Vấn đề an sinh xã hội trong văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam

An sinh xã hội (ASXH), theo tổ chức Lao

động quốc tế (ILO), là khái niệm “Chỉ sự bảo vệ

của xã hội đối với những thành viên của mình,

bằng một loạt những biện pháp công cộng,

chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do

bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì

ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể

cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có

con nhỏ.”1 Như vậy, ASXH không chỉ thể hiện

quyền cơ bản của mỗi con người mà còn là công

cụ để xây dựng một xã hội hài hòa, văn minh

không có sự loại trừ, đảm bảo sự đoàn kết, chia

sẻ và tương trợ của cộng đồng đối với các rủi

ro trong đời sống, đồng thời thúc đẩy sự đồng

thuận, bình đẳng, công bằng xã hội Do đó,

vấn đề ASXH luôn được Đảng ta quan tâm.

pdf 5 trang kimcuc 13620
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề an sinh xã hội trong văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề an sinh xã hội trong văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam

Vấn đề an sinh xã hội trong văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam
68
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
Xã hội - Giáo dụcVẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI LẦN THỨ XI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
 Đỗ Minh Tứ * 
 Đỗ Vĕn Vinh**
TÓM TẮT
Trong bài viết này, trên cơ sở nêu bật những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện an 
sinh xã hội trong những nĕm vừa qua, chúng tôi tập trung làm rõ những quan điểm mới của Đại 
hội XI về vấn đề an sinh xã hội. Qua đó, đề xuất những giải pháp mang tính định hướng và những 
nguyên tắc trong việc xây dựng và thực hiện an sinh xã hội ở nước ta trong thời gian tới.
Từ khoá: An sinh xã hội, vĕn kiện Đại hộiSOCIAL SECURITY ISSUES IN THE XI COUNGRESS DOCUMENTS OF THE COMMUNIST PARTY OF VIET NAM
ABSTRACT
In this paper, on the basis of highlighting the achievements and constraints in the 
implementation of social security in recent years, we focus on clarifying the new perspective of 
the XI Congress on the issue of social Assembly. Thereby, the proposed solution oriented and 
principles in the development and implementation of social security in our country in the future.
Key words: social security, congress documents
* Thạc sỹ, GV. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. NCS ĐH. Quốc gia. HCM
** Học viên Cao học khóa 2010 – 2013, Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vĕn Tp.HCM
ĐẶT VẤN ĐỀ
An sinh xã hội (ASXH), theo tổ chức Lao 
động quốc tế (ILO), là khái niệm “Chỉ sự bảo vệ 
của xã hội đối với những thành viên của mình, 
bằng một loạt những biện pháp công cộng, 
chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do 
bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì 
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề 
nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể 
cả sự bảo vệ chĕm sóc y tế và trợ cấp gia đình có 
con nhỏ.”1 Như vậy, ASXH không chỉ thể hiện 
quyền cơ bản của mỗi con người mà còn là công 
cụ để xây dựng một xã hội hài hòa, vĕn minh 
không có sự loại trừ, đảm bảo sự đoàn kết, chia 
sẻ và tương trợ của cộng đồng đối với các rủi 
ro trong đời sống, đồng thời thúc đẩy sự đồng 
thuận, bình đẳng, công bằng xã hội Do đó, 
vấn đề ASXH luôn được Đảng ta quan tâm.
1. Thành tựu và hạn chế trong việc thực 
hiện ASXH th̀i gian v̀a qua
Nhìn lại 5 nĕm thực hiện Nghị quyết Đại hội 
X, 10 nĕm thực hiện Chiến lược phát triển kinh 
tế - xã hội 2001 – 2010 và 20 nĕm thực hiện 
Cương lĩnh trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH 
nĕm 1991, cùng với những thành tựu về kinh tế, 
chính sách ASXH cũng đạt được những kết quả 
tích cực như: Chính sách ASXH từng bước được 
mở rộng về phạm vi, đối tượng và mức hưởng; 
Hệ thống ASXH đã hỗ trợ đắc lực cho người 
nghèo, người yếu thế và nhiều đối tượng khác; 
69
Vấn đề an sinh ...
Các chính sách hỗ trợ ngày càng nhận được sự 
