Vai trò của tri thức bản địa trong thích ứng với biến đổi khí hậu
Tri thức bản địa là một thành tố văn hóa quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, được
người dân không ngừng sáng tạo, bồi đắp và trao truyền tiếp nối giữa các thế hệ thông qua hoạt động sản
xuất, ứng xử với tự nhiên và các quan hệ xã hội trong cộng đồng. Bài báo này phân tích vai trò quan trọng
của tri thức bản địa đối với cuộc sống người dân địa phương và việc kết hợp giữa tri thức bản địa với các
kiến thức khoa học công nghệ trong thích ứng với biến đổi khí hậu ở cấp cộng đồng của các dân tộc thiểu số.
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của tri thức bản địa trong thích ứng với biến đổi khí hậu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của tri thức bản địa trong thích ứng với biến đổi khí hậu
VAI TRÒ CỦA TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Vũ Văn Cương(1), Trần Thục(2) (1)Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lai Châu (2)Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu Ngày nhận bài 27/4/2017; ngày chuyển phản biện 11/5/2017; ngày chấp nhận đăng 14/6/2017 Tóm tắt: Tri thức bản địa là một thành tố văn hóa quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, được người dân không ngừng sáng tạo, bồi đắp và trao truyền tiếp nối giữa các thế hệ thông qua hoạt động sản xuất, ứng xử với tự nhiên và các quan hệ xã hội trong cộng đồng. Bài báo này phân tích vai trò quan trọng của tri thức bản địa đối với cuộc sống người dân địa phương và việc kết hợp giữa tri thức bản địa với các kiến thức khoa học công nghệ trong thích ứng với biến đổi khí hậu ở cấp cộng đồng của các dân tộc thiểu số. Từ khóa: Tri thức bản địa, thích ứng, biến đổi khí hậu, dân tộc thiểu số. 1. Mở đầu quản lý tài nguyên thiên nhiên ở cấp cộng đồng Biến đổi khí hậu (BĐKH) với biểu hiện là để thích ứng với sự thay đổi của môi trường và sự gia tăng nhiệt độ, mực nước biển dâng và những thay đổi khác [10]. Xa hơn nữa, nếu áp thời tiết cực đoan, đang đe dọa nghiêm trọng dụng đầy đủ tri thức bản địa kết hợp với công những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội và nghệ và kỹ thuật hiện đại sẽ giúp các quốc gia môi trường ở vùng ven biển, hải đảo, miền núi trên thế giới hàng năm tiết kiệm nguồn kinh phí của các quốc gia. Người nghèo, người già và trẻ rất lớn [8]. em là những đối tượng dễ bị tổn thương bởi tác 2. Giá trị của tri thức bản địa động của BĐKH. Tính từ năm 2001-2010, ở Việt Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa về tri thức Nam các loại thiên tai như: Bão, lũ, lũ quét, sạt bản địa. Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn và các của Liên Hợp Quốc (UNESCO) cho rằng tri thức thiên tai khác đã làm thiệt hại đáng kể về người bản địa là những kiến thức địa phương thuộc và tài sản, đã làm chết và mất tích hơn 9.500 về một nền văn hóa hay xã hội cụ thể. Các tên người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính chiếm khác của tri thức bản địa bao gồm: “kiến thức khoảng 1,5% GDP/năm [1]. Vấn đề BĐKH mang địa phương”, “tri thức dân gian” hay “khoa học tính toàn cầu, để đối phó tác động của BĐKH truyền thống”. Những kiến thức này được truyền đòi hỏi sự hợp tác, chia sẻ trách nhiệm của