Vai trò của FDG pet/ct trong lập kế hoạch xạ trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III

Đánh giá vai trò của FDG PET/CT trong lập kế hoạch xạ trị ung thư phổi không tế

bào nhỏ giai đoạn III. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 17 bệnh nhân

ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III được chỉ định hóa xạ trị triệt căn và lập kế hoạch xạ trị

trên FDG PET/CT. Đánh giá sự thay đổi giai đoạn bệnh, chiến thuật điều trị và so sánh các thể tích

GTV_T, GTV_N vẽ trên CT với reGTV_T và reGTV_N vẽ trên PET/CT. Kết quả: FDG PET/CT làm

thay đổi giai đoạn bệnh ở 35,3% và làm thay đổi chiến thuật điều trị ở 29,4% bệnh nhân. GTV_T và

GTV_N trung bình trên CT nhỏ hơn có ý nghĩa thống kê so với reGTV_T và reGTV_N trung bình trên

PET/CT với p < 0,001.="" sử="" dụng="" fdg="" pet/ct="" trong="" lập="" kế="" hoạch="" xạ="" trị="" đã="" làm="" thay="" đổi="" tăng="">

ở 15/15 bệnh nhân (100%) và GTV_N ở 14/15 bệnh nhân (93,3%). Kết luận: FDG PET/CT làm thay

đổi giai đoạn bệnh, chiến thuật điều trị và GTV trong lập kế hoạch xạ trị UTPKTBN giai đoạn III.

Cần tiến hành nghiên cứu kết hợp FDG PET/CT và 4D CT mô phỏng để để đánh giá được sự di động

của khối u phổi theo nhịp thở và vẽ chính xác các thể tích điều trị.

pdf 7 trang kimcuc 2720
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của FDG pet/ct trong lập kế hoạch xạ trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của FDG pet/ct trong lập kế hoạch xạ trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III

Vai trò của FDG pet/ct trong lập kế hoạch xạ trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
33Số 61 - Tháng 12/2019
Mục tiêu: Đánh giá vai trò của FDG PET/CT trong lập kế hoạch xạ trị ung thư phổi không tế 
bào nhỏ giai đoạn III. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 17 bệnh nhân 
ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III được chỉ định hóa xạ trị triệt căn và lập kế hoạch xạ trị 
trên FDG PET/CT. Đánh giá sự thay đổi giai đoạn bệnh, chiến thuật điều trị và so sánh các thể tích 
GTV_T, GTV_N vẽ trên CT với reGTV_T và reGTV_N vẽ trên PET/CT. Kết quả: FDG PET/CT làm 
thay đổi giai đoạn bệnh ở 35,3% và làm thay đổi chiến thuật điều trị ở 29,4% bệnh nhân. GTV_T và 
GTV_N trung bình trên CT nhỏ hơn có ý nghĩa thống kê so với reGTV_T và reGTV_N trung bình trên 
PET/CT với p < 0,001. Sử dụng FDG PET/CT trong lập kế hoạch xạ trị đã làm thay đổi tăng GTV_T 
ở 15/15 bệnh nhân (100%) và GTV_N ở 14/15 bệnh nhân (93,3%). Kết luận: FDG PET/CT làm thay 
đổi giai đoạn bệnh, chiến thuật điều trị và GTV trong lập kế hoạch xạ trị UTPKTBN giai đoạn III. 
Cần tiến hành nghiên cứu kết hợp FDG PET/CT và 4D CT mô phỏng để để đánh giá được sự di động 
của khối u phổi theo nhịp thở và vẽ chính xác các thể tích điều trị.
1. MỞ ĐẦU
Ung thư phổi không tế bào nhỏ 
(UTPKTBN) là loại ung thư phổ biến với tỷ lệ 
tử vong cao trên thế giới và tại Việt Nam. Các 
phương pháp điều trị UTPKTBN hiện nay bao 
gồm phẫu thuật, xạ trị, hóa chất, điều trị đích 
và liệu pháp miễn dịch. Chiến thuật điều trị phụ 
thuộc vào giai đoạn bệnh và toàn trạng bệnh nhân 
(BN). Hóa xạ trị triệt căn được chỉ định trong 
UTPKTBN giai đoạn III không có khả năng phẫu 
thuật [10].
Trong thời gian gần đây, 18-FDG PET/
CT đã trở thành phương pháp chuẩn trong đánh 
giá giai đoạn và lựa chọn các BN UTPKTBN cho 
mục đích hóa xạ trị triệt căn. Bệnh nhân có di căn 
xa hoặc di căn nhiều hạch trung thất không có chỉ 
định hóa xạ trị triệt căn do không có hiệu quả và 
nhiều nguy cơ tác dụng phụ nặng nề khi điều trị. 
Hơn nữa, với khả năng xác định khối u nguyên 
phát và hạch di căn tốt hơn so với CT, FDG PET/
CT giúp cho việc vẽ các thể tích điều trị trong lập 
kế hoạch xạ trị chính xác hơn. Cụ thể, FDG PET/
CT cho phép phân biệt khối u với tổn thương xẹp 
phổi, hạch di căn với hạch sinh lý và cung cấp 
thông tin nhất định về sự di động của khối u theo 
nhịp thở, do đó giúp điều trị chính xác khối u và 
giảm mô lành bị chiếu xạ [3,4,6,9].
Khoa Xạ trị - Xạ phẫu, khoa Y học hạt 
nhân và Khoa Lao - Bệnh phổi, Bệnh viện Trung 
ương quân đội 108 tham gia nghiên cứu đa trung 
VAI TRÒ CỦA FDG PET/CT
TRONG LẬP KẾ HOẠCH XẠ TRỊ
UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ
GIAI ĐOẠN III
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
34 Số 61 - Tháng 12/2019
tâm PERTAIN của Cơ quan Năng lượng nguyên 
tử quốc tế về ứng dụng FDG PET/CT trong lập 
kế hoạch xạ trị ung thư phổi không tế bào nhỏ 
giai đoạn III từ năm 2014. Chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu với mục tiêu: “Đánh giá vai trò của 
FDG PET/CT trong lập kế hoạch điều trị ở các 
bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai 
đoạn III”.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 17 BN 
UTPKTBN giai đoạn III không có khả năng phẫu 
thuật được chỉ định hóa xạ trị triệt căn tại Bệnh 
viện Trung ương quân đội 108, thời gian nghiên 
cứu từ tháng 5/2014 đến tháng 6/2017.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn:
- BN UTPKTBN được xác định chẩn 
đoán bằng mô bệnh học.
- Giai đoạn III.
- Toàn trạng ECOG 0 - 1, không bị ung 
thư khác kết hợp.
- Đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- BN ung thư phổi tế bào nhỏ.
- Không phải giai đoạn III.
- Toàn trạng ECOG ≥ 2, bị ung thư khác 
kết hợp.
- Không đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
- Sinh thiết khối u làm mô bệnh học chẩn 
đoán UTPKTBN.
- Xét nghiệm thường quy: công thức máu, 
chức năng gan thận, thông khí phổi.
- Chẩn đoán giai đoạn theo AJCC 8 (2017) 
[1]: CT ngực-bụng, MRI não, chụp FDG PET/CT 
chẩn đoán kết hợp mô phỏng xạ trị trên máy PET/
CT Discovery LightSpeed của hãng GE (Mỹ) tại 
Khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện Trung ương quân 
đội 108, sử dụng phương tiện cố định wingboard, 
khi chụp BN thở bình thường. 
- Hội chẩn, giải thích quy trình hóa xạ trị.
- Chụp CT mô phỏng có tiêm cản quang 
với tư thế và dụng cụ cố định giống như khi chụp 
PET/CT mô phỏng trên máy CT mô phỏng chuyên 
dụng CT 580RT tại Khoa Xạ trị - Xạ phẫu, Bệnh 
viện Trung ương quân đội 108. Không dùng dụng 
cụ ép bụng và không chụp 4D CT.
- Hình ảnh CT và PET/CT mô phỏng 
được hợp nhất (fusion) và sau đó vẽ các thể tích 
điều trị trên phần mềm lập kế hoạch Eclipse 10.0 
(Varian, Mỹ): 
+ Vẽ GTV_T và GTV_N trên hình ảnh 
CT mô phỏng [8].
+ Vẽ reGTV_T và reGTV_N trên hình 
ảnh PET/CT mô phỏng theo quy trình của IAEA, 
có sự phối hợp thống nhất giữa bác sỹ xạ trị và 
bác sỹ y học hạt nhân [7].
- Đánh giá vai trò của FDG PET/CT trong 
thay đổi giai đoạn bệnh, xác định các thể tích điều 
trị so với CT.
- Số liệu được xử lý trên phần mềm SPSS 
18.0, so sánh giá trị trung bình các thể tích điều trị 
vẽ trên CT và PET/CT bằng thuật toán t-student 
ghép cặp.
Kết quả
Chúng tôi tuyển chọn được 17 BN 
UTPKTBN giai đoạn III đánh giá bằng CT và 
MRI. Sau khi chụp FDG PET/CT đánh giá giai 
đoạn phát hiện 2 bệnh nhân có di căn xa (11,8%) 
(hình 1). Còn lại 15 BN được lập kế hoạch xạ trị 
dựa trên hình ảnh PET/CT với các đặc điểm lâm 
sàng trong Bảng 1.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
35Số 61 - Tháng 12/2019
Hình 1. Hình ảnh FDG PET/CT phát 
hiện di căn gan (A) và đốt sống L5 (B) ở 2 BN 
UTPKTBN trong nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của BN nghiên 
cứu (n = 15)
Đặc điểm chung của BN nghiên cứu n % 
Tuổi 
Trung bình 
Độ tuổi 
62,73 ± 6,85 
50 - 73 
Giới Nam 
Nữ 
15 
0 
100 
0 
ECOG 0 
1 
8 
7 
53,3 
46,7 
Hút thuốc Có 
Không 
15 
0 
100 
0 
Mô bệnh học Ung thư biểu mô tuyến 
Ung thư biểu mô vảy 
UTPKTBN không phân týp 
7 
4 
4 
46,6 
26,7 
26,7 
100% BN trong nghiên cứu là nam giới 
có hút thuốc và có toàn trạng tốt (ECOG 0 -1) 
với tuổi trung bình 62,73. Ung thư biểu mô tuyến 
chiếm tỷ lệ lớn nhất 7/15 BN (46,6%), có 4/15 
BN (27,7%) là UTPKTBN không phân týp.
Bảng 2. Đặc điểm chung của khối u phổi 
và hạch
Đặc điểm chung n % 
Vị trí khối u 
Phổi phải 
Phổi trái 
10 
5 
66,7 
33,3 
Thùy trên 
Thùy giữa 
Thùy dưới 
9 
2 
4 
60 
13,3 
26,7 
Ngoại vi 
Trung tâm 
11 
4 
73,3 
26,7 
Kích thước 
khối u (cm) 
Nhỏ nhất 
Lớn nhất 
Trung bình 
3,4 
8,7 
5,25 ± 1,51 
Kích thước 
hạch (cm) 
Nhỏ nhất - lớn nhất 
Trung bình 
0,8 - 4,7 
1,43 ± 0,99 
Giá trị SUV 
khối u (g/ml) 
Nhỏ nhất - lớn nhất 
Trung bình 
4,3 – 22 
12,67 ± 4,06 
Giá trị SUV 
hạch (g/ml) 
Nhỏ nhất - lớn nhất 
Trung bình 
2,8 – 19,4 
6,83 ± 5,26 
Đa số khối u ở phổi phải (66,7%), thùy 
trên (60%) và ngoại vi (73,3%) với kích thước 
trung bình 5,25 cm và giá trị SUV trung bình 
12,67 g/ml. Kích thước hạch trung bình trên CT 
là 1,43 cm và giá trị SUV trung bình trên PET là 
6,38 g/ml.
Bảng 3. Thay đổi giai đoạn bệnh trên CT 
và PET/CT
Giai đoạn CT PET/CT Thay đổi giai đoạn 
n % n % n % 
T 
2 
3 
4 
1 
2 
12 
6,7 
13,3 
80 
1 
3 
11 
6,7 
20 
73,3 
1 6,7 
N 
0 
1 
2 
3 
2 
3 
9 
1 
13,3 
20 
60 
6,7 
1 
2 
9 
3 
6,7 
13,3 
60 
20 
4 26,7 
Giai đoạn 
bệnh 
IIIA 
IIIB 
IIIC 
6 
8 
1 
40 
53,3 
6,7 
4 
8 
3 
26,7 
53,3 
20 
4 26,7 
PET/CT làm thay đổi giai đoạn T (T4 
xuống T3) ở 1/15 BN (6,7%), lên giai đoạn N ở 
4/15 BN (26,7%) trong đó 1 BN từ N0 lên N2, 
1 BN từ N1 lên N2 và 2 BN từ N2 lên N3, thay 
đổi giai đoạn bệnh ở 4/15 BN (26,7%) trong đó 2 
BN giai đoạn IIIA lên giai đoạn IIIB và 2 BN giai 
đoạn IIIB lên IIIC. Tính cả 2 BN được phát hiện 
di căn xa trên PET/CT ban đầu thì PET/CT đã 
làm thay đổi giai đoạn bệnh ở 6/17 BN (35,3%) 
và làm thay đổi chiến thuật điều trị ở 5/17 BN 
(29,4%), trong đó 2 BN chuyển sang điều trị hóa 
chất và 3 BN thay đổi kế hoạch xạ trị.
Bảng 4. Giá trị các thể tích điều trị trên 
CT và PET/CT
Giai đoạn CT PET/CT Thay đổi giai đoạn 
n % n % n % 
T 
2 
3 
4 
1 
2 
12 
6,7 
13,3 
80 
1 
3 
11 
6,7 
20 
73,3 
1 6,7 
N 
0 
1 
2 
3 
2 
3 
9 
1 
13,3 
20 
60 
6,7 
1 
2 
9 
3 
6,7 
13,3 
60 
20 
4 26,7 
Giai đoạn 
bệnh 
IIIA 
IIIB 
IIIC 
6 
8 
1 
40 
53,3 
6,7 
4 
8 
3 
26,7 
53,3 
20 
4 26,7 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
36 Số 61 - Tháng 12/2019
GTV_T và GTV_N trung bình trên CT là 
96,36 cc và 11,8 cc nhỏ hơn có ý nghĩa thống 
kê so với reGTV_T và reGTV_N trung bình trên 
PET/CT tương ứng là 161,09 và 26,31 cc với p 
< 0,001.
Biểu đồ 1. So sánh các thể tích điều trị 
trên CT và PET/C
BÀN LUẬN
Vai trò của FDG PET/CT trong chẩn đoán 
giai đoạn bệnh và thay đổi chiến thuật điều trị 
UTPKTBN.
Trong UTPKTBN, giai đoạn bệnh là 
yếu tố tiên lượng quan trọng nhất và quyết định 
chiến thuật điều trị BN. Để đánh giá chính xác 
giai đoạn bệnh của BN UTPKTBN cần tiến hành 
nhiều phương pháp chẩn đoán hình ảnh như chụp 
CT ngực - bụng, MRI não, FDG PET/CT. Trong 
đó FDG PET/CT là phương pháp đánh giá giai 
đoạn có giá trị hơn CT trong đánh giá hạch trung 
thất và di căn xa (trừ đánh giá di căn não) [10]. 
Sự chính xác của CT trong đánh giá giai đoạn 
hạch di căn bị giới hạn bởi tiêu chí kích thước 
hạch ≥ 1 cm. Tuy nhiên, một nghiên cứu cho thấy 
44% hạch < 1 cm là hạch di căn và 77% hạch ≥ 1 
cm là hạch lành tính. FDG PET có độ nhạy 91% 
và độ đặc hiệu 86% trong đánh giá di căn hạch 
trung thất so với giá trị tương ứng của CT là 75% 
và 66%. Với khả năng chụp toàn thân, FDG PET 
cũng có độ nhạy 95% và độ đặc hiệu 83% trong 
đánh giá di căn xa. Các nghiên cứu trên thế giới 
đã cho thấy FDG PET/CT làm thay đổi giai đoạn 
bệnh ở 27 - 62% và thay đổi chiến thuật điều trị ở 
19 - 52% BN UTPKTBN. Trong một nghiên cứu 
gộp trên 581 BN UTPKTBN giai đoạn sớm, FDG 
PET/CT đã phát hiện 12% BN có di căn xa [3]. 
Một nghiên cứu khác của tác giả Mac Manus cho 
thấy tỷ lệ phát hiện di căn xa của BN UTPKTBN 
trên FDG PET/CT có tương quan thuận với giai 
đoạn bệnh đánh giá trước chụp PET/CT [9].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, FDG 
PET/CT đã làm thay đổi giai đoạn bệnh ở 6/17 
BN (35,3%), tương ứng với kết quả của một số 
tác giả khác đã nêu ở trên [2,3,9]. Trong đó FDG 
PET/CT đã phát hiện di căn xa ở 2 BN (11,8%), 
thay đổi giai đoạn T (T4 xuống T3) ở 1/15 BN 
do phát hiện xẹp phổi, kích thước khối u từ trên 
7 cm xuống dưới 7 cm, thay đổi giai đoạn N ở 
4/15 BN chủ yếu do phát hiện thêm hạch trung 
thất < 1 cm tăng chuyển hóa FDG. FDG PET/CT 
cũng làm thay đổi chiến thuật điều trị ở 05/17 BN 
(29,4%) chuyển từ hóa xạ trị sang hóa trị do phát 
hiện di căn xa và thể tích điều trị quá lớn, liều 
chiếu xạ của phổi cao (V20 > 35%) không cho 
phép lập kế hoạch xạ trị triệt căn. Kết quả này 
tương tự với nghiên cứu của Mac Manus có 1/3 
BN UTPKTBN thay đổi chiến thuật điều trị sau 
khi chụp PET/CT [9].
Một điểm cần lưu ý là FDG PET/CT cũng 
có thể âm tính giả do các tổn thương vi di căn nằm 
dưới ngưỡng phân giải không gian của PET hoặc 
dương tính giả do các bệnh lý viêm hạch có tính 
địa phương (endemic granulomatous disease) 
đặc biệt ở các vùng có tỷ lệ lao phổi, viêm phổi 
mạn tính cao như Việt Nam. Một nghiên cứu gần 
đây cho thấy FDG PET/CT có giá trị dự đoán âm 
tính cao (91%) nhưng có giá trị dự đoán dương 
tính thấp (29%) trong chẩn đoán hạch trung thất 
di căn. Giá trị dự đoán dương tính thấp cho thấy 
FDG PET/CT không thể thay thế việc khẳng định 
chẩn đoán bằng mô bệnh học và việc sinh thiết 
các hạch trung thất nghi ngờ là cần thiết, nhất là 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
37Số 61 - Tháng 12/2019
trong các trường hợp kết quả này làm thay đổi 
quyết định điều trị phẫu thuật. Ngược lại, giá trị 
dự đoán âm tính cao của FDG PET/CT gợi ý rằng 
việc sinh thiết hạch trung thất có thể không cần 
thiết, trừ trường hợp các khối u trung tâm gây ảnh 
hưởng đến đánh giá hạch trung thất do sự hạn chế 
về độ phân giải không gian của PET/CT [6]. Một 
hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là chưa 
tiến hành sinh thiết được hạch trung thất, do đó 
chưa loại trừ hoàn toàn được khả năng dương tính 
giả hoặc âm tính giả trên FDG PET/CT.
Vai trò của FDG PET/CT trong vẽ thể tích điều 
trị trong lập kế hoạch xạ trị UTPKTBN
Hóa xạ trị đồng thời là lựa chọn được 
ưu tiên trong điều trị UTPKTBN giai đoạn III 
không có khả năng phẫu thuật [10]. Thách thức 
lớn nhất trong xạ trị ung thư phổi là việc vẽ thể 
tích điều trị và đánh giá được sự di động của khối 
u theo nhịp thở khi điều trị. Thông thường, vẽ 
thể tích điều trị được tiến hành trên hình ảnh CT 
mô phỏng, tuy nhiên rất khó xác định chính xác 
khối u trong các trường hợp có kèm xẹp phổi và 
có những hạn chế trong xác định chính xác hạch 
trung thất di căn trên CT [6]. FDG PET/CT có độ 
nhạy và độ đặc hiệu cao hơn CT trong chẩn đoán 
hạch trung thất di căn và hiển nhiên sẽ giúp việc 
vẽ thể tích điều trị chính xác hơn [3]. Do chiến 
thuật xạ trị trong ung thư phổi đã chuyển từ xạ trị 
dự phòng (elective radiation therapy) sang xạ trị 
trường chiếu liên quan (involved-field radiation 
therapy) cùng với sự phát triển của các kỹ thuật 
xạ trị tiên tiến như xạ trị điều biến liều, xạ trị quay 
điều biến thể tích nên càng cần thiết xác định 
chính xác khối u và hạch trung thất di căn khi lập 
kế hoạch điều trị. Sử dụng FDG PET/CT giúp cải 
thiện độ chính xác trong vẽ khối u và hạch trung 
thất (gross tumor volume - GTV), giảm thể tích 
cơ quan lành xung quanh bị chiếu xạ không cần 
thiết. Các nghiên cứu cho thấy FDG PET/CT làm 
thay đổi GTV ở trên 30 - 60% BN và chủ yếu 
làm giảm thể tích khối u thô GTV so với khi vẽ 
trên CT [4]. PET/CT cũng làm giảm sự khác biệt 
trong vẽ thể tích điều trị giữa các bác sỹ xạ trị 
[5]. Việc vẽ khối u và hạch trên PET có thể được 
thực hiện bằng mắt thường hoặc tự động bởi xác 
định một ngưỡng SUV nhất định từ 15 – 50% 
giá trị SUVmax. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có 
một ngưỡng SUV tối ưu được khuyến cáo trong 
vẽ tự động khối u và hạch trên hình ảnh PET. 
Do đó, việc vẽ thể tích điều trị dựa trên PET vẫn 
nên được thực hiện bởi một bác sỹ xạ trị có kinh 
nghiệm [3].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, việc vẽ 
thể tích u (reGTV_T) và hạch (reGTV_N) được 
thực hiện bằng mắt thường trên hình ảnh PET đen 
trắng theo protocol của IAEA có sự phối hợp của 
bác sỹ xạ trị và y học hạt nhân [7]. Hình ảnh PET/
CT này được chụp ở tư thế mô phỏng sau khi 
chụp PET/CT chẩn đoán và sau đó được hợp nhất 
với hình ảnh CT mô phỏng trên phần mềm lập kế 
hoạch. Các thể tích reGTV_T và reGTV_N được 
sao chép từ chuỗi ảnh PET sang chuỗi ảnh CT mô 
phỏng để so sánh.
Sau khi vẽ được thể tích khối u thô GTV, 
cần xác định thể tích bia lâm sàng CTV và thể 
tích bia lập kế hoạch PTV. PTV được xác định 
bằng CTV cộng biên thêm để bù trừ cho sự di 
động của khối u và hạch di căn theo nhịp thở và 
sai số đặt BN khi điều trị. Biên cộng thêm này có 
thể từ 1 - 1,5 cm tùy theo vị trí khối u và 0,5 - 1 
cm đối với hạch di căn nếu không sử dụng 4D 
CT trong lập kế hoạch và xạ trị dưới hướng dẫn 
hình ảnh. Biên này giảm xuống 3 - 5 mm nếu có 
sử dụng 4D CT trong lập kế hoạch kết hợp xạ trị 
dưới hướng dẫn hình ảnh conebeam CT [8]. Việc 
giảm biên cộng từ CTV thành PTV sẽ làm giảm 
thể tích PTV và giảm thể tích cơ quan lành như 
phổi, thực quản bị chiếu xạ với liều tương đương 
của khối u và do đó làm giảm tác dụng phụ. Vì 
vậy hiện nay hướng dẫn điều trị ung thư phổi của 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
38 Số 61 - Tháng 12/2019
NCCN khuyến cáo sử dụng 4D CT và xạ trị dưới 
hướng dẫn hình ảnh để đánh giá được sự di động 
của khối u và điều trị chính xác, giảm tác dụng 
phụ cho cơ quan lành [10].
Hình ảnh PET được chụp trong 2 - 3 phút 
trong nhiều chu kỳ hô hấp khác nhau của BN. Do 
đó hình ảnh khối u thu nhận được thường bị mờ 
đi và có thể cho phép đánh giá được sự di động 
của khối u theo nhịp thở ở một mức độ nhất định. 
Hình ảnh này đại diện cho sự tổng hợp toàn bộ di 
động của khối u và có sự khác biệt với hình ảnh 
CT mô phỏng thông thường nhưng có sự tương 
đồng với hình ảnh 4D CT. Tuy nhiên, nhược điểm 
của PET trong các khối u di động là khó xác định 
chính xác vị trí của khối u do ảnh hưởng của sự 
di động làm mờ đi bờ viền của khối u. Theo một 
số nghiên cứu, khi sử dụng 4D CT để hiệu chỉnh 
sự suy giảm trong 4D PET/CT sẽ cải thiện tỷ lệ 
bia - phông nền (target-to-background ratio) và 
giúp vẽ bờ viền khối u cũng như xác định giá trị 
SUV chính xác hơn [3]. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng 
hình ảnh PET/CT 3D và vẽ thể tích khối u, hạch 
trên hình ảnh PET theo protocol nghiên cứu của 
IAEA có đánh giá sự di động của khối u và hạch 
trên PET dựa trên phần bờ viền của khối u bị mờ 
đi [7]. Vì vậy, thể tích reGTV_T và reGTV_N 
trong nghiên cứu của chúng tôi phần nào tương 
tự như thể tích bia nội tại (internal target volume 
– ITV) vẽ trên 4D CT và tăng lên so với GTV 
vẽ trên hình ảnh CT (bảng 3 và biểu đồ 1). Thể 
tích này cũng được Mac Manus đề cập đến như 
thể tích bia sinh học (biological target volume 
– BTV) và thường lớn hơn khối u nguyên phát 
[9]. Kết quả của chúng tôi tương tự như kết quả 
nghiên cứu của tác giả Hanna G G khi thấy thể 
tích khối u nguyên phát tăng lên khi vẽ trên PET/
CT so với khi vẽ trên CT [5]. Tuy nhiên, kết quả 
nghiên cứu của một số tác giả khác cho thấy lập 
kế hoạch xạ trị dựa trên PET/CT làm thay đổi 
GTV từ 38 - 100% trong đó đa số GTV vẽ trên 
PET/CT có thể tích nhỏ hơn so với GTV vẽ trên 
CT, có lẽ đó là do cách vẽ GTV trên hình ảnh 
PET trong các các nghiên cứu này không đánh 
giá đến sự di động của khối u và hạch [9]. Một số 
nghiên cứu còn nhận thấy ngoài sự thay đổi thể 
tích GTV còn có sự không phù hợp về mặt không 
gian giữa GTV vẽ trên PET/CT và GTV vẽ trên 
CT mô phỏng [3]. Để đánh giá sâu hơn vai trò 
của FDG PET/CT trong lập kế hoạch xạ trị cho 
khối u di động, chúng tôi dự định sẽ tiến hành 
nghiên cứu so sánh reGTV xác định trên FDG 
PET/CT với ITV vẽ trên 4D CT mô phỏng ở BN 
UTPKTBN.
4. KẾT LUẬN
 FDG PET/CT có vai trò quan trọng làm 
thay đổi giai đoạn bệnh, chiến thuật điều trị và 
các thể tích điều trị trong lập kế hoạch xạ trị 
UTPKTBN giai đoạn III. Nên cân nhắc kết hợp 
FDG PET/CT và 4D CT trong lập kế hoạch xạ trị 
để đánh giá chính xác sự di động của khối u theo 
nhịp thở.
Bùi Quang Biểu, Nguyễn Anh Tuấn 
Khoa Xạ trị - Xạ phẫu
Thi Thị Duyên, Nguyễn Đình Tiến 
Khoa Lao - Bệnh phổi
Mai Hồng Sơn, Lê Ngọc Hà 
Khoa Y học hạt nhân
Bệnh viện Trung ương quân đội 108
_________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amin MB et al (2017) Lung, AJCC 
Cancer Staging Manual, 8th Edition, Springer, 
431-56.
2. Bradley J et al (2004), Impact of FDG-
PET on radiation therapy volume delineation 
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
39Số 61 - Tháng 12/2019
in non-small cell lung cancer, Int. J. Radiation 
Oncology Biol. Phys., Vol. 59, No. 1, pp. 78–86.
3. Chang AJ et al (2011), The role of 
positron emission tomography for non-small cell 
lung cancer, Practical Radiation Oncology (2011) 
1, 282–288.
4. Greco C et al (2007), Current status 
of PET/CT for tumour volume definition in 
radiotherapy treatment planning for non-small 
cell lung cancer (NSCLC), Lung Cancer (2007) 
57, 125—134.
5. Hanna GG et all (2010), 18F-FDG PET-
CT simulation for non-small cell lung cancer: 
effect in patients already staged by PET-CT, Int. 
J. Radiation Oncology Biol. Phys., Vol. 77, No. 1, 
pp. 24–30.
6. Kitajima K et al (2016), Present and 
future roles of FDG-PET/CT imaging in the 
management of lung cancer, Jpn J Radiol (2016) 
34:387–399.
7. Konert T, Vogel W et al (2015), PET/CT 
imaging for target volume delineation in curative 
intent radiotherapy of non-small cell lung cancer: 
IAEA consensus report 2014, Radiother Oncol. 
2015 Jul;116(1):27-34.
8. Lee NY et al (2013), Non-small cell lung 
cancer and small cell lung cancer, Target Volume 
Delineation and Field Setup – A practical guide 
for Conformal and IMRT, Springer, 87 – 104.
9. Mac Manus MP, Hick RJ (2012), The Role 
of Positron Emission Tomography/Computed 
Tomography in Radiation Therapy Planning for 
Patients with Lung Cancer, Semin Nucl Med 
42:308-319.
10. NCCN Clinical Practice Guidelines in 
Oncology, Non-Small Cell Lung Cancer, version 
4.2018.

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_fdg_petct_trong_lap_ke_hoach_xa_tri_ung_thu_phoi.pdf