ủng hộ, tham gia của cá nhân, cộng đồng dựa 
trên tinh thần đoàn kết, chia sẻ và tương trợ. 
Cụ thể, chúng ta đã tĕng cường phát triển 
giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng 
khó khĕn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; xoá 
đói, giảm nghèo, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%; 
thực hiện chính sách với người và gia đình có 
công; giải quyết việc làm cho trên 8 triệu lao 
động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn 
dưới 4,5%; công tác chĕm sóc, bảo vệ sức khoẻ 
nhân dân, bình đẳng giới và tiến bộ của phụ 
nữ đạt được một số kết quả quan trọng; mức 
hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tĕng 
lên, đặc biệt với trẻ em, người nghèo, đồng bào 
dân tộc thiểu số... Nhờ đó, chỉ số phát triển con 
người (HDI) không ngừng được tĕng lên. 
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, hệ 
thống ASXH của chúng ta trong những nĕm qua 
vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục như: 
Hệ thống ASXH chưa có sự phát triển đồng 
bộ và tương xứng với thành tựu phát triển kinh 
tế, mức độ bao phủ thực tế còn thấp, khả nĕng 
tiếp cận của nhiều nhóm đối tượng đối với một 
số chính sách, chương trình còn hạn chế;
Các chính sách còn nhiều bất cập, thiếu 
đồng bộ, thiếu sự liên kết, chưa huy động 
nguồn lực và chưa bảo đảm tính bền vững.
Tình trạng thiếu việc làm còn cao... Đời 
sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền 
núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khĕn.
Xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình 
trạng tái nghèo cao. Chất lượng công tác bảo 
vệ, chĕm sóc sức khoẻ còn thấp, hệ thống y tế 
và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được 
yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, nhất 
là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, 
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Những thành tựu và hạn chế trong quá 
trình thực hiện chính sách ASXH trong những 
nĕm qua chính là cơ sở thực tiễn để Đại hội XI 
của Đảng đưa ra những chủ trương về ASXH 
trong thời gian tới.
2. Mục tiêu, quan điểm của Đại hội XI về 
ASXH trong th̀i gian tới
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong 
từng bước và từng chính sách phát triển là một 
chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà 
nước ta, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã 
hội chủ nghĩa. Để chủ trương này đi vào cuộc 
sống, hướng tới việc phát triển hài hoà đời sống 
vật chất và tinh thần, không ngừng nâng cao đời 
sống của mọi thành viên trong xã hội về ĕn, ở, đi 
lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh... ASXH đóng 
một vai trò quan trọng.
Do đó, trong những nĕm tới Đảng ta đặt 
mục tiêu: “Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa 
dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả.”2, trước 
hết “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu 
nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật 
chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến 
rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, 
bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; 
cải thiện điều kiện chĕm sóc sức khoẻ cho nhân 
dân.”3. Phấn đấu “Đến nĕm 2020, chỉ số phát 
triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao 
của thế giới; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi..., 
thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; tỉ lệ hộ nghèo 
giảm bình quân 1,5 - 2%/nĕm; phúc lợi xã hội, 
an sinh xã hội và chĕm sóc sức khỏe cộng đồng 
được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp 
khoảng 3,5 lần so với nĕm 2010; thu hẹp khoảng 
cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư.”4
 Trên cơ sở những mục tiêu đã đặt ra, 
trong những nĕm tới, Đảng đưa ra nhiều chủ 
trương nhằm hoàn thiện hệ thống và chính 
sách ASXH, cụ thể:
Đối với vấn đề bảo hiểm, trong những nĕm 
tới cần tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện và phát triển 
mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, 
bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và 
bệnh nghề nghiệp. “Khuyến khích và tạo điều kiện 
70
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia 
các loại hình bảo hiểm”5 nhằm tĕng tỉ lệ người lao 
động tham gia các hình thức bảo hiểm. “Đổi mới 
và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y 
tế, khám, chữa bệnh và viện phí phù hợp; có lộ trình 
thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.”6 Đồng thời “đẩy 
mạnh xã hội hoá dịch vụ bảo hiểm xã hội... Thanh 
tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật 
bảo hiểm xã hội, đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ 
chế độ quy định đối với mọi đối tượng.”7
 Về cứu trợ xã hội, hoạt động trợ giúp và 
cứu trợ xã hội phải “đa dạng, linh hoạt, có khả 
nĕng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, 
nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương vượt 
qua khó khĕn hoặc các rủi ro trong đời sống...”8 
Mở rộng các hình thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, 
nhất là đối với các đối tượng khó khĕn, đồng thời, 
chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội sang 
cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng 
đồng, đảm bảo cho các đối tượng bảo trợ xã hội 
có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng 
đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch 
vụ công thiết yếu và vươn lên trong cuộc sống. 
Đối với vấn đề xóa đói giảm nghèo, 
Đảng ta chủ trương “Thực hiện có hiệu quả 
hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng 
thời kỳ”9, trong những nĕm tới cần “Tập trung 
triển khai có hiệu quả các chương trình xoá 
đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng 
đặc biệt khó khĕn. Đa dạng hoá các nguồn lực 
và phương thức xoá đói, giảm nghèo gắn với 
phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển 
giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để 
xoá đói, giảm nghèo bền vững; tạo điều kiện 
và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn 
lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát 
nghèo.”10 Tuy nhiên, một trong những hạn chế 
trong việc thực hiện chính sách ASXH trong 
những nĕm vừa qua là việc xoá đói, giảm 
nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo 
còn cao. Do đó, để bảo đảm giảm nghèo bền 
vững, Đại hội XI đã đưa ra giải pháp “hỗ trợ 
học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng”, 
đặc biệt là đối tượng chính sách, người nghèo, 
người lao động nông thôn và vùng đô thị hoá.
Về chính sách đối với người có công, Đại 
hội chủ trương “Thực hiện tốt các chính sách 
ưu đãi và không ngừng nâng cao mức sống 
đối với người có công.”11 Để thực hiện được 
chủ trương đó, trong những nĕm tới, chúng ta 
phải tập trung “Huy động mọi nguồn lực xã 
hội cùng với Nhà nước chĕm lo tốt hơn nữa 
đời sống vật chất và tinh thần của những người 
và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các 
tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt 
là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng 
vũ trang, thanh niên xung phong trong các thời 
kỳ cách mạng và kháng chiến. Tạo điều kiện, 
khuyến khích người và gia đình có công tích 
cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời 
sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao hơn 
mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn.”12
Đối với hệ thống chĕm sóc y tế 
Thứ nhất, chú ý nhiều hơn công tác y tế dự 
phòng và chĕm sóc sức khoẻ nhân dân, phát triển 
mạnh y tế dự phòng, nâng cao chất lượng và bảo 
đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, không để xảy 
ra dịch bệnh lớn, đồng thời tiếp tục kiềm chế và 
giảm mạnh lây nhiễm HIV trong những nĕm tới 
và các nĕm tiếp theo. 
Thứ hai, tập trung phát triển mạnh hệ thống 
chĕm sóc sức khoẻ và nâng cao chất lượng dịch 
vụ y tế; Nhà nước tiếp tục tĕng đầu tư đồng thời 
đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các nhà đầu tư 
thuộc các thành phần kinh tế thành lập các cơ sở 
y tế chuyên khoa có chất lượng cao để phát triển 
