Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù

Cho ñến nay, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều

công trình nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca

trù, nhưng chưa có công trình nào ñặt vấn ñề trực

tiếp nghiên cứu vai trò của nghệ nhân- ca nương

(ả ñào). Lần ñầu tiên, trên tạp chí Nam Phong bài

“Văn chương trong lối hát ả ñào” (tháng 3- 1923)

của Phạm Quỳnh và bài “Khảo luận về cuộc hát ả

ñào” (4-1923) của Nguyễn ðôn Phục, có nêu cao

vai trò kỷ cương, phẩm hạnh của ả ñào trong giai

ñoạn suy thoái. Bài viết “Vài nét về sinh hoạt của

hát ả ñào trong truyền thống văn hóa Việt Nam”

của Lê Văn Hảo (tạp chí ðại học 1963) nêu khái

quát ñịa vị và vai trò ả ñào trong lịch sử xã hội

Việt Nam (từ thế kỷ XV ñến ñầu thế kỷ XX). “Sỹ

phu, văn học sử và cô ñầu” của Tam Ích và

“Những ả ñào lưu danh trong quốc sử” của

Lương Mỵ Châu, cùng ñăng trên tạp chí Văn học

(1971) là hai chuyên khảo góp thêm tư liệu về ả

ñào, ñại khái nói ñến vai trò quan trọng của ñào

nương trong lịch sử và văn học. Bài “Văn nhân và

ả ñào” của Nguyễn Xuân Diện (ñăng trên nhiều

tạp chí) nhắc lại vai trò ả ñào trong việc nuôi

dưỡng tài thơ của các văn nhân về tinh thần lẫn

vật chất và lịch sử ñã ghi nhận mỗi một tài danh

trong làng văn học trung cận ñại ñều có ít nhất

một mối tình thắm thiết với cô ñào

pdf 12 trang kimcuc 14700
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù

Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 
Trang 94 
Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù 
• Nguyễn Hoàng Anh Tuấn 
Trường ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ðHQG-HCM 
TÓM TT: 
Bài viết nêu bật tầm quan trọng của vai 
trò nguời ca nương (ñào nương) gắn liền với 
nguồn gốc lịch sử nghệ thuật ca trù, và ảnh 
hưởng ñến trào lưu thưởng thức nghệ thuật 
này. Qua vai trò ñào nương, ta hiểu ñược 
quy luật tồn tại và tiến hóa của nghệ thuật ca 
trù, từ trào lưu ñại chúng, ca trù tồn tại trong 
hát cửa ñình, hát khao vọng song song với 
trào lưu hát nhà tơ, ca quán; và xác ñịnh 
ñược phương hướng giữ gìn, phát huy nghệ 
thuật ca trù. 
T khóa: ñào nương (ả ñào), ca trù. 
Dẫn nhập 
Cho ñến nay, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều 
công trình nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca 
trù, nhưng chưa có công trình nào ñặt vấn ñề trực 
tiếp nghiên cứu vai trò của nghệ nhân- ca nương 
(ả ñào). Lần ñầu tiên, trên tạp chí Nam Phong bài 
“Văn chương trong lối hát ả ñào” (tháng 3- 1923) 
của Phạm Quỳnh và bài “Khảo luận về cuộc hát ả 
ñào” (4-1923) của Nguyễn ðôn Phục, có nêu cao 
