Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Với một nền kinh tế đa thành phần cùng tồn tại và phát triển, không còn dừng lại ở khía cạnh xem xét để xóa bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế nào mà cần nhận thấy mỗi thành

phần kinh tế có bản chất riêng, có quy luật kinh tế riêng, dựa trên một

hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Vì vậy, điều quan trọng

là phải nắm vững bản chất của từng thành phần kinh tế và sử dụng

chúng một cách có hiệu quả nhất để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng

và phát triển kinh tế, chủ động mở cửa hội nhập sâu hơn nữa vào kinh

tế quốc tế giúp cho nền kinh tế nước nhà ngày càng vững mạnh. Bài

viết này tác giả chủ yếu phân tích vai trò của kinh tế tư nhân với

tăng trưởng kinh tế của VN trong thời gian vừa qua.

pdf 5 trang kimcuc 6180
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Vai trò của kinh tế tư nhân với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25(35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
24
Đặt vấn đề
Trong thắng lợi to lớn có tính 
chiến lược của VN trong thời 
gian qua phải kể đến tác động của 
chính sách cơ cấu kinh tế nhiều 
thành phần nói chung và quan 
điểm, chính sách đối với kinh 
tế tư nhân (KTTN) nói riêng; từ 
đó tạo nền tảng và căn cứ để đổi 
mới cơ chế quản lý‎ kinh tế cho 
phù hợp với cơ chế thị trường và 
hội nhập kinh tế quốc tế. Trong 
những năm đổi mới vừa qua, 
KTTN là một vấn đề gay cấn, 
lúng túng, gây tranh cãi nhiều 
nhất, đụng chạm đến những vấn 
đề chính trị - xã hội như định 
hướng XHCN, đảng viên làm 
kinh tế, bóc lột và bị bóc lột, 
phân hóa giàu nghèo, v.v.. Tuy 
nhiên, với sự nhất quán trong 
đường lối đổi mới của Đảng, với 
phương châm nhìn thẳng vào sự 
thật, tôn trọng sự thật, nói đúng 
sự thật, cùng với sự nỗ lực của 
các nhà lý‎ luận, các nhà quản lý 
và sự hưởng ứng của toàn dân, 
cho tới nay, KTTN đã được hồi 
phục, phát triển và trở thành một 
lực lượng kinh tế lớn mạnh, góp 
phần vào công cuộc đổi mới 
nhằm xây dựng nền kinh tế thị 
trường định hướng XHCN. Có 
thể nói, cho tới nay không còn 
một người nào, dù là bảo thủ 
nhất, còn nghi ngờ và phủ nhận 
vai trò của KTTN ở nước ta, đặc 
biệt là sự đóng góp vào sự tăng 
trưởng kinh tế trong thời gian 
qua.
1. Tăng trưởng kinh tế và vai trò 
của tăng trưởng kinh tế
1.1. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng 
lên về số lượng, chất lượng, tốc độ 
và quy mô sản lượng của nền kinh 
tế trong một thời kỳ nhất định. Nói 
cách khác, tăng trưởng kinh tế là sự 
gia tăng của tổng sản phẩm quốc 
nội thực (GDP
r
) hoặc tổng sản 
phẩm quốc dân thực (GNP
r
) trong 
một thời gian nhất định.
Công thức tính:
Tốc độ tăng trưởng = (GDP 
ri
 – 
GDP 
ri-1
): GDP 
ri-1 
 x 100%
Trong đó: GDP
r
 (GDP thực) 
= GDP
n
 (GDP danh nghĩa)/CPI 
(chỉ số giá). Tức là mỗi năm sẽ có 
mức độ lạm phát khác nhau do đó 
cần chia cho chỉ số giá để tính cho 
đúng. Tốc độ tăng GDP là số tương 
đối % ( không đơn vị), còn GDP là 
số tuyệt đối (có đơn vị tính, ví dụ: 
USD).
