc sản xuất và kinh doanh dược phẩm. Về vấn đề chĕm lo đời sống đối với các tầng lớp dân cư Thứ nhất, bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em, tạo môi trường lành mạnh để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ. Chú trọng bảo vệ và chĕm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em gia đình nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khĕn; ngĕn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em. Nhân rộng các mô hình làm tốt việc bảo vệ, chĕm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng. Thứ hai, xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; ngĕn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ. Thứ ba, chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em Thứ tư, chĕm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi... Những quan điểm, chủ trương trên đây về ASXH mà Đại hội XI của Đảng đã đưa ra chính là cơ sở quan trọng cho việc hoạch định Chiến lược ASXH của đất nước từ nay cho đến nĕm 2020 và các nĕm tiếp theo. 3. Định hướng xây dựng hệ thống ASXH ở nước ta t̀ nay đến nĕm 2020 Hệ thống ASXH bao gồm các cơ chế, chính sách, giải pháp nhằm bảo vệ cho mọi thành viên trong xã hội không bị rơi vào tình trạng bần cùng hoá bởi tác động tiêu cực của các loại rủi ro. Hệ thống ASXH của Việt Nam trong Chiến lược ASXH giai đoạn từ nay đến nĕm 2020 hướng tới 6 mục tiêu lớn sau đây: Một là, tĕng cường tính bình đẳng trong thị trường lao động thông qua hỗ trợ cho người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương tham gia đào tạo, có việc làm, nâng cao điều kiện làm việc và cải thiện cuộc sống, mở rộng tỷ lệ tham gia bảo hiểm tự nguyện. Hai là, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội tiên tiến, mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội tự nguyện, quỹ bảo hiểm xã hội được bảo đảm an toàn và phát triển, mức hưởng được cải thiện. Ba là, tĕng cường hiệu quả chĕm sóc y tế công. Thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân từ nĕm 2014, cải thiện hoạt động chĕm sóc y tế để mọi người dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng dân tộc, miền núi dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ chĕm sóc sức khỏe. 72 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Bốn là, phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt, ứng phó kịp thời với các biến cố, rủi ro. Mở rộng các nhóm đối tượng thụ hưởng đến toàn bộ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương. Nĕm là, thực hiện giảm nghèo bền vững, ngĕn chặn gia tĕng bất bình đẳng. Kiểm soát bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư, vùng về thu nhập và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, hưởng lợi từ các chương trình đầu tư phát triển, giảm nghèo trong từng vùng, từng khu vực. Bảo vệ có hiệu quả các trẻ em và phụ nữ nghèo, dễ bị tổn thương, bị lạm dụng. Sáu là, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ xã hội tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tĕng cường tiếp cận của người di dân đến dịch vụ xã hội tại các đô thị. Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, chúng ta cần phải tuân thủ bốn nguyên tắc mang tính nền tảng khi triển khai chiến lược ASXH giai đoạn 2011 – 2020, đó là: Nguyên tắc quyền, nguyên tắc này đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội đều có quyền an sinh và tiếp cận hệ thống ASXH, hướng đến tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối, hưởng thụ các thành quả phát triển kinh tế, phúc lợi xã hội theo hướng phân bổ ngày càng bình đẳng hơn, ít sự loại trừ. Nguyên tắc chia sẻ, nguyên tắc này nhấn mạnh vai trò của sự tương trợ trong nội bộ và giữa các nhóm xã hội, đồng thời đòi hỏi sự gắn bó, đoàn kết, tương trợ, bù đắp giữa các cá nhân, các nhóm trong xã hội và Nhà nước. Nhờ đó, hệ thống ASXH hướng tới sự đảm bảo nhu cầu tối thiểu thông qua việc tổng hợp và tái phân phối nguồn lực. Nguyên tắc công bằng và bền vững, nguyên tắc này đòi hỏi, phải gắn trách nhiệm với quyền lợi, đóng góp với hưởng lợi một cách lâu dài, khuyến khích mọi người dân tham gia vào hệ thống ASXH, bảo đảm tính thoả đáng, thích đáng trong từng chính sách và chương trình. Nguyên tắc tĕng cường trách nhiệm của các chủ thể, nguyên tắc này khuyến khích các thành phần trong xã hội tham gia xây dựng và thực hiện chính sách ASXH, thúc đẩy nỗ lực của bản thân người dân, gia đình, cộng đồng trong việc bảo đảm ASXH, giảm thiểu sự lệ thuộc vào Nhà nước theo hướng Nhà nước chỉ cung cấp những hỗ trợ bổ sung và không thay thế nỗ lực của cá nhân. KẾT LUẬN Tóm lại, những quan điểm của Đại hội XI về ASXH là toàn diện, đó chính là cơ sở quan trọng cho việc hoạch định các chính sách, hoàn thiện hệ thống ASXH, để hệ thống ASXH phát triển phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, có khả nĕng tiếp cận, bao phủ toàn bộ người nhằm thực hiện công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con người./. CHÚ THÍCH 1. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Vĕn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 125. 3. Sđd, tr. 189. 4. Sđd, tr. 105. 5. Sđd, tr. 125-126. 6. Sđd, tr. 128-129. 7. Sđd, tr. 229. 8. Sđd, tr. 228. 9. Sđd, tr. 124. 10. Sđd, tr. 229. 11. Sđd, tr. 126. 22. Sđd, tr. 229.- 230. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. An sinh xã hội và Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020, cập nhật ngày 03/12/2010, 2. Lê Chí An (2010), “An sinh xã hội: Mạng lưới an toàn cho người dân”, Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, số 2(17), tr.5-11. 3. Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 2011-2020, cập nhật ngày 29/06/2009, http:// www. molisa.gov.vn. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Vĕn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5.
File đính kèm:
- van_de_an_sinh_xa_hoi_trong_van_kien_dai_hoi_lan_thu_xi_cua.pdf