Vai trò của khoa học và công nghệ với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại

C. Mác đã từng dự đoán khi khoa học phát triển đến một mức độ

nhất định sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tiên đoán đó cho thấy C.Mác

rất đề cao vai trò của khoa học trong việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng

sản xuất. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện

đại, tiên đoán đó của C.Mác ngày càng được khẳng định. Khoa học và công nghệ

không chỉ làm thay đổi diện mạo trên hầu hết các mặt của đời sống kinh tế - xã

hội mà còn tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại.

pdf 7 trang kimcuc 7460
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của khoa học và công nghệ với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của khoa học và công nghệ với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại

Vai trò của khoa học và công nghệ với sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại
Vai trò của Khoa học và công nghệ... 
 47 
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VỚI SỰ 
PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI 
LÊ THỊ CHIÊN* 
Tóm tắt: C. Mác đã từng dự đoán khi khoa học phát triển đến một mức độ 
nhất định sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tiên đoán đó cho thấy C.Mác 
rất đề cao vai trò của khoa học trong việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng 
sản xuất. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện 
đại, tiên đoán đó của C.Mác ngày càng được khẳng định. Khoa học và công nghệ 
không chỉ làm thay đổi diện mạo trên hầu hết các mặt của đời sống kinh tế - xã 
hội mà còn tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. 
Từ khóa: Khoa học, công nghệ, lực lượng sản xuất trực tiếp. 
1. Khoa học ngày càng trở thành 
lực lượng sản xuất trực tiếp 
Kể từ khi xuất hiện đến nay, khoa học 
luôn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy 
sự phát triển của sản xuất, cải biến đời 
sống lịch sử - xã hội của loài người. Sự 
phát triển của khoa học cũng đã tạo nên 
những cuộc cách mạng trong lịch sử. 
Ngày nay, những thành tựu to lớn của 
khoa học, là nhân tố quyết định tạo nên 
sự phát triển của lực lượng sản xuất 
hiện đại. 
Theo Ph.Ănghen, toàn bộ lĩnh vực 
nhận thức khoa học của con người được 
chia ra làm ba phần lớn. Phần thức nhất 
là những khoa học nghiên cứu về giới tự 
nhiên vô sinh và ít nhiều có thể dùng 
phương pháp toán học mà xử lý được 
(như toán học, thiên văn học, cơ học, vật 
lý học, hóa học...). Phần thứ hai là 
những khoa học nghiên cứu những cơ 
thể sống. Phần thứ ba là những khoa 
học lịch sử(1). Ph.Ănghen cũng cho rằng, 
cách phân chia này là phương pháp cũ 
mà mọi người cũng đã biết từ lâu. Tuy 
nhiên cho tới nay, cách phân chia này 
vẫn còn có giá trị nhất định.(1) 
Khi phân tích đến các yếu tố cấu 
thành của lực lượng sản xuất, C. Mác 
không chỉ chỉ ra hai yếu tố cơ bản cấu 
thành là tư liệu sản xuất và người lao 
động mà còn khẳng định rằng khoa học 
phát triển đến một mức độ nhất định 
nào đó sẽ trở thành lực lượng sản xuất 
trực tiếp. Theo C.Mác, khoa học đóng 
một vai trò to lớn đối với sự phát triển 
của lực lượng sản xuất, C.Mác đã tiên 
đoán: “Sự phát triển của tư bản cố định 
là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ 
biến (wissen knowledge) đã chuyển hóa 
đến mức độ nào đó thành lực lượng sản 
xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số 
cho thấy những điều kiện của quá trình 
sống của xã hội đã phục tùng đến một 
(*) Thạc sĩ triết học, Viện Triết học, Học viện 
chính trị - Hành Quốc gia Hồ Chí Minh. 