Vai trò của kinh tế tư nhân với 
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
NGUYễN ĐìNH LUậN 
Nhận bài: 01/09/2015 – Duyệt đăng: 20/10/2015
Với một nền kinh tế đa thành phần cùng tồn tại và phát triển, không còn dừng lại ở khía cạnh xem xét để xóa bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế nào mà cần nhận thấy mỗi thành 
phần kinh tế có bản chất riêng, có quy luật kinh tế riêng, dựa trên một 
hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Vì vậy, điều quan trọng 
là phải nắm vững bản chất của từng thành phần kinh tế và sử dụng 
chúng một cách có hiệu quả nhất để đẩy nhanh quá trình tăng trưởng 
và phát triển kinh tế, chủ động mở cửa hội nhập sâu hơn nữa vào kinh 
tế quốc tế giúp cho nền kinh tế nước nhà ngày càng vững mạnh. Bài 
viết này tác giả chủ yếu phân tích vai trò của kinh tế tư nhân với 
tăng trưởng kinh tế của VN trong thời gian vừa qua.
Từ khóa: Kinh tế tư nhân (KTTN), tăng trưởng kinh tế.
Số 25(35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
25
1.2. Vai trò của tăng trưởng kinh 
tế
Tăng trưởng kinh tế là một 
trong những vấn đề cốt lõi của lý 
luận về phát triển kinh tế. Tăng 
trưởng và phát triển kinh tế là mục 
tiêu hàng đầu của tất cả các nước 
trên thế giới, là thước đo chủ yếu 
về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn 
của mỗi quốc gia.
Thành tựu kinh tế vĩ mô của 
một quốc gia thường được đánh giá 
theo những dấu hiệu chủ yếu như: 
ổn định, tăng trưởng, công bằng 
xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh 
tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt 
vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế thể hiện 
bằng sự tăng lên về số lượng, chất 
lượng hàng hoá, dịch vụ và các 
yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng 
trưởng kinh tế là tiền đề vật chất 
để giảm bớt tình trạng đói nghèo. 
Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn 
đề có ý nghĩa quyết định đối với 
mọi quốc gia trên con đường vượt 
lên để khắc phục sự lạc hậu, hướng 
tới giàu có, thịnh vượng.
- Tăng trưởng kinh tế làm 
cho mức thu nhập của dân 
cư tăng, phúc lợi xã hội và 
chất lượng cuộc sống của cộng 
đồng được cải thiện như: Kéo dài 
tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng 
và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo 
dục, y tế, văn hoá... phát triển.
- Tăng trưởng kinh tế tạo điều 
kiện giải quyết công ăn việc làm, 
giảm thất nghiệp. Khi một nền kinh 
tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một 
trong những nguyên nhân quan 
trọng là đã sử dụng tốt hơn lực 
lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng 
kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu 
hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng 
trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp 
ở nước phát triển đã được 
lượng hoá dưới tên gọi quy luật 
Okun1 (hay quy luật 2,5% - 
1). Quy luật này xác định, nếu 
GDP thực tế tăng 2,5% trong 
vòng một năm so với GDP 
tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ thất 
nghiệp giảm đi 1%.
- Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề 
vật chất để củng cố an ninh quốc 
phòng, củng cố chế độ chính trị, 
tăng uy tín và vai trò quản lý của 
nhà nước đối với xã hội.