vai trò kỷ cương, phẩm hạnh của ả ñào trong giai 
ñoạn suy thoái. Bài viết “Vài nét về sinh hoạt của 
hát ả ñào trong truyền thống văn hóa Việt Nam” 
của Lê Văn Hảo (tạp chí ðại học 1963) nêu khái 
quát ñịa vị và vai trò ả ñào trong lịch sử xã hội 
Việt Nam (từ thế kỷ XV ñến ñầu thế kỷ XX). “Sỹ 
phu, văn học sử và cô ñầu” của Tam Ích và 
“Những ả ñào lưu danh trong quốc sử” của 
Lương Mỵ Châu, cùng ñăng trên tạp chí Văn học 
(1971) là hai chuyên khảo góp thêm tư liệu về ả 
ñào, ñại khái nói ñến vai trò quan trọng của ñào 
nương trong lịch sử và văn học. Bài “Văn nhân và 
ả ñào” của Nguyễn Xuân Diện (ñăng trên nhiều 
tạp chí) nhắc lại vai trò ả ñào trong việc nuôi 
dưỡng tài thơ của các văn nhân về tinh thần lẫn 
vật chất và lịch sử ñã ghi nhận mỗi một tài danh 
trong làng văn học trung cận ñại ñều có ít nhất 
một mối tình thắm thiết với cô ñào 
Nhìn chung, giới nghiên cứu ñã cung cấp 
những tư liệu quý giá ñể có một cái nhìn ña chiều 
về vai trò ả ñào. Kế thừa những tư liệu ñã có, 
chúng tôi mong muốn ñóng góp một hướng tiếp 
cận mới ñể có cái nhìn toàn diện hơn vai trò ca 
nương trong nghệ thuật ca trù: hướng tiếp cận 
lịch ñại phối hợp với ñồng ñại từ cái nhìn văn hóa 
học. Phương pháp liên ngành, phương pháp 
nghiên cứu lịch sử, phương pháp hệ thống cấu 
trúc, xem ca trù như một hệ thống văn hóa, trong 
ñó, ả ñào là một thành tố, cùng với phương pháp 
so sánh ñể làm rõ mối tương quan giữa ả ñào với 
con hát của các loại hình nghệ thuật trong và 
ngoài nước. Trong bài viết, chúng tôi ñã sử dụng 
những thuật ngữ hiện ñại như “trào lưu” và “ñại 
chúng” với ý nghĩa chỉ một xu thế nhất thời của 
một số ñông ra ñời và mất ñi trong một ñiều kiện 
thời gian, không gian nhất ñịnh, nhằm làm rõ 
quan niệm: quy luật chung của nghệ thuật nhân 
loại là theo hai dòng phát triển: văn hóa dân gian 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 
Trang 95 
và nghệ thuật chuyên nghiệp20, thì ca trù cũng 
không ngoại lệ; và vai trò ca nương xưa nay vẫn 
biến thiên theo hai xu hướng như thế. 
1. Tên gọi “ñào nương” và vai trò gắn liền với 
nghệ thuật ca trù 
1.1. Sự xuất hiện tên gọi “ñào nương” hay “ả 
ñào” có thể xem là cột móc ñể truy tìm lịch sử 
nguồn gốc của nghệ thuật ca trù. Trong nhiều dị 
bản của truyền thuyết tổ nghề ca trù, các giáo 
phường xưa vẫn thờ Mãn ðào Hoa công chúa- 
con gái Bạch ðinh21 Xà ðại Vương, bà là một ca 
nương có tư chất thông minh, có giọng hát hay và 
tinh thông âm luật, ñã ñặt ra lối hát ả ñào ñể dạy 
ñời [Doãn Kế Thiện sưu tầm (1943), dẫn theo Vũ 
Bằng 1971: 4]. Theo ðỗ Bằng ðoàn [1994: 36-
41] thì ñời nhà Lê, ðinh Lễ quê làng Cổ ðạm, 
huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) ñược Lý Thiết Quải 
và Lã ðồng Tân cho một khúc gỗ dạy làm cây 
ñàn. Nhờ ñàn, ðinh Lễ ñã chữa bệnh và cưới 
ñược Hoa nương- con quan châu Thường Xuân 
(Thanh Hóa). Lịch triều phong tặng ðinh Lễ là 
Thanh Xà ðại vương và Hoa nương là Mãn ðào 
Hoa công chúa. Cũng theo thuyết ấy, Nguyễn 
ðôn Phục [1923: 277] ñã thừa nhận “hát ả ñào 
phôi thai phát triển sớm lắm. Duy âm ñiệu thì tản 
mát ở dân gian, hoặc mỗi người chế ra mỗi khúc, 
hoặc mỗi xứ hát ra mỗi giọng, khi xưa chưa có 
thống nhất. Bà Mãn ðào Hoa công chúa là một 
thiên tài âm nhạc, tự mình chế ra khúc hát ở các 
nơi, ñem tu bổ san thuật lại ñể dạy ñời”. Duy Việt 
trong truyện ðất tổ và Phú Sơn trên tạp chí Trung 
Bắc chủ nhật (1943) cũng ñồng quan ñiểm cho 
rằng: “lối hát ả ñào ñã lâu ñời rồi, dù không rõ 
niên ñại, nhưng chắc cũng chẳng sau lối hát 
20
 “Văn hóa dân gian duy trì tính hỗn ñồng hai bình diện: sáng 
tạo và những hoạt ñộng khác của con người, trong lúc ñó, 
nghệ thuật chuyên nghiệp (sản xuất nghệ thuật) thì tách biệt 
và ñi ñến khu biệt hóa thành các phương thức khác nhau: loại, 
thể” [M.Cagan 2004: Hình thái học nghệ thuật, Phan Ngọc 
dịch, NXB Hội nhà văn, H., tr.273]. 
21
 Các nhà nghiên cứu cho biết các nơi có ả ñào thì thường 
liên quan ñến họ ðinh, nhưng chưa có lời giải ñáp [Vũ Ngọc 
Khánh 1997: 16-24]. 
tuồng, chèo vốn là những lối hát phát sinh từ ñời 
Trần sơ” [dẫn theo Vũ Bằng 1971: 8]. 
Dựa theo truyền thuyết, ðại Việt sử ký toàn thư 
cũng ghi nhận về năm 1025 và Việt sử tiêu án của 
Ngô Thì Sỹ ñều cho rằng thời Lý Thái Tổ, trong 
ban Nữ nhạc có người ca nhi tên ðào Thị giỏi 
nghề hát, thường ñược vua ban thưởng, người ñời 
hâm mộ nên gọi các con hát là ñào nương (ả ñào). 
Công dư tiệp ký (1775) của Vũ Phương ðề, Lịch 
triều hiến chương loại chí (1819) của Phan Huy 
Chú, ðại Nam nhất thống chí - tỉnh Hưng Yên 
(1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn thì dựa 
trên sự tích vào thời ñiểm muộn hơn, cuối nhà Hồ 
(1400), một ca nhi họ ðào có công giết giặc ñược 
dân làng lập ñền thờ, từ ñó ca nhi ñược gọi là ả 
ñào [dẫn theo Nguyễn ðức Mậu 2010: 13]. Vì 
thông tin trên chỉ cho biết giai ñoạn thế kỷ XI, 
nghề xướng ca chuyên nghiệp với nghệ nhân phụ 
nữ ñược gọi là “ả ñào” chứ không nói hát ả ñào là 
nghệ thuật gì nên giới nghiên cứu văn học sử 
quan niệm rằng ñào nương cũng như cô ñào, ñào 
hát chỉ là tên gọi chung cho nữ diễn viên của các 
loại hình nghệ thuật truyền thống lẫn hiện ñại và 
ca trù ra ñời rất muộn từ thế kỷ XVIII trở ñi, vì 
phải rất lâu sau khi các loại hình nghệ thuật dân 
gian (thơ ca, hò vè, hát chèo, quan họ, ) ñã hình 