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, 
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 127 - 130. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 (73) - 2013 
 48 
mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ 
biến và đã được cải tạo đến mức độ nào 
không những dưới hình thức tri thức mà 
cả như là những cơ quan thực hành xã 
hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp 
của quá trình sống hiện thực”(2). Theo 
luận điểm trên của C.Mác, khoa học trở 
thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi tri 
thức khoa học được vật hóa thành máy 
móc, thành công cụ sản xuất của con 
người và được người lao động sử dụng 
trong quá trình sản xuất. Điều kiện để tri 
thức khoa học trở thành lực lượng sản 
xuất trực tiếp được Mác khẳng định như 
sau: “Sự phát triển của hệ thống máy 
móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi 
nền đại công nghiệp đã đạt được một 
trình độ phát triển cao hơn và tất cả các 
môn khoa học đều được phục vụ tư bản, 
còn bản thân hệ thống máy móc hiện có 
thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy, 
phát minh trở thành một nghề đặc biệt 
và đối với nghề đó thì việc vận dụng 
khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự 
nó trở thành một trong những yếu tố có 
tính chất quyết định và kích thích”(3). 
Luận điểm trên của C.Mác cho thấy 
khoa học trở thành lực lượng sản xuất 
với điều kiện là khoa học phải được vật 
hóa thành máy móc. Điều đó cũng có 
nghĩa là, khoa học tự bản thân nó không 
thể tạo ra bất kỳ tác động nào; khoa học 
phải thông qua sự vận dụng và hoạt 
động thực tiễn của con người thì mới có 
thể phát huy được tác dụng. Điều này đã 
được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định 
lại khi bàn đến vai trò của tư tưởng, lý 
luận nói chung: “Vũ khí của sự phê 
phán cố nhiên không thể thay thế được 
sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật 
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực 
lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ 
trở thành lực lượng vật chất một khi nó 
thâm nhập vào quần chúng”(4) và “Tư 
tưởng căn bản không thể thực hiện 
được cái gì hết. Muốn thực hiện tư 
tưởng thì cần có những con người sử 
dụng lực lượng thực tiễn”(5). Trong bài 
Điếu văn đọc tại lễ an táng của C.Mác, 
khi đề cao vai trò của C.Mác trong việc 
phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, 
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Đối với 
Mác, khoa học là một động lực lịch sử, 
một lực lượng cách mạng”(6). Nhận định 
trên của Ph.Ăngghen xuất phát từ việc 
C.Mác rất đề cao vai trò của khoa học 
và luôn đặt ra yêu cầu khoa học cần phải 
được sử dụng vào hoạt động thực tiễn 
mới có thể phát huy được vai trò to lớn 
của mình. 
Luận điểm của C.Mác về việc khoa 
học phát triển đến một mức độ nhất định 
sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp 
dựa trên việc nghiên cứu quy luật phát 
triển tất yếu của xã hội nói chung và sự 
phát triển của lực lượng sản xuất nói 
riêng. Ngày nay, với sự phát triển mạnh 
mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, 
điều dự đoán thiên tài của C.Mác ngày 
càng được chứng minh. Chúng ta cần 
hiểu tiên đoán của C.Mác về khoa học 
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở 
những khía cạnh sau: 
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen, sđd, tập 46, phần II, tr. 372. 
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen, sđd, tr. 367. 
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen, sđd, tập 1, tr. 580. 
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen, sđd, tập 2, tr. 181. 
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen, sđd, tập 19, tr. 500. 
Vai trò của Khoa học và công nghệ... 
 49 
Thứ nhất, khoa học vốn là một hệ 
thống những tri thức được tích lũy trong 
quá trình lịch sử đã được con người vận 
dụng vào hoạt động sản xuất vật chất, 
được vật hóa trong các thao tác lao động 
và đem lại những hiệu quả nhất định. 
Như vậy, từ chỗ là lực lượng sản xuất 
tiềm năng, khoa học đã từng bước tham 
gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, trở 
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. 
Thứ hai, khoa học có sự gắn kết chặt 
chẽ với công nghệ, trở thành cơ sở lý 
thuyết cho các phương tiện công nghệ 
mà thông qua đó, khoa học được vật 
chất hóa trong các yếu tố vật thể của lực 
lượng sản xuất. Sự gắn kết chặt chẽ giữa 
khoa học với công nghệ là một xu thế tất 
yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất 
hiện đại bởi khoa học muốn phát triển 
nhanh chóng cần phải có sự trợ giúp của 
công nghệ; đồng thời, muốn sản xuất ra 
công nghệ mới đòi hỏi con người phải 
dựa trên những phát minh khoa học mới. 