- Đối với các nước chậm phát 
triển như nước ta, tăng trưởng kinh 
tế còn là điều kiện tiên quyết để 
khắc phục sự tụt hậu xa hơn về 
kinh tế so với các nước đang phát 
triển và phát triển. Như vậy, tăng 
trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu 
thường xuyên của các quốc gia, 
nhưng sẽ là không đúng nếu theo 
đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi 
giá. Thực tế cho thấy không phải 
sự tăng trưởng nào cũng mang lại 
hiệu quả kinh tế - xã hội như mong 
muốn, đôi khi quá trình tăng trưởng 
mang tính hai mặt. Chẳng hạn, tăng 
trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn 
đến tình trạng nền kinh tế “quá 
nóng”, gây ra lạm phát, hoặc tăng 
trưởng kinh tế cao làm cho dân cư 
giàu lên, nhưng đồng thời cũng có 
thể làm cho sự phân hoá giàu nghèo 
trong xã hội tăng lên. Vì vậy, đòi 
hỏi mỗi quốc gia trong từng thời 
kỳ phải tìm ra những biện pháp tích 
cực để đạt được sự tăng trưởng hợp 
lý, bền vững. Tăng trưởng kinh tế 
bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt 
mức tương đối cao, ổn định trong 
thời gian tương đối dài (ít nhất từ 
20 - 30 năm) và giải quyết tốt vấn 
đề tiến bộ xã hội gắn với bảo vệ 
môi trường sinh thái.
2. Kinh tế tư nhân (KTTN)
Khái niệm về KTTN hiểu qua 
hai cấp độ khác nhau: 
Theo cấp độ khái quát, được 
xem xét trên góc độ khu vực nhà 
nước và khu vực ngoài quốc 
doanh, KTTN là khu vực kinh tế 
nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu 
vực kinh tế nhà nước), bao gồm các 
doanh nghiệp trong và ngoài nước, 
trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn 
đầu tư. KTTN cần được hiểu là tất 
cả các cơ sở sản xuất kinh doanh 
không dựa trên sở hữu nhà nước về 
các yếu tố của quá trình sản xuất. 
Đặc trưng mang tính bản chất của 
những doanh nghiệp thuộc khu 
vực KTTN là họ sử dụng nguồn 
vốn của chính họ và có quyền 
được hưởng thành quả lao động 
mà họ làm ra. “DNTN hoạt động 
bằng tiền túi và cho chính cái túi 
tiền mình”. Đó là điểm khác biệt 
quan trọng giữa khu vực KTTN và 
khu vực KTNN trong các nền kinh 
tế. Nguyên tắc hoạt động của các 
loại hình DNTN đã được khái quát 
thành nguyên tắc “bốn tự”. Đó là 
tự bỏ vốn, tự tổ chức, tự chủ trong 
kinh doanh và tự bù lỗ. Đây là cơ 
chế gắn kết quả hoạt động (lợi ích) 
với năng lực hoạt động của người 
lao động, một cơ chế hoạt động tối 
ưu hướng tới kết quả cao. Việc chỉ 
ra đặc trưng cốt lõi của KTTN sẽ 
hướng sự chú ý của chúng ta tới 
bản chất chứ không dừng lại ở hình 
thức của vấn đề. 
Theo cấp độ hẹp hơn, KTTN 
gồm có kinh tế cá thể, tiểu chủ; và 
kinh tế tư bản tư nhân. Thông qua 
cách hiểu trên, chúng ta có thể đi 
đến nhận thức mang tính cụ thể và 
rõ ràng về KTTN: “KTTN là khu 
vực kinh tế gắn liền với loại hình 
sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế 
cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản 
tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân 
về tư liệu sản xuất (TLSX) tồn tại 
dưới các hình thức DNTN, công 
ty TNHH, CTCP và các hộ kinh 
doanh cá thể”.
KTTN đang có vị trí rất quan 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25(35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
26
trọng trong nhiều ngành, nghề ở 
nông thôn và thành thị, có điều 
kiện phát huy nhanh và hiệu quả 
tiềm năng về vốn, sức lao động, tay 
nghề của từng gia đình, từng người 
lao động. Do đó, việc mở rộng sản 
xuất, kinh doanh của KTTN cần 
được khuyến khích.
KTTN là bộ phận cấu thành 
quan trọng của nền kinh tế quốc 
dân, trong đó các chủ thể của nó 
được tiến hành sản xuất, kinh 
doanh một cách tự chủ vì lợi ích 
của bản thân cá nhân, và thông qua 
đó thực hiện lợi ích xã hội. Cho đến 
nay, KTTN được coi là khu vực 
cung cấp khối lượng sản phẩm lớn 
nhất cho xã hội. Sự tồn tại nhiều 
hình thức sở hữu, nhiều thành phần 
kinh tế, trong đó có KTTN là vấn 
đề tất yếu bắt nguồn từ quy luật về 
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất 
với tính chất trình độ phát triển 
của lực lượng sản xuất. Đây là 
khu vực kinh tế rất nhạy cảm với 
những đặc trưng của kinh tế thị 
trường, có tiềm lực lớn trong việc 
nâng cao năng lực nội sinh của đất 
nước, tăng trưởng kinh tế. Bởi vậy, 
phát triển KTTN là có lợi cho chủ 
nghĩa xã hội và được coi là điều 
kiện không thể thiếu để xây dựng 
thành công kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển 
KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài, 
là động lực quan trọng để phát triển 
nền kinh tế nhiều thành phần định 
hướng xã hội chủ nghĩa. 
3. Tăng trưởng và vai trò của 
KTTN 
3.1. Tăng trưởng kinh tế của VN
Mặc dù VN đạt tốc độ tăng 
trưởng khá cao trong giai đoạn 
trước khủng hoảng (2008), nhưng 
sự tăng trưởng này chỉ tập chung 
nhiều vào quy mô tăng trưởng, 
do đó VN đã không đủ nguồn lực 
cần thiết để giúp phục hồi kinh 
tế trong giai đoạn sau khủng 
hoảng. Sự tăng trưởng thiên về 
số lượng chứ không chú trọng về 
chất lượng của nền kinh tế VN 
được biểu hiện ở tình trạng tăng 
trưởng dựa quá nhiều vào nguồn 
vốn, dẫn đến việc đầu tư tràn lan 
và sử dụng vốn không hiệu quả. 
Tăng trưởng kinh tế của VN trong 
những năm gần đây chủ yếu dựa 
vào vốn, trong khi đóng góp của 
của hai yếu còn lại là lao động và 
năng suất các nhân tố tổng hợp 
(TFP) thì rất thấp. Theo tính toán 
của nhiều nhà nghiên cứu, đóng 
góp của TFP vào tăng trưởng 
kinh tế ở VN trong những năm 
gần đây dao động trong khoảng 
6% - 10% (Bảng 1), nhưng tỷ 
trọng đóng góp của TFP thì 
dường như không thay đổi, chỉ 
tăng khoảng 2,14% trong giai 
đoạn 2006-2012. 
Trong khi đó, với một nền 
kinh tế tăng trưởng dựa chủ yếu 
vào nguốn vốn, vốn luôn đóng 
góp trên 50% vào tốc độ tăng 
trưởng GDP, thậm chí lên đến 
khoảng 80% kể từ sau khủng 
hoảng thì VN lại chưa chú trọng 
vào việc sử dụng có hiệu quả các 
nguồn vốn. Tỷ số vốn/sản lượng 
tăng thêm của VN (được biết đến 
với tên gọi ICOR - Incremental 
Capital Output Ratio) hiện vẫn 
cao so với trong khu vực và có 
xu hướng tăng lên trong 3 năm 
gần đây, lần lượt đạt 5,73 lần 
năm 2010, 5,87 lần năm 2011 và 
6,66 lần năm 2012, bảng 2.
Chỉ số ICOR của VN cao 
nguyên nhân chủ yếu là do đầu 
tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng 
điểm dẫn đến tình trạng thất 
thoát, lãng phí trong sử dụng 
các nguốn vốn, nhất là nguồn 
vốn nhà nước. Ngoài ra, đối với 
nguồn lực tăng trưởng thứ ba 
là lao động thì nguồn lực này ở 
VN vẫn còn bộc lộ nhiều nhược 
điểm. Lực lượng lao động ở VN 
tuy đông về số lượng nhưng chủ 
yếu là lao động phổ thông, ít 
qua đào tạo. Hiện tỷ lệ lao động 
qua đào tạo nghề mới chỉ chiếm 
khoảng 35%. Chính vì thực trạng 
này mà các doanh nghiệp có vốn 
FDI đầu tư vào VN chỉ hướng 
tới việc tận dụng nguồn lao động 
phổ thông chi phí rẻ, chứ không 
TT
Khu vực kinh tế 2000-2010 2000-2005 2006-2010
Tổng số 6,07 4,89 7,45
1 Kinh tế nhà nước 8,53 6,94 10,85
2 Kinh tế tư nhân (ngoài nhà nước) 3,28 2,93 3,55
3 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 9,65 5,2 15,26
Năm
B/Quân 
2006-
2010
2010 2011 2012 2013 2014 2015(dự kiến)
B/Quân 
2011-2015
Tốc độ 
tăng 
trưởng 
(%)
7,02 6,42 6,2 5,25 5,42 5,98 6,2 5,81
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế VN giai đoạn 2011-2015
Nguồn: Tổng hợp của Tổng cục Thống kê và tác giả
Bảng 2: Hệ số ICOR tính theo vốn của các khu vực kinh tế
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Số 25(35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
27
hướng tới các lao động có trình 
độ cao hơn. 
3.2. Vai trò của KTTN đối với tăng 
trưởng kinh tế của VN
Sau hơn hai mươi năm chuyển 
đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản 
lý, KTTN nước ta đã hồi phục và 
phát triển nhanh chóng, đầy sinh 
lực với một sức bật mạnh mẽ. Vai 
trò của khu vực KTTN được thể 
hiện ở những điểm sau: 
Thứ nhất, khu vực KTTN góp 
phần khơi dậy một bộ phận quan 
trọng tiềm năng của đất nước, tăng 
nguồn nội lực, tham gia phát triển 
nền kinh tế quốc dân. Vai trò này 
của khu vực KTTN được thể hiện 
thông qua một số điểm: 
- Khu vực KTTN đã góp phần 
xây dựng quan hệ sản xuất phù 
hợp thúc đẩy Lực lượng sản xuất 
(LLSX) phát triển. Khu vực KTTN 
phát triển làm cho các quan hệ sở 
hữu của nền kinh tế nước ta trở nên 
đa dạng hơn. Sự biến đổi của quan 
hệ sản xuất đã kéo theo sự biến đổi 
của quan hệ quản lý và phân phối 
làm cho quan hệ sản xuất trở nên 
linh hoạt, phù hợp với trình độ 
phát triển của LLSX vốn còn thấp 
và phát triển không đều giữa các 
vùng, các ngành trong cả nước. 
Nhờ vậy đã khơi dậy và phát huy 
tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, 
kinh nghiệm sản xuất của các tầng 
lớp nhân dân, các dân tộc vào công 
cuộc CNH - HĐH. Thông qua việc 
phát triển KTTN mà quyền làm chủ 
của nhân dân, trước hết là quyền 
làm chủ về kinh tế được phát huy, 
đó là cơ sở để mở rộng quyền làm 
chủ của nhân dân về chính trị, văn 
hóa, xã hội. 
- Khu vực KTTN góp phần quan 
trọng thu hút vốn nhàn rỗi của xã 
hội và sử dụng tối ưu các nguồn lực 
của địa phương. Việc thành lập các 
doanh nghiệp thuộc KTTN không 
đòi hỏi quá nhiều vốn, nhất là với 
doanh nghiệp quy mô nhỏ. Điều đó 
sẽ tạo cơ hội cho đông đảo dân cư 
có thể tham gia đầu tư. Mặt khác, 
trong quá trình hoạt động các loại 
hình doanh nghiệp tư nhân (DNTN) 
có thể dễ dàng huy động vốn vay 
dựa trên quan hệ họ hàng, bạn 
bè... Chính vì vậy, việc đẩy mạnh 
các loại hình DNTN được coi là 
phương tiện có hiệu quả trong việc 
huy động vốn, sử dụng các khoản 
tiền đang phân tán, nằm im trong 
dân cư thành các khoản vốn đầu tư 
riêng. Các doanh nghiệp thuộc khu 
vực KTTN thường có quy mô vừa 
và nhỏ, lại được phân tán ở hầu hết 
các địa phương, các vùng lãnh thổ 
nên chúng có khả năng sử dụng các 
tiềm năng về nguyên vật liệu, lao 
động và kinh nghiệm sản xuất các 
ngành nghề truyền thống của địa 
phương. 