nhanh hệ thống y tế công lập và ngoài công lập; 
hoàn chỉnh mô hình tổ chức và củng cố mạng lưới 
y tế cơ sở, nâng cao nĕng lực của trạm y tế xã, 
hoàn thành xây dựng bệnh viện tuyến huyện, nâng 
cấp bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến Trung ương; xây 
dựng thêm một số bệnh viện chuyên khoa có trình 
71
Vấn đề an sinh ...
độ cao và một số cơ sở khám, chữa bệnh có tầm 
cỡ khu vực tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh 
và một số vùng nhằm khắc phục tình trạng quá tải 
ở các bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện tuyến trung 
ương và tuyến tỉnh; đổi mới cơ chế hoạt động, nhất 
là cơ chế tài chính của các cơ sở y tế công lập theo 
hướng tự chủ, công khai, minh bạch; chuẩn hoá 
chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng bệnh viện, từng 
bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
Thứ ba, tĕng cường đào tạo và nâng cao chất 
lượng chuyên môn, y đức, tinh thần trách nhiệm 
của đội ngũ cán bộ y tế, đấu tranh đẩy lùi tiêu 
cực trong hoạt động khám, chữa bệnh. Phấn đấu 
đến nĕm 2020 tất cả các xã, phường có bác sĩ.
Thứ tư, làm tốt công tác chĕm sóc sức 
khoẻ sinh sản, sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, giảm 
mạnh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần 
nâng cao chất lượng dân số. 
Thứ nĕm, thực hiện tốt chính sách khám, 
chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người 
nghèo, trẻ em và người dân tộc thiểu số, chĕm sóc 
sức khoẻ người cao tuổi. Bảo đảm cho người có 
bảo hiểm y tế được khám, chữa bệnh thuận lợi. 
Thứ sáu, phát triển nhanh công nghiệp 
dược và thiết bị y tế. Phát triển mạnh y học dân 
tộc kết hợp với y học hiện đại. Quản lý chặt chẽ 
việc sản xuất và kinh doanh dược phẩm.
Về vấn đề chĕm lo đời sống đối với các 
tầng lớp dân cư
Thứ nhất, bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ 
em, tạo môi trường lành mạnh để trẻ em được phát 
triển toàn diện về thể chất và trí tuệ. Chú trọng bảo 
vệ và chĕm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ 
em gia đình nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng 
có nhiều khó khĕn; ngĕn chặn và đẩy lùi các nguy 
cơ xâm hại trẻ em. Nhân rộng các mô hình làm tốt 
việc bảo vệ, chĕm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng. 
Thứ hai, xây dựng và triển khai chiến lược 
quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ 
nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự 
bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; 
ngĕn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ 
và bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ 
nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình 
độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ.
Thứ ba, chú trọng cải thiện điều kiện sống, 
lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, 
giáo dục và bảo vệ trẻ em
Thứ tư, chĕm lo đời sống những người cao 
tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và 
trẻ mồ côi...
Những quan điểm, chủ trương trên đây 
về ASXH mà Đại hội XI của Đảng đã đưa ra 
chính là cơ sở quan trọng cho việc hoạch định 
Chiến lược ASXH của đất nước từ nay cho 
đến nĕm 2020 và các nĕm tiếp theo.
3. Định hướng xây dựng hệ thống ASXH 
ở nước ta t̀ nay đến nĕm 2020
Hệ thống ASXH bao gồm các cơ chế, chính 
sách, giải pháp nhằm bảo vệ cho mọi thành viên 
trong xã hội không bị rơi vào tình trạng bần cùng 
hoá bởi tác động tiêu cực của các loại rủi ro. Hệ 
thống ASXH của Việt Nam trong Chiến lược 
ASXH giai đoạn từ nay đến nĕm 2020 hướng 
tới 6 mục tiêu lớn sau đây:
Một là, tĕng cường tính bình đẳng trong 
thị trường lao động thông qua hỗ trợ cho người 
nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương tham gia 
đào tạo, có việc làm, nâng cao điều kiện làm việc 
và cải thiện cuộc sống, mở rộng tỷ lệ tham gia 
bảo hiểm tự nguyện.
Hai là, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội 
tiên tiến, mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia 
vào bảo hiểm xã hội tự nguyện, quỹ bảo hiểm 