Điều đó cũng chứng tỏ rằng, khoa học là 
yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy sự 
phát triển của lực lượng sản xuất trong 
thời đại ngày nay. 
Thứ ba, thời gian để lý thuyết khoa 
học đi vào thực tiễn sản xuất ngày càng 
được rút ngắn lại. Trong những thế kỷ 
trước, thời gian để các phát minh khoa 
học từ phòng thí nghiệm đến thực tế sản 
xuất thường rất lâu. Chẳng hạn như: từ 
khi có phát minh nguyên lý máy ảnh đến 
khi xuất hiện chiếc máy ảnh đầu tiên 
phải mất hơn 100 năm (từ năm 1727 đến 
năm 1839); từ khi có phát minh nguyên 
lý điện thoại đến khi chiếc điện thoại 
đầu tiên được đưa vào sử dụng phả mất 
hơn 50 năm (từ năm 1820 đến năm 1876). 
Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, quá trình từ 
phòng thí nghiệm đến sản xuất đã được 
rút ngắn rất nhiều. Chẳng hạn như: phát 
minh và sử dụng đối với trandito mất 5 
năm (1848 – 1853), đói với mạch vi điện 
tử mất 3 năm (1958 - 1961)... 
Thứ tư, khoa học thâm nhập vào tất 
cả các yếu tố cấu thành của lực lượng 
sản xuất. Nhờ có khoa học, con người 
ngày càng tạo ra được nhiều đối tượng
lao động nhân tạo, khắc phục được hạn 
chế về thời gian sử dụng và một số đặc 
tính khác của đối tượng lao động tự 
nhiên; những đối tượng nhân tạo này 
cũng thân thiện với môi trường. Cũng 
nhờ có khoa học nên công cụ lao động 
ngày càng được cải tiến, giải phóng sức 
lao động của con người; trình độ, tay 
nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao 
động không ngừng được nâng cao. Do 
đó, trong rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, 
số lượng nhân lực khoa học tham gia 
trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm tỷ 
lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn so 
với số lượng lao động làm việc cơ bắp 
thông thường. Đội ngũ công nhân trí 
thức ngày càng gia tăng cả về số lượng 
và chất lượng. Nhờ có khoa học nên 
hoạt động của các nhà lãnh đạo, quản lý, 
điều hành sản xuất ngày càng có hiệu 
quả hơn, góp phần quan trọng trong việc 
nâng cao năng suất lao động, chất lượng 
và hiệu quả sản xuất. 
Tóm lại, khoa học đóng vai trò quan 
trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển 
lực lượng sản xuất. Luận điểm của C. 
Mác về việc khoa học sẽ trở thành lực 
lượng sản xuất ngày càng được khẳng 
định trong bối cảnh phát triển của khoa 
học ngày nay. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 (73) - 2013 
 50 
2. Diện mạo của lực lượng sản xuất 
dưới tác động của khoa học và công 
nghệ hiện đại 
Đầu thế kỷ XX, cả thế giới chứng 
kiến bước phát triển nhảy vọt chưa từng 
có của khoa học và công nghệ. Xu thế 
ấy được dự báo là sẽ ngày càng mạnh 
mẽ hơn với tốc độ nhanh hơn. Sự đòi 
hỏi phải đổi mới sản phẩm để tăng sức 
cạnh tranh trên thị trường là một động 
lực to lớn đối với khoa học và công 
nghệ; sự đòi hỏi đó sẽ "thúc đẩy khoa 
học tiến lên hơn mười trường đại học"(7). 