- Khu vực KTTN đã đóng góp 
đáng kể vào nguồn thu ngân sách 
nhà nước. Thống kê cho thấy 
hiện nay đóng góp vào ngân sách 
của khu vực KTTN tuy còn nhỏ 
(chưa tới 10%) nhưng đang có xu 
hướng tăng lên. So với đóng góp 
vào ngân sách trung ương thì đóng 
góp của khu vực KTTN vào nguồn 
thu ngân sách địa phương còn lớn 
hơn nhiều. Ngoài đóng góp vào 
nguồn thu ngân sách, các doanh 
nghiệp thuộc khu vực KTTN còn 
có sự đóng góp đáng kể vào việc 
xây dựng các công trình văn hóa, 
trường học, thể dục thể thao, đường 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25(35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
28
sá, cầu cống, nhà tình nghĩa và các 
công trình phúc lợi khác. 
Thứ hai, khu vực KTTN đã 
có những đóng góp quan trọng 
vào việc thúc đẩy tăng trưởng và 
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế 
quốc dân. - Nhìn chung tốc độ tăng 
trưởng GDP của khu vực KTTN 
đều đặn và xấp xỉ với tốc độ tăng 
GDP của toàn bộ nền kinh tế. Sự 
phát triển nhanh của KTTN đã 
góp phần không nhỏ vào việc thúc 
đẩy tăng trưởng nền kinh tế của cả 
nước. 
- Trên thế giới cũng như ở VN, 
các doanh nghiệp nhà nước thường 
được ưu tiên xây dựng thành các 
khu cụm công nghiệp, dịch vụ tổng 
hợp và các vùng đô thị, nơi có cơ sở 
hạ tầng phát triển. Điều đó sẽ dẫn 
đến tình trạng mất cân đối nghiêm 
trọng về trình độ phát triển kinh tế, 
văn hóa, xã hội giữa thành thị và 
nông thôn, giữa các vùng của một 
quốc gia. Chính sự phát triển của 
KTTN góp phần quan trọng trong 
việc tạo lập sự cân đối trong phát 
triển giữa các vùng. Nó sẽ giúp cho 
vùng sâu, vùng xa, các vùng nông 
thôn có thể khai thác được tiềm 
năng, thế mạnh của mình để phát 
triển nhanh các ngành sản xuất và 
dịch vụ tạo ra sự chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế và rút ngắn khoảng 
cách chênh lệch về trình độ kinh tế, 
văn hóa giữa các vùng, miền. 
Thứ ba, KTTN phát triển góp 
phần thu hút một bộ phận lớn lực 
lượng lao động và đào tạo nguồn 
nhân lực mới cho thị trường lao 
động. Hiện nay ở nước ta, khu 
vực KTNN chỉ giải quyết việc làm 
được cho khoảng trên 3 triệu lao 
động, trong khi đó chỉ tính riêng 
các loại hình doanh nghiệp tư nhân 
và hộ kinh doanh cá thể phi nông 
nghiệp đã tạo việc làm cho khoảng 
6 triệu lao động. Khu vực KTTN 
có ưu thế hơn hẳn về khả năng tạo 
việc làm. Nhìn chung lợi thế nổi 
bật của KTTN là có thể thu hút 
một lực lượng lao động đông đảo, 
đa dạng, phong phú cả về mặt số 
lượng cũng như chất lượng từ lao 
động thủ công đến lao động chất 
lượng cao ở tất cả mọi vùng, miền 
của đất nước, ở tất cả mọi tầng lớp 
dân cư... Như vậy, KTTN góp phần 
quan trọng trong việc giải quyết 
việc làm cho một bộ phận lao động. 
Ngoài việc tạo công ăn việc làm, 
do những đòi hỏi để đứng vững 
trong cạnh tranh, các DNTN phải 
luôn tìm những biện pháp tổ chức 
lao động, quản lý có hiệu quả nhất, 
vì vậy kỹ thuật lao động được thực 
hiện rất nghiêm ngặt. Chính điều 
này đã góp phần vào việc đào tạo 
nên đội ngũ lao động có kỹ năng 
và tác phong công nghiệp. Đồng 
thời thông qua quá trình này, khu 
vực KTTN cũng được xem là nơi 
đào tạo, rèn luyện các chủ doanh 
nghiệp lớn trong tương lai và là cơ 
sở kinh tế ban đầu để phát triển các 
doanh nghiệp lớn.
Thứ tư, khu vực KTTN góp 
phần thúc đẩy đất nước hội nhập 
kinh tế quốc tế. VN muốn phát 
triển nhanh cần phải hội nhập kinh 
tế khu vực và quốc tế, thu hút vốn 
và công nghệ vào nền kinh tế của 
mình. Hội nhập kinh tế quốc tế là 
xu hướng tất yếu đối với VN trong 
quá trình CNH - HĐH đất nước. 
Quá trình hội nhập có thể thực hiện 
bằng nhiều con đường như: nhà 
nước liên doanh với nước ngoài, 
nhà nước cho nhóm đầu tư nước 
ngoài thuê đất hay các tổ chức kinh 
tế và KTTN liên doanh, liên kết với 
nước ngoài. Trong những hình thức 
này, hiện nay nổi bật nhất vẫn là 
con đường thứ ba, sự liên kết thông 
qua khu vực KTTN. Cũng thông 
qua quá trình đó, KTTN với những 
đặc tính của mình là chủ động đổi 
mới và lựa chọn công nghệ thích 
hợp để giảm chi phí sản xuất, mở 
rộng thị trường, tăng năng suất 
lao động, nâng cao chất lượng sản 
phẩm... Từ đó, KTTN góp phần 
thúc đẩy chuyển giao công nghệ, 
hợp tác đào tạo nguồn nhân lực và 
kinh nghiệm quản lý. Đồng thời 
nó góp phần thúc đẩy thương mại 
VN phát triển và hội nhập nhanh 
vào nền kinh tế thế giới. Thông qua 
những vấn đề phân tích trên, có thể 
thấy tính chất nhiều thành phần là 
đặc trưng của nền kinh tế quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các 
thành phần kinh tế luôn vận động 
và phát triển trong mối quan hệ, tác 
động qua lại và đan xen với nhau. 
4. Kết luận
Vấn đề hiện nay, không còn 
dừng lại ở khía cạnh xem xét để 
xóa bỏ hay ưu tiên thành phần kinh 
tế nào mà cần nhận thấy mỗi thành 
phần kinh tế có bản chất riêng, có 
quy luật kinh tế riêng, dựa trên một 
hình thức sở hữu nhất định về tư 
liệu sản xuất. Vì vậy, điều quan 
trọng là phải nắm vững bản chất 
của từng thành phần kinh tế và sử 
dụng chúng một cách có hiệu quả 
nhất để đẩy nhanh quá trình tăng 
trưởng và phát triển kinh tế, chủ 
động mở cửa hội nhập sâu hơn nữa 
vào kinh tế quốc tế giúp cho nền 
kinh tế nước nhà ngày càng vững 
mạnhl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
te-tu-nhan-la-gi.html 
Phạm Thị Thu Hằng, 
vn/
Phạm Thị Thương, 
vn/

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_kinh_te_tu_nhan_voi_tang_truong_kinh_te_cua_viet.pdf