tất từ thế hệ này sang thế hệ khác, thường là bằng cả các quốc gia ở các khu vực trên thế giới. Bên cách truyền miệng và các nghi lễ văn hóa. Tri cạnh việc thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, thức bản địa là cơ sở cho sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng nhiều chính sách ứng phó chế biến thực phẩm, chăm sóc sức khỏe, giáo với BĐKH. Một trong những mục tiêu của chiến dục, bảo tồn và hàng loạt các hoạt động khác để lược quốc gia về BĐKH là xây dựng cộng đồng duy trì bền vững xã hội [17]. ứng phó hiệu quả với BĐKH, trong đó đẩy mạnh Từ định nghĩa cho thấy, đặc trưng của tri “sử dụng kiến thức bản địa trong ứng phó với thức bản địa bao gồm: (i) Tính địa phương - BĐKH, đặc biệt trong xây dựng các sinh kế mới phản ánh nhận thức, hiểu biết của người dân theo hướng các-bon thấp” [1]. Trong khi các giải về môi trường tự nhiên, hệ sinh thái ở một khu pháp thích ứng dựa trên cơ sở khoa học hiện đại vực, lãnh thổ cụ thể; (ii) Tính thực tiễn - tri thức chưa sẵn có hoặc khó áp dụng cho cộng đồng bản địa được rất nhiều thế hệ người dân trong địa phương, thì tri thức bản địa là cơ sở quý giá cộng đồng hình thành đúc kết qua hàng nghìn cho việc phát triển các chiến lược thích ứng và năm bằng các phép thử “đúng” và “sai” trong TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 25 Số 2 - Tháng 6/2017 các thực hành sản xuất, ứng xử với môi trường trồng ở Hoa Kỳ những năm 1940 và 1950 với tự nhiên; (iii) Tính năng động cao - do sáng tạo chủ trương xóa bỏ mô hình xen canh chuyển trong thực tiễn cuộc sống nên tri thức bản địa sang mô hình đơn canh. Kết quả các mô hình không ngừng được bổ sung, hoàn thiện để đáp đơn canh mặc dù cho năng suất cao nhưng ứng với sự thay đổi của môi trường; (iv) Tính gặp nhiều dịch bệnh và trên quy mô lớn dẫn truyền miệng - tri thức bản địa được lưu giữ đến việc mất trắng ở một số loại cây trồng [9]. trong trí nhớ, trong văn hóa, tín ngưỡng nên Dưới áp lực của cuộc sống, quá trình đô thị hóa việc lưu truyền, phổ biến cho các thế hệ trong nhanh và những đánh giá thiếu khách quan đã cộng đồng chủ yếu thông qua truyền miệng. làm tri thức bản địa đang dần bị mai một ngay Khi nghiên cứu về tri thức bản địa phần lớn trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở các khu các tác giả đều chia nội dung hệ thống thông tin vực trên thế giới [8]. tri thức bản địa thành các nhóm chính gồm: (i) Một số chương trình, dự án phát triển kinh Tri thức bản địa trong sử dụng, bảo vệ và quản lý tế - xã hội cho vùng miền núi, vùng sâu và vùng tài nguyên môi trường; (ii) Tri thức bản địa trong xa ở Việt Nam đã không thành công như kỳ sản xuất nông nghiệp; (iii) Tri thức bản địa về vọng, bởi quá trình xây dựng nội dung dự án nghề thủ công; (iv) Tri thức bản địa về chăm sóc chưa xem xét hết tính đa dạng văn hóa của các sức khỏe cộng đồng; (v) Tri thức bản địa trong tổ tộc người và thường chỉ đưa ra một khuân mẫu chức quản lý cộng đồng [3,5]. chung cho tất cả các dự án nên không phải lúc Sự phát triển của khoa học hiện đại đã giúp nào cũng phù hợp và thành công [14]. Một số ví nhân loại giải quyết khá thành công các vấn đề dụ cụ thể là: Chương trình hỗ trợ máy tuốt lúa, đói nghèo, dịch bệnh, an ninh lương thực và máy làm đất cho người dân vùng cao đã không các vấn đề môi trường. Với thực tế đó, nhiều tiến hành khảo sát, đánh giá cụ thể điều kiện địa nghiên cứu của các học giả phương Tây đã hình cư trú phân tán của người dân, địa hình sản không dành sự tôn trọng đúng mực đối với hệ xuất ruộng bậc thang độ dốc lớn, diện tích sản thống tri thức bản địa và đề cao tuyệt đối các xuất các hộ gia đình nhỏ lẻ, phân tán. Do vậy khi tri thức khoa học, cho rằng các tri thức khoa được hỗ trợ máy tuốt lúa, máy làm đất, người học và công nghệ có thể cung cấp câu trả lời dân đã rất khó di chuyển từ bản này sang bản cho mọi vấn đề [4]. Tuy nhiên, các quốc gia khác, từ nhà ra ruộng, vì thế đã không phát huy đang phát triển không phải lúc nào cũng có đủ hiệu quả mục tiêu hỗ trợ, thậm chí máy được hỗ nguồn lực, điều kiện nhằm tạo ra môi trường trợ đã không được sử dụng. Một số dự án đầu thuận lợi cho ứng dụng khoa học, công nghệ tư xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt cho hiện đại để giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội và người dân tại các bản vùng cao, vì một số lý do môi trường ở cấp quốc gia và cấp địa phương. nào đó đã không tiếp thu ý kiến người dân địa Trong cuộc cách mạng xanh ở Ấn Độ giai đoạn phương trong lựa chọn nguồn nước, dẫn đến 1960-1970, các nhà lãnh đạo với quan điểm một số công trình hoàn thành sau thời gian bàn tuyệt đối hóa vai trò của tri thức phương Tây, giao sử dụng đã không phát huy được mục đích đã hạ thấp hoặc thậm chí bỏ qua vai trò, giá trị ban đầu của dự án do nguồn nước cấp không của tri thức bản địa, không nghiên cứu đầy đủ ổn định. Đây là những trường hợp điển hình và yếu tố xã hội và sinh thái đặc thù; đã tiến hành những trả giá về kinh tế - xã hội đối với các dự sử dụng phân bón, các loại máy móc làm đất, án phát triển kinh tế - xã hội không coi trọng các loại hạt giống năng suất cao. Kết quả để lại tri thức bản địa của cộng đồng nơi dự án được hậu quả nghiêm trọng như cạn kiệt tài nguyên, triển khai. suy giảm chất lượng đất và tình trạng thiếu hụt Lịch sử phát triển cho thấy đa số cộng đồng lương thực do sản xuất cây trồng không phải dân tộc thiểu số đều lấy tri thức bản địa làm là cây lương thực [9]. Sự thiếu tôn trọng tri công cụ, phương tiện nhận thức môi trường tự thức bản địa không chỉ xuất hiện ở các nước nhiên, xã hội và là cơ sở duy nhất để tồn tại [2]. đang phát triển, mà còn có cả các quốc gia phát Những phương thức sản xuất ruộng bậc thang, triển, một trong số đó là dự án chuyển đổi cây bảo vệ rừng bằng tín ngưỡng, các bài thuốc cổ 26 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Số 2 - Tháng 6/2017 truyền của cộng đồng dân tộc thiểu số là những còn cảm nhận được mùa mưa đến sớm hay đến bằng chứng sát thực về vai trò, giá trị to lớn của muộn và lượng mưa một năm ít hay nhiều [14]. tri thức bản địa đang được các dân tộc lưu giữ Tri thức bản địa trong đoán định thời tiết của và phát triển. người dân Makueni ở Kenya được thể hiện qua 3. Tri thức bản địa trong thích ứng với biến đổi việc quan sát những thay đổi, di cư của động khí hậu vật, chẳng hạn “quan sát sự di cư và hướng di cư của một loài chim và loài ong” báo hiệu sự khô Cộng đồng các dân tộc thiểu số đa phần là hạn, hoặc quan sát tiếng kêu của côn trùng, sự người nghèo, sinh kế chủ yếu dựa vào tự nhiên di cư và hướng di cư của loài ong, sự biến mất nên họ là những đối tượng dễ bị tổn thương của loài chim và sự di cư của loài chim [7]. nhất trước những tác động của BĐKH. Hơn nữa, Trong hoạt động thích ứng và giảm thiểu khi những tác động, rủi ro xảy ra, họ cũng chính những thiệt hại do thời tiết cực đoan và thiên là chủ thể chính tự giải quyết các tổn thương, tai gây ra, người dân ở địa phương đã sử dụng thiệt hại. Tuy nhiên, một số tổ chức, cộng đồng nhiều giải pháp thích ứng bản địa khá phong phú khoa học cho rằng tri thức bản địa không đủ chẳng hạn: Sử dụng các giống lúa, giống mạch khả năng giải quyết những thách thức phức tạp sinh trưởng ngắn ngày, chống chịu khô hạn và nổi lên từ BĐKH mà xã hội và cộng đồng đang trồng xen nhiều loại cây trên cùng một diện tích phải đối mặt [11]. Chúng ta đang có cơ hội rất canh tác (trồng xen cây mạch, đậu tương, khoai lớn để kết hợp khoa học, công nghệ với tri thức tây). Cách thức này ít tốn kém nhưng hiệu quả bản địa để đối phó với BĐKH [8], việc nâng cao khá lớn, giúp đảm bảo thu nhập trước những năng lực thích ứng cho cộng đồng, cho người thay đổi khắc nhiệt của thời tiết [14]. Người dân bằng việc sử dụng tri thức bản địa được dân vùng Tây Bắc Băngladesh đã áp dụng nhiều coi là giải pháp nội sinh bên cạnh các giải pháp loại cây trồng thay vì sử dụng một hai loại cây khoa học và công nghệ. Các giải pháp khoa học trồng trên mảnh ruộng của mình; lựa chọn các hiện đại đòi hỏi những điều kiện về nguồn lực, giống cây trồng sinh trưởng và thu hoạch ngắn kinh tế, trình độ nhân lực rất lớn, đây là những ngày để thay đổi thời gian trồng, thời gian thu điều kiện rất khó khăn đối với địa phương, cộng hoạch tránh tác động của mưa lớn, lũ, và bão đồng. Sử dụng tri thức bản địa, được coi là cơ [15]. Phương án sử dụng cây trồng ngắn ngày, sở quan trọng cho việc phát triển các chiến lược cây trồng chịu khô hạn cũng được người dân thích ứng và quản lý tài nguyên thiên nhiên để Shel châu Phi áp dụng để thích ứng với thời tiết đáp ứng với sự thay đổi của môi trường [10]. Vì khô hạn [6]. Giải pháp thích ứng với BĐKH của vậy, cách tiếp cận thích ứng với BĐKH dựa vào người nông dân ở Nigeria là chủ động sử dụng tri thức bản địa đã được nhiều học giả nước biện pháp đa dạng hóa cây trồng trong sản xuất; ngoài quan tâm nghiên cứu ở một số khía cạnh thay đổi thời vụ trồng; sử dụng kỹ thuật canh như: Nhận thức và thích ứng với BĐKH của tác tối thiểu; thực hành kỹ thuật nông lâm kết người dân. hợp [12]. Nhận thức và hiểu biết về BĐKH của người Ở Việt Nam, vùng dân tộc thiểu số chiếm dân trồng táo vùng núi bang Himachal Pradesh khoảng 3/4 diện tích tự nhiên, có 53 dân tộc vùng Tây Bắc Ấn Độ trong quá trình trồng, chăm thiểu số trong tổng số 54 các dân tộc của Việt sóc và thu hoạch táo đã cảm nhận, cho rằng Nam. Mỗi dân tộc thiểu số đang lưu giữ những năng suất táo giảm rõ rệt do những thay đổi của nét văn hóa, truyền thống đặc sắc và hệ thống thời gian bắt đầu và kết thúc của tuyết rơi, cũng tri thức bản địa phong phú. Một số tri thức bản như lượng tuyết rơi trong năm [13]. Nông dân địa đã được sự quan tâm nghiên cứu và tiếp vùng Great Ruaha Catchment Area, TanZania, cận ở những khía cạnh khác nhau như: Tri thức thông qua hoạt động sản xuất, đã nhận biết bản địa trong quản lý tài nguyên rừng và nguồn được lượng mưa giảm và nhiệt độ tăng theo các nước; tri thức bản địa trong sản xuất nông năm, kết luận này tương đồng với số liệu quan nghiệp; tri thức bản địa về chăm sóc sức khỏe trắc khí tượng thủy văn trong vùng; người dân cộng đồng,... TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 27 Số 2 - Tháng 6/2017 Một điều được chấp nhận rộng rãi là BĐKH người dân tộc thiểu số ở huyện Tân Uyên, Lai có thể làm cho lũ lụt và hạn hán trầm trọng hơn. Châu; giống lúa Tẻ Râu của người dân tộc thiểu Tri thức bản địa, vì thế, có thể được áp dụng để số huyện Phong Thổ, Lai Châu. Đến nay, quy giảm thiểu những tác động bất lợi đó [3]. Một ưu mô diện tích của các giống lúa đặc sản bản địa điểm nữa là tri thức bản địa không mâu thuẫn được duy trì, mở rộng và trở thành sản phẩm với kiến thức hiện đại, mà bổ sung cho kiến thức đặc trưng của vùng. hiện đại nhằm bảo đảm sự phát triển hiệu quả, Như vậy, việc sử dụng tri thức bản địa kết bền vững và phù hợp với văn hóa của người dân hợp với khoa học, công nghệ là giải pháp hiệu địa phương [5]. Do vậy, trong thời gian gần đây, quả trong các dự án phát triển cộng đồng nói tri thức bản địa về ứng phó với BĐKH cũng đã chung và trong các dự án thích ứng với BĐKH nhận được nhiều quan tâm nghiên cứu, song nói riêng. Ưu điểm của giải pháp này là có chi đây là một vấn đề mới nên các nghiên cứu về phí thấp do nguyên vật liệu, phương tiện có sẵn lĩnh vực này ở Việt Nam chỉ ở bước đầu. tại địa phương và ít phụ thuộc bên ngoài cộng Đã có một số thành quả tiêu biểu trong kết đồng. Trong khi đó, những kiến thức hiện đại hợp giữa tri thức bản địa với khoa học, công được du nhập từ bên ngoài thường là mới lạ nghệ hiện đại để tạo sinh kế bền vững cho các với người dân, chi phí cao, nguồn cung thường cộng đồng dân tộc thiểu số, đặc biệt trong lĩnh không ổn định. Hơn nữa, tri thức bản địa được vực khai thác, phát triển bền vững tài nguyên hình thành từ việc đúc kết các hoạt động thực rừng, đảm bảo an ninh lương thực cho người tiễn, dựa trên điều kiện nguồn lực sẵn có tại địa dân trước thực trạng khô hạn, lũ lụt, cực đoan phương, nên tri thức bản địa rất quen thuộc thời tiết do BĐKH gây ra. Một số kết quả có thể với phong tục, tập quán của người dân và vì thế được kể đến, bao gồm: người dân có thể hiểu, nắm bắt và thực hành Người dân tộc Dao ở vùng cao huyện Sìn kiến thức đó dễ dàng hơn. Hồ, Lai Châu đã thương mại hóa bài thuốc tắm Bên cạnh những giá trị của tri thức bản địa truyền thống bằng lá thuốc được khai thác từ trong thích ứng với BĐKH đã nêu trên, cũng rừng tự nhiên, điều này đã làm vượt quá khả cần phải thừa nhận rằng tri thức bản địa không năng cung cấp của rừng tự nhiên. Trong ba năm thể giải quyết tất cả các vấn đề và thách thức trở lại đây, nhờ ứng dụng khoa học, kỹ thuật do BĐKH gây ra. Bởi lẽ, tri thức bản địa phản trong nhân giống cây bằng phương pháp giâm ánh các giá trị văn hóa và kiến thức của người cành, một số cây thuốc chính trong bài thuốc dân địa phương trong một không gian địa lý cụ tắm đã được trồng tại một số hộ gia đình, qua thể. Điều này có nghĩa rằng việc nhân rộng tri đó tài nguyên rừng được bảo vệ và phát triển thức bản địa của một vùng này sang vùng khác bền vững. Việc phát triển sản phẩm cây “Dưa cần thiết phải qua phân tích và thử nghiệm sự mèo” trước đây chủ yếu là gieo trồng cho cây phù hợp [11]. Hơn nữa, tri thức bản địa là kinh phát triển tự nhiên trong các nương ngô, vì thế nghiệm ứng phó với những cực đoan khí hậu đã có năng suất thấp, chất lượng không cao và xảy ra trong quá khứ. Trong khi đó, BĐKH có thể dễ thất thu do thiên tai. Nhờ được hỗ trợ ứng làm gia tăng cực đoan khí hậu và có những tác dụng khoa học đã chuẩn hóa quy trình kỹ thuật động khác chưa từng xảy ra trong quá khứ. Do bảo quản, lựa chọn giống, gieo trồng và canh vậy, nếu chỉ sử dụng tri thức bản địa để thích tác nên năng suất và chất lượng được nâng ứng với BĐKH là chưa đủ, mà cần thiết phải kết cao và vì thế thu nhập của người dân được cao hợp tri thức bản địa với khoa học, công nghệ hơn. Sự kết hợp tri thức bản địa với khoa học hiện đại. kỹ thuật hiện đại, ngoài việc thích ứng hiệu quả với BĐKH, còn tạo nên những sản phẩm hàng 4. Kết luận hóa thương mại đặc trưng cho địa phương. BĐKH có những tác động bất lợi đến các Ví dụ, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật phục ngành và các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nhiều tráng giống lúa bản địa thành công như: Giống giải pháp thích ứng với BĐKH đã được ghi lúa chất lượng cao Khẩu Ký, nếp Co Giàng của nhận và đánh giá cao. Các giải pháp được đưa 28 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Số 2 - Tháng 6/2017 ra phụ thuộc vào phạm vi và mức độ tác động đồng dân tộc một trong những giải pháp để xây của BĐKH, điều kiện và nguồn lực của từng dựng một cộng đồng thích ứng hiệu quả với lĩnh vực và từng vùng. Quá trình tồn tại, phát BĐKH là sử dụng tri thức bản địa của cộng đồng triển, các cộng đồng dân tộc thiểu số luôn sử địa phương. Do vậy, trong quá trình xây dựng kế dụng tri thức bản địa như là công cụ, phương hoạch thích ứng với BĐKH cho cấp cộng đồng, tiện trong sản xuất, quản lý cộng đồng và ứng cần thiết phải chú trọng đến những kinh nghiệm xử với môi trường tự nhiên. Đặc biệt, tri thức của cộng đồng; đánh giá, lựa chọn và sử dụng bản địa luôn được điều chỉnh, bổ sung và hoàn những tri thức bản địa có giá trị trong thích với thiện khi điều kiện, hoàn cảnh môi trường thay BĐKH để làm nguồn lực nội sinh của cộng đồng; đổi làm cho tri thức bản địa có giá trị lớn đối với kết hợp kiến thức bản địa với khoa học hiện đại thích ứng với BĐKH và xây dựng năng lực phục để nâng cao năng lực của cộng đồng trong thích hồi cho cộng đồng. Ở cấp độ địa phương, cộng ứng hiệu quả với BĐKH. Tài liệu tham khảo 1. Chính phủ Việt Nam (2011), Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Quyết định 2139/QĐ-TTg ngày 03/12/2011. 2. Đặng Văn Bài (2013), Bảo tồn di sản văn hóa trong bối cảnh biến đổi khí hậu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Hoàng Hữu Bình (2006), Những tác động của yếu tố văn hóa - xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Lý luận chính trị. 4. Lâm Bá Nam (2010), Khai thác tri thức địa phương các dân tộc thiểu số phục vụ phát triển bền vững - tiếp cận nhân học, Hội thảo quốc tế bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phục vụ phát triển bền vững, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Hoàng Xuân Tý và nnk (1998), Kiến thức bản địa của người vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 6. A. Nyong, F Adensina, B. Osman Elasha (2007), The value of indigenous knowledge in climate change mitigation and adaptation strategies in the African Sahel,Mitig Adapt Strateg Glob Change (2007) 12:787-797. 7. Chinwe Ifejika Speranza và nnk (2009), Indigenous knowledge related to climate variability and change: insights from droughts in semi-arid areas of former Makueni District, Kenya, Climate change (2010). 8. Clarence Alexander và nnk (2011), Linking indigenous and scientific knowledge of climate change,https://academic.oup.com/bioscience/article/61/6/477/225035. 9. Gupta, A (1998), Postcolonial Developments: Agriculture in the Making of modern India. Duke University Press. 10. IPCC (2007), Climate Change: Impacts, Adaptation and Vulnerability. 11. MoSTE (2015), Indigenous and local knowledge and practices for climate change Ris management in development, Ministry of Science, Technology and Environment (MoSTE), Kathmandu, Nepal. 12. Mustapha Bello, Salau E.S, O. E. Galadimal & Ali I. (2013), Knowledge, perception and adaptation strategies to climate change among framers of central state Nigeria, www.ccsenet.org, Sustainable Agriculture Research, Vol. 2, No. 3; 2013. 13. Neeraj Vedwan (2006), Culture, climate and the environment: Local knowledge and perception of climate change among apple growers in Northwestern India, Journal of Ecological Anthropology, vol.10. 14. Richar Kangalawe, Shadrack Mwakalila, Petro Masolwa (2011), Climate change impacts, local TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 29 Số 2 - Tháng 6/2017 knowledge and coping strategies in the Great Ruaha River catchment area, Tanzania, SciRP.org/Journal/nr. 15. Sawon Istiak Anik, Mohammed Abu Sayed Arfin Khan (2011), Climate change adaptation through local knowledge in the north eastern region of Bangladesh,Mitig Adapt Strateg Glob Change (2012) 17:879-896. 16. Scott, J. (1998), The Development of indigenous knowledge: A new applied Anthropology: Yale Unversity Press. 17. UNESCO (2010), Indigenous knowledge and sustainability, mods/theme_c/mod11.html. INDIGENOUS KNOWLEDGE IN ADAPTATION TO CLIMATE CHANGE Vu Van Cuong(1), Tran Thuc(2) (1)Department of Science and Technology of Lai Chau province (2) Viet Nam Institute of Meteorology, Hydrology and Climate Change Abstract: Indigenous knowledge is an important cultural component of ethnic minorities, which is constantly being created, enriched and handed over by generations through the production and dealing wits nature and social relationships in the community. This paper analyzes the importantrole of indigenous knowledge and the integation of indigenous knowledge with science and technology in adaptation to climate change at the communal level. Keywords: Indigenous knowledge, adaptation, climate change, ethnic minorities. 30 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Số 2 - Tháng 6/2017
File đính kèm:
- vai_tro_cua_tri_thuc_ban_dia_trong_thich_ung_voi_bien_doi_kh.pdf