Mở đầu cho cuộc cách mạng khoa 
học ở đầu thế kỷ XX là ngành Vật lý 
học với sự ra đời của Thuyết tương đối 
và Thuyết lượng tử (người có công lớn 
nhất trong việc xây dựng hai học thuyết 
này là A.Anh-xtanh). Đến giữa thế kỷ 
XX bắt đầu cuộc cách mạng khoa học - 
công nghệ hiện đại với sản phẩm điển 
hình là máy tính điện tử (còn gọi là máy 
điện toán - computer). Chính nhờ cuộc 
cách mạng khoa học - công nghệ hiện 
đại này mà nền công nghiệp đã có bước 
nhảy vọt làm thay đổi về chất và từ đó 
làm đảo lộn mọi lĩnh vực của sản xuất 
và đời sống xã hội. 
Từ thời kỳ này, xuất hiện thuật ngữ 
công nghệ cao (high technology). Bên 
cạnh thuật ngữ công nghệ cao, người ta 
còn dùng các thuật ngữ công nghệ mới 
(new technology); công nghệ tiên tiến 
(advanced technology); công nghệ hiện 
đại (modern technology). Các thuật ngữ 
này giống nhau và khác nhau như thế 
nào? Vấn đề này cho đến nay vẫn chưa 
có sự phân biệt rõ ràng. Tuy nhiên, thuật 
ngữ công nghệ cao được sử dụng rộng 
rãi hơn cả. 
Hệ thống công nghệ cao gồm 8 ngành 
công nghệ cao cơ bản là: công nghệ 
thông tin (hay còn gọi là công nghệ 
thông tin và truyền thông); công nghệ 
sinh học; công nghệ vật liệu tiên tiến – 
công nghệ vật liệu nanô; công nghệ năng 
lượng mới; công nghệ bảo vệ môi 
trường; công nghệ biển và hải dương; 
công nghệ hàng không - vũ trụ và Công 
nghệ quản lý. Ngoài ra còn có hàng loạt 
các công nghệ chuyên ngành. Hệ thống 
công nghệ cao chính là cốt lõi của lực 
lượng sản xuất mới trong nền sản xuất 
hiện đại(8). 
Công nghệ cao ra đời dựa trên thành 
tựu khoa học mới nhất với hàm lượng tri 
thức, hàm lượng khoa học và sáng tạo 
cao. Điều đó đã xóa nhòa dần ranh giới 
giữa "khoa học" và "công nghệ”, đã rút 
ngắn quá trình từ phát minh khoa học 
đến việc áp dụng những phát minh đó 
vào trong sản xuất. Chu trình "khoa học - 
công nghệ - sản xuất" được gắn kết chặt 
chẽ nên tri thức khoa học đã chuyển 
nhanh chóng vào đời sống xã hội. 
Nhờ sự xuất hiện hệ thống công nghệ 
cao nên đã hình thành lực lượng sản xuất 
mới. Đặc điểm của lực lượng sản xuất 
mới là: 
Một là, khoa học đã trở thành yếu tố 
quan trọng của lực lượng sản xuất. Có 
thể nhận biết được đặc điểm này của lực 
lượng sản xuất mới qua những biểu hiện 
như: số lượng nhân lực khoa học tham 
gia trực tiếp vào quá trình sản xuất (được 
(7) C.Mác và Ph.Ănghen, sđd, tập 31, tr. 271. 
(8) Vũ Đình Cự - Trần Xuân Sầm (chủ biên) 
(2006), Lực lượng sản xuất mới và kinh tế trí 
thức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 135. 
Vai trò của Khoa học và công nghệ... 
 51 
gọi là “công nhân cổ trắng”) chiếm tỷ lệ 
ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn “công 
nhân cổ xanh” (là số công nhân chủ yếu 
sử dụng sức lực cơ bắp và thực hiện một 
số thao tác máy móc trong khi lao động). 
Những “công nhân cổ trắng” đó (còn có 
tên gọi thực chất hơn là công nhân tri 
thức). Thông qua họ cùng với những 
công cụ sản xuất hiện đại (vật hóa của tri 
thức) mà tri thức khoa học đã trực tiếp đi 
vào sản xuất. 