thành và các thể thơ lục bát, song thất lục bát lần 
ñầu tiên ra ñời trong lịch sử văn học, và cần phải 
có một tầng lớp nhà nho tham gia sáng tác và 
thưởng thức nó. Thứ nhất, họ nhầm lẫn “ả ñào, 
ñào nương” vốn là tên gọi ñặc trưng riêng của 
nghệ thuật ca trù với “cô ñào, ñào hát” của những 
loại hình nghệ thuật khác, mà ñó chẳng qua cũng 
là cách chuyển dịch ngữ nghĩa từ khái niệm ả ñào 
của ca trù ñể gọi chung cho các nữ diễn viên sân 
khấu, ñiện ảnh. Thứ hai là nhầm lẫn hát nói với ca 
trù, chỉ vì “hát nói thông dụng nhất, có văn 
chương lý thú nhất” [Dương Quảng Hàm 1968: 
154] nên vội kết luận ca trù ra ñời rất muộn cùng 
với lịch sử hát nói (sản phẩm của các nhà nho ñầu 
thế kỷ XVIII trở ñi). Thực tế, ngoài hát nói, ca trù 
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 
Trang 96 
còn có nhiều ñiệu hát khác22, trong ñó khúc Non 
mai, Hồng hạnh chỉ ñược hát trong Lễ tế tổ (bà 
Mãn ðào Hoa) có lẽ là lối hát lâu ñời nhất ñể 
minh chứng cho bề dày của lịch sử ca trù. 
Một số khác có căn cứ xác thực và toàn diện 
hơn, trong Việt sử thông giám cương mục và Việt 
Nam cổ văn học sử của Nguyễn ðổng Chi cho 
rằng: Từ ñời Lý, nghệ thuật múa hát ñã thịnh, các 
ả ñào ñã có ñiệu hát riêng ñều dùng lối lục bát 
biến hóa ra. ðời Trần lối hát ả ñào dùng trong 
giáo phường bây giờ ñã nhiều và nhờ ñược lối 
văn hát tuồng pha Tàu và ta, lại thêm có thơ phú 
quốc âm xuất hiện nên hát ả ñào dần dần sinh ra 
lắm lối [dẫn theo Lê Văn Hảo 1963: 721-722]. 
Thời Lê sơ (thế kỷ XV), nghệ thuật âm nhạc có 
một bước phát triển ñột phá nhờ Âm luật Hồng 
ðức của Lê Thánh Tông (1460-1497), nhờ Nho 
học cực thịnh, vài nho sỹ ñã tham gia sáng tác bài 
hát cho ả ñào. Gia phả tiến sỹ Lê ðức Mao (1462-
1529) ñã ghi lại bài thơ Nôm ðại Nghị bát giáp 
thưởng ñào giải văn (soạn trước năm 1500) mà 
sau này Nguyễn Xuân Diện [2007: 72] ñã dịch và 
chú thích ñó là tư liệu sớm nhất ñược biết có hai 
chữ “ca trù”23. Qua tư liệu văn bia (có ghi chữ ca 
trù” từ thế kỷ XV và hình ảnh cây ñàn ñáy trên 
ñiêu khắc ñình làng từ trước thế kỷ XVI), Nguyễn 
Xuân Diện kết luận: Ở thế kỷ thứ XV, ca trù ñã là 
một bộ môn khá hoàn chỉnh. ðến thế kỷ XVII-
XVIII, tổ chức giáo phường ñã hoàn bị, quản lý 
và mua bán quyền hát cửa ñình [2007: 78]. Tuy 
nhiên, nhóm nghiên cứu này vẫn chưa kết luận gì 
về thời ñiểm lịch sử tên gọi “ả ñào” và ñiều kiện 
lịch sử sản sinh ra nó. Quá trình ñiền dã của nhóm 
nghiên cứu Viện Âm nhạc Việt Nam (2006) ñã 
tìm ra ở Bắc Ninh có 10 ñình làng cùng thờ một 
ông tướng phò giúp Hai Bà Trưng (thế kỷ I 
tr.CN) tên là Doãn Công, có vợ là ñào nương (ả 