xã hội được bảo đảm an toàn và phát triển, mức 
hưởng được cải thiện.
Ba là, tĕng cường hiệu quả chĕm sóc y tế 
công. Thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân 
từ nĕm 2014, cải thiện hoạt động chĕm sóc y tế 
để mọi người dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng dân 
tộc, miền núi dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ 
chĕm sóc sức khỏe.
72
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
Bốn là, phát triển hệ thống trợ giúp xã hội 
linh hoạt, ứng phó kịp thời với các biến cố, rủi 
ro. Mở rộng các nhóm đối tượng thụ hưởng 
đến toàn bộ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương.
Nĕm là, thực hiện giảm nghèo bền vững, 
ngĕn chặn gia tĕng bất bình đẳng. Kiểm soát bất 
bình đẳng giữa các nhóm dân cư, vùng về thu 
nhập và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, 
hưởng lợi từ các chương trình đầu tư phát triển, 
giảm nghèo trong từng vùng, từng khu vực. Bảo 
vệ có hiệu quả các trẻ em và phụ nữ nghèo, dễ bị 
tổn thương, bị lạm dụng.
Sáu là, nâng cao chất lượng và hiệu quả của 
các dịch vụ xã hội tại các vùng sâu, vùng xa, 
vùng đồng bào dân tộc. Tĕng cường tiếp cận của 
người di dân đến dịch vụ xã hội tại các đô thị.
Để thực hiện thành công các mục tiêu 
trên, chúng ta cần phải tuân thủ bốn nguyên 
tắc mang tính nền tảng khi triển khai chiến 
lược ASXH giai đoạn 2011 – 2020, đó là: 
Nguyên tắc quyền, nguyên tắc này đảm 
bảo cho mọi thành viên trong xã hội đều có 
quyền an sinh và tiếp cận hệ thống ASXH, 
hướng đến tiến bộ và công bằng xã hội trong 
phân phối, hưởng thụ các thành quả phát triển 
kinh tế, phúc lợi xã hội theo hướng phân bổ 
ngày càng bình đẳng hơn, ít sự loại trừ. 
Nguyên tắc chia sẻ, nguyên tắc này nhấn 
mạnh vai trò của sự tương trợ trong nội bộ và 
giữa các nhóm xã hội, đồng thời đòi hỏi sự 
gắn bó, đoàn kết, tương trợ, bù đắp giữa các 
cá nhân, các nhóm trong xã hội và Nhà nước. 
Nhờ đó, hệ thống ASXH hướng tới sự đảm 
bảo nhu cầu tối thiểu thông qua việc tổng hợp 
và tái phân phối nguồn lực. 
Nguyên tắc công bằng và bền vững, nguyên 
tắc này đòi hỏi, phải gắn trách nhiệm với quyền 
lợi, đóng góp với hưởng lợi một cách lâu dài, 
khuyến khích mọi người dân tham gia vào hệ 
thống ASXH, bảo đảm tính thoả đáng, thích 
đáng trong từng chính sách và chương trình. 
Nguyên tắc tĕng cường trách nhiệm của các 
chủ thể, nguyên tắc này khuyến khích các thành 
phần trong xã hội tham gia xây dựng và thực hiện 
chính sách ASXH, thúc đẩy nỗ lực của bản thân 
người dân, gia đình, cộng đồng trong việc bảo 
đảm ASXH, giảm thiểu sự lệ thuộc vào Nhà nước 
theo hướng Nhà nước chỉ cung cấp những hỗ trợ 
bổ sung và không thay thế nỗ lực của cá nhân. 
KẾT LUẬN
Tóm lại, những quan điểm của Đại hội XI 
về ASXH là toàn diện, đó chính là cơ sở quan 
trọng cho việc hoạch định các chính sách, hoàn 
thiện hệ thống ASXH, để hệ thống ASXH phát 
triển phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định 
hướng XHCN, có khả nĕng tiếp cận, bao phủ 
toàn bộ người nhằm thực hiện công bằng xã hội 
vì mục tiêu phát triển con người./. 
CHÚ THÍCH
1. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Vĕn kiện Đại hội Đảng lần thứ 
XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 125.
3. Sđd, tr. 189.
4. Sđd, tr. 105.
5. Sđd, tr. 125-126.
6. Sđd, tr. 128-129.
7. Sđd, tr. 229. 
8. Sđd, tr. 228.
9. Sđd, tr. 124.
10. Sđd, tr. 229.
11. Sđd, tr. 126.
22. Sđd, tr. 229.- 230.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. An sinh xã hội và Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020, cập nhật ngày 03/12/2010, 
2. Lê Chí An (2010), “An sinh xã hội: Mạng lưới an toàn cho người dân”, Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở 
thành phố Hồ Chí Minh, số 2(17), tr.5-11.
3. Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 2011-2020, cập nhật ngày 29/06/2009, http:// www.
molisa.gov.vn.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Vĕn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_an_sinh_xa_hoi_trong_van_kien_dai_hoi_lan_thu_xi_cua.pdf