Ngày nay rất khó phân biệt hệ thống 
thiết bị khoa học, các phòng thí nghiệm 
(còn gọi labo) với hệ thống máy móc của 
dây chuyền sản xuất và các xí nghiệp sản 
xuất công nghệ cao. Thậm chí, các máy 
móc khoa học tối tân nhất cũng được đưa 
ngay vào ứng dụng thực tế gần như ở 
dạng nguyên mẫu. Từ thời gian tạo ra sản 
phẩm ở phòng thí nghiệm đến thời gian 
tạo ra sản phẩm đem ra thị trường được 
rút ngắn chưa từng thấy. Doanh nghiệp, 
trường đại học và viện nghiên cứu tích 
hợp với nhau ngày càng chặt chẽ. Hơn 
nữa, ngày nay khoa học trong lực lượng 
sản xuất mới không chỉ gồm khoa học tự 
nhiên, khoa học công nghệ mà còn cả 
khoa học xã hội. Những tri thức về kinh 
tế học, khoa học quản lý, tài chính - 
ngân hàng, quảng cáo - tiếp thị, tâm lý 
học, mỹ học, ngôn ngữ học... ngày càng 
trở thành yếu tố quan trọng của lực 
lượng sản xuất mới(9). 
Hai là, tri thức khoa học quyết định 
đặc điểm của lực lượng sản xuất mới. 
Việc phát huy, khai thác kho tri thức sẵn 
có và việc sản sinh ra tri thức mới càng 
hiệu quả và nhanh bao nhiêu thì nền kinh 
tế tăng trưởng càng nhanh bấy nhiêu. 
Lực lượng sản xuất mới không chỉ có 
mặt ở trong các ngành sản xuất mới xuất 
hiện mà còn có mặt trong các ngành sản 
xuất cũ. Lực lượng sản xuất mới tất yếu 
sẽ thay thế lực lượng sản xuất cũ qua sự 
phủ định biện chứng.(9) 
Ba là, do tri thức khoa học mang tính 
toàn cầu nên lực lượng sản xuất mới 
mang tính toàn cầu hoá. Nhờ giao thông 
toàn cầu thuận lợi, nhờ sự phát triển 
mạnh của mạng Internet, khoa học nói 
riêng và tri thức nói chung được phổ 
biến nhanh chóng, hầu như tức thời 
(online) với nhiều sự kiện khoa học trên 
toàn thế giới. Dòng tri thức, dòng công 
nghệ cùng với dòng vốn được lưu thông 
với tốc độ chưa từng có trên toàn thế 
giới. Người ta có thể sản xuất từng bộ 
phận cấu thành của một sản phẩm ở 
nhiều nơi trên thế giới, sau đó lắp ráp và 
lưu thông ở nhiều nơi trên thế giới, 
nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 
Bốn là, vốn người (humancapitan - tư 
bản con người) là vốn quan trọng trong 
lực lượng sản xuất mới. Vốn người (hay 
vốn con người) không chỉ bao gồm tri 
thức khoa học (còn gọi là tri thức hiện, 
nó có thể điển hoá, mã hoá và truyền bá 
trên mạng máy tính) mà còn bao gồm tri 
thức dân gian do mỗi người tích luỹ 
trong cuộc sống mà có (còn gọi là tri 
thức ẩn như bí quyết, kỹ năng, kỹ xảo, 
kinh nghiệm lâu năm, tay nghề thành 
thạo...). Trong kinh tế thị trường, khi 
thực hiện quá trình chu chuyển, thì vốn 
người chuyển thành tư bản, vì thế cho 
nên vốn người còn gọi là tư bản con 
người. Lao động có vốn người càng cao, 
(9) Vũ Đình Cự - Trần Xuân Sầm (chủ biên), 
sđd, tr. 145 - 150. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12 (73) - 2013 
 52 
hiệu quả càng lớn. Nhân tài trong sản 
xuất giữ vai trò quyết định trong cạnh 
tranh và phát triển. Ngay từ thế kỷ XIX, 
C.Mác đã chỉ ra: “Bồi dưỡng tất cả 
những phẩm chất của con người mang 
tính xã hội và sự sản xuất ra con người, 
với tư cách là con người, có những 
phẩm chất và những mối liên hệ và do 
đó, có những nhu cầu hết sức phong 
phú, sự sản xuất ra con người với tư 
cách là sản phẩm mang tính chất chính 
thể nhất và vạn năng nhất của xã hội 
(bởi vì muốn sử dụng được nhiều vật 
dụng, con người phải có năng lực sử 
dụng chúng nghĩa là con người phải trở 
thành con người hết sức có văn hoá), đó 
cũng là những điều kiện của một nền sản 
xuất dựa trên tư bản”(10). Điều đó đã 
được thực tế chứng minh. 
Năm là, bền vững và thân thiện với 
môi trường. Trong mỗi đơn vị sản phẩm 
hiện nay hàm lượng tri thức tăng lên, 
hàm lượng vật liệu và năng lượng giảm 
đi, tác động của khí phát thải trong sản 
xuất năng lượng ít đi, điều đó làm giảm 
nguy cơ gây biến đổi khí hậu toàn cầu. 
Việc sử dụng công nghệ cao làm cho 
lượng chất thải của sản xuất giảm mạnh, 
làm giảm tốc độ cạn kiệt tài nguyên, hơn 
nữa còn tiến tới triệt để tái chế chất thải, 
hướng tới nền sản xuất ít hoặc không có 
chất thải. Việc áp dụng các thành tựu 
mới của công nghệ sinh học sẽ hạn chế 
dùng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu 
hóa chất, do đó làm giảm ô nhiễm 
nguồn nước và suy thoái đất nông 
nghiệp, bảo tồn được đa dạng sinh học, 
giữ được cân bằng các hệ sinh thái(11). 
Ngày nay, khoa học và công nghệ 
được coi là yếu tố quan trọng và có ý 
nghĩa quyết định sự phát triển của kinh 
tế - xã hội. Ở nhiều nước, nhất là các 
nước công nghiệp phát triển do nhu cầu 
khách quan mà đã xuất hiện các "công 
viên khoa học", các "thành phố khoa 
học", các "khu công nghệ cao" Điều đó 
nhằm tạo ra môi trường, điều kiện thuận 
lợi để khoa học, công nghệ và cơ sở sản 
xuất gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên 
một "cơ thể" thống nhất. Chính ở đây có 
thể coi phòng thí nghiệm cũng là nhà 
máy, công ty, xí nghiệp; nhà khoa học 
đồng thời là người sản xuất kinh doanh. 
Tại đây, người ta có thể vừa nghiên cứu, 
thí nghiệm, đồng thời sản xuất đại trà ra 
các sản phẩm và được lưu thông ngay 
trên thị trường; không phân biệt đâu là 
sản phẩm của phòng thí nghiệm, đâu là 
sản phẩm của cơ sở sản xuất. 
Chính đây là nơi hội tụ đủ điều kiện 
tốt nhất, thuận lợi nhất để "nhất thể hoá" 
quá trình nghiên cứu thực nghiệm khoa 
học, triển khai công nghệ và sản xuất. 
Nhờ thế mà các ý tưởng khoa học nhanh 
chóng trở thành công nghệ, tạo ra sản 
phẩm, thu hút lực lượng lao động có 
trình độ tri thức và công nghệ cao thông 
qua hoạt động quản lý hiện đại mà tăng 
cường lực lượng sản xuất.(11) 
Như vậy, những thành tựu to lớn của 
khoa học và công nghệ hiện đại đã góp 
phần quan trọng trong việc thúc đẩy lực 
lượng sản xuất phát triển. Điều đó cũng 
khiến cho những tiên đoán của C. Mác 
về việc khoa học trở thành lực lượng sản 
xuất trực tiếp càng trở nên đúng đắn. 
(10) C.Mác và Ph.Ănghen, sđd, tập 31, tr. 271. 
(11) Vũ Đình Cự - Trần Xuân Sầm (chủ biên), 
sđd, tr. 153 - 154. 
Vai trò của Khoa học và công nghệ... 
 53 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_khoa_hoc_va_cong_nghe_voi_su_phat_trien_cua_luc.pdf