ñào) [Hồ sơ ứng cử quốc gia]. Phát hiện này ñồng 
22
 Trong Việt Nam ca trù biên khảo, ðỗ Bằng ðoàn ñã thống 
kê 46 ñiệu hát (hay còn gọi là cách hát, lối hát hay thể hát) và 
có ngôn bản của các ñiệu ñể minh ñịnh. 
23
 Trong bài thơ này, chữ “ca trù” xuất hiện hai lần: “Thọ bôi 
kể chục, ca trù ñiểm trăm; Mừng nay tiệc ca trù thị yến”. 
nhất khái niệm ả ñào với khái niệm “con hát” 
trong ðại Việt sử ký toàn thư và ðại Việt sử ký 
tiền biên24. Dương ðình Minh Sơn [2009: 31-36] 
cũng ñã công bố một phát hiện mới: ðó là nguồn 
gốc của chữ “ñào” là tên của một trong bốn ñứa 
bé25 của thầy trò gánh hát thờ trong các ñền miếu 
dân gian, sau này ñược Lý Thái Tổ ñưa vào làm 
lối hát thờ ở Thái Miếu mà thành lối hát của ban 
Nữ nhạc Cung ñình và nguồn gốc chữ trù là từ 
một lối hát trù yểm trong hát thờ26. Chữ “trù” 
theo nghĩa trù yểm có gốc gác sâu xa hơn giả 
thuyết “chữ trù là cái thẻ tre ghi chữ Nho, thưởng 
cho ả ñào, sau khi hát ả ñào ñổi lấy tiền” [ðào 
Duy Anh- Hán Việt từ ñiển, dẫn theo Nguyễn 
Nghĩa Nguyên 2011: 18]. 
Như vậy, các nhà nghiên cứu quan niệm nguồn 
gốc tên gọi ả ñào gắn liền với lịch sử ca trù trải 
dài suốt một ngàn năm Thăng Long, kể từ khi có 
lối hát thờ ở Thái Miếu, ả ñào (ñào nương) là tên 
gọi ñặc trưng ñể chỉ người hát ca trù. Việc lý giải 
và ñưa thêm cứ liệu xác thực ñòi hỏi nhiều thời 
gian và sự công phu hơn, tạm thời chúng ta chấp 
nhận cách giải thích trên. 
1.2. Về sau, khoảng cuối thế kỷ XIX, nửa ñầu 
thế kỷ XX, ả ñào thường ñược gọi là cô ñầu. Từ 
"cô ñầu" thì có người cho là "cô ñào" bị nói trệch 
ñi, chữ “ả” là chữ Nho có nghĩa là “cô”, ả ñào 
có nghĩa là cô ñào [Vũ Bằng 1971: 11]. Một số 
người hiểu từ "cô ñầu" là một cái tên xấu vì lúc 
24
 ðại Việt sử ký toàn thư (1479) kỷ An Dương Vương (255 
tr.CN) ghi về chuyện rùa vàng chỉ ra nguyên nhân thành ñắp 
không xong là do “trong núi có con quỷ, ñó là người con hát 
thời trước chết chôn ở ñấy hóa thành”. ðại Việt sử ký tiền 
biên, khắc in dưới thời Tây Sơn (1800) chép: “Theo ngoại sử, 
Trình hoàng hậu là con hát, quê ở làng Dương Thâm, quận 
Giao Chỉ. Nay ở ñấy có ñền thờ Triệu ðà và Trình hoàng hậu. 
Sau này con cháu Trình Thị ñổi ra họ Trần, vẫn giữ nghiệp ca 
công, nên có ñền thờ, hàng năm ñến ngày 11 tháng chạp thì 
giỗ tổ”[Hát cửa ñình Lỗ Khê]. 
25
 Cam. Quýt, Mận, ðào [khi còn nhỏ] tóc ñể chỏm, hát hầu 
thánh. ðến khi cô ðào lớn lên thì nghiễm nhiên gọi là “ðào 
Thị”, người bề trên gọi là con hát. 
26
 Hát thờ có nhiều công ñoạn khác nhau như: 1. Hát công tích 
của vị thần thờ trong miếu; 2. Hát cúng thổ thần, hát cúng 
cháo cho ma thập phương và hát cúng “trù yểm” trừ tà, ñuổi 
ma. Lối hát trừ tà, ñuổi ma này là công ñoạn thứ hai gọi là 
cúng tẩy uế, trước khi vào lễ cúng chính ở ngôi ñình làng 
[Dương ðình Minh Sơn 2009: 39]. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 
Trang 97 
này có câu thành ngữ “Cô ñầu, cô ñít, cô ñuôi” 
[Nguyễn Nghĩa Nguyên 2011: 19]. Nhưng, thành 
kiến của dân gian ñôi khi không phản ánh ñúng 
sự thật lịch sử. Ả ñào có tên là “cô ñầu” khi vào 
thời ñiểm này, các ả ñào ñã tích lũy ñược vốn 
liếng, kinh nghiệm, ñủ sức thoát ly khỏi giáo 
phường, tự thân mở nhà hát (ca quán) ở thành thị 
ñể dạy hát và kinh doanh nghề hát. Nguyễn ðôn 
Phục [1923] và ðỗ Bằng ðoàn- ðỗ Trọng Huề 
[1994: 44] cho rằng chữ "ñầu" ám chỉ tiền ñầu 
mà theo tục lệ các học trò phải trích ra ñể phụng 
dưỡng người thầy dạy hát của mình. "Cô ñầu" lại 
cũng thường ñược dùng ñể chỉ những cô ca sỹ có 
nhiều học trò. Cô ñầu thoát thai từ ả ñào. “Tiếng 
cô thay tiếng ả cho rõ ràng, tiếng ñầu thay tiếng 
ñào ñể tỏ ý tán tụng bậc danh ca” [Vũ Bằng 
1971: 3-5]. Vì thế, cái tên cô ñầu không có ở 
trong giáo phường và cũng không phải là người 
xứ Nghệ (Bắc Trung Bộ) ñặt ra, mà do “nhập 
cảng” từ Bắc Bộ vào [Nguyễn Nghĩa Nguyên 
2011: 19]. 
1.3. Căn cứ vào tên người ca nương, người ta 
còn gọi nghệ thuật ca trù bằng những tên sau: hát 
ả ñào, hát cô ñầu, ñào nương ca (nương nương 
ca)27, căn cứ vào bốn không gian diễn xướng của 
ñào nương: cung vua, ñình làng (ñền thần), dinh 
quan (tư gia) và ca quán và phương thức biểu 
diễn của họ, ca trù còn ñược gọi là hát hát nhà trò 
(hát cửa ñình), hát nhà tơ (hát nhà ty, hát cửa 
quyền), hát thẻ (trù); ở Thanh Hóa còn gọi là hát 
ca công, hát gõ, 
Từ những ñặc ñiểm vừa nêu, chúng tôi ñi ñến 
ñịnh nghĩa về ả ñào và ca trù: Ca trù là một thể 
loại hát thính phòng xuất xứ từ hát thờ (tín 
ngưỡng dân gian) ñược bác học hóa thành hát 
chơi (giải trí cho tầng lớp trí thức), trong ñó ả ñào 
giữ vai chính bên cạnh kép28 ñệm ñàn ñáy và 
27
 Hai khái niệm này có trong các thư tịch, Ôn Như Nguyễn 
Văn Ngọc ñã sử dụng ñể làm tiêu ñề cho tác phẩm của mình - 
ðào nương ca (1932). 
28
 Kép là một nam nghệ nhân giữ vai trò nhạc công gảy ñàn 
ñáy bên cạnh ả ñào. Cách gọi “ñào” và “kép” là thuật ngữ ñặc 
thù của cấu trúc văn hóa ca trù. 
quan viên29 cầm chầu thưởng thức. Ả ñào là chức 
danh của một nữ nghệ nhân hát ca trù, còn ñược 
gọi là ñào nương hay cô ñầu. 
Thiếu nữ vác ñàn ñáy, ñiêu khắc gỗ tại ñình ðại Phùng, huyện 
ðan Phượng (Hà Tây)30. 
1.4. Và, một ñúc kết chung cho vai trò ca 
nương trong nghệ thuật ca trù: ðó là vai trò người 
nghệ nhân ña năng, một mình ñảm ñương nhiều 
vai như ca, múa, diễn trò,. Những vai này ñều 
là vai chính, lại không có ai có thể thay thế hay 
ñứng ngang hàng với ñào nương. Không như 
những loại hình dân nhạc khác, các vai diễn kể cả 
vai chính cũng có thể thêm vào hay bỏ bớt thế 
nào cũng ñược. ðờn ca tài tử không có ca nương 
thì tay ñàn vẫn tạo ñược một buổi nhạc, ñám ñông 
có thể tham gia cuộc hát như hát với nhau, thi 
nhau hátChèo mà thiếu cô ñào hay anh hề, múa 
rối nước mà thiếu mất nhân vật chú tiễu cũng 
29
 Theo tập quán dân gian thì ñi hát ca trù là sinh hoạt của bậc 
phong lưu công tử như con của các quan phủ, huyện mà tục lệ 
xưa thường gọi là quan viên tử ñược ñặc ân miễn tạp dịch 
trong làng. 
30
 Nguồn: ðặc khảo ca trù Việt Nam, Nhiều tác giả, NXB 
Viện Âm nhạc H., (2006), tr. 531 
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 
Trang 98 
không ảnh hưởng gì. Nhưng với ca trù thì không, 
ñây là một nghệ thuật ñã ñược công thức hóa 
thàn ... rong 
sinh hoạt văn hóa của giai cấp quý tộc phong 
kiến, góp phần tạo nên văn hóa ả ñào- văn hóa kỹ 
nữ. 
3.1. Ca nương với vai trò là nhân vật văn hóa 
của giai cấp thống trị 
Trong cung ñình, ả ñào ñóng vai trò cung nữ 
phục vụ giải trí ca, nhạc, vũ. ðặc ñiểm của âm 
nhạc cung ñình là “thích cả nhạc hát lẫn nhạc ñàn, 
chuộng âm sắc trang nhã, sự tinh tế của hệ thống 
ñàn dây gảy37”, là sự tiếp biến mô phỏng hệ thống 
nhã nhạc Trung Hoa, trang phục của con hát sang 
trọng gấm vóc sặc sỡ, ñèn lồng kết hoa công phu, 
ñắt tiền “biểu diễn trên thuyền rồng, trong ñêm 
thanh vắng nghe như khúc nhạc của quần tiên tụ 
hội”38. Bức chạm tiên nữ cưỡi hươu gảy ñàn ñáy 
là một biểu tượng cho hình ảnh ñào ngự. Những 
yếu tố ñó làm nên phong cách ả ñào: tính ñài các, 
phong lưu vương giả, trong một hình thức giải trí 
cao cấp. 
Hệ quả của nó: Ả ñào ñược chọn ñể tiếp sứ, giữ 
vai trò truyền tải thông ñiệp ngoại giao văn hóa. 
Trong văn bia Bản huyện giáo phường lập ñoan 
bi ký còn ghi: “Năm Long ðức thứ 3 (1734), giáo 
phường An Thanh huyện Lập Thạch ñã ñược mời 
về kinh ñể hát xướng ñón sứ bộ các nước” 
[Nguyễn Xuân Diện 2007b: 80]. Trong những 
thời khắc của lịch sử, ả ñào còn ñược xem như 
một quân cờ cạnh tranh chính trị trên lĩnh vực văn 
hóa tư tưởng: “Khi ðào Duy Từ thổi vào môn hát 
tuồng một nguồn sinh lực mới tại phủ ðồng Sơn 
(Bình ðịnh) thì ngoài Bắc ñang lúc thịnh thời của 
các chúa Trịnh- muốn thưởng thức một thứ nhạc 
bác học ñi song song với tửu sắc, thi ca. Chúa 
chọn hát cô ñào ñể gây ra một nghệ thuật khả 
37
 Trúc sinh (ñàn khô), ñàn cầm, ñàn 7 dây, ñàn 9 dây, ñàn 
tranh. Cường ñộ dàn nhạc họ dây luôn vừa tầm, không lấn át 
tiếng hát [Bùi Trọng Hiền, in trong Hồ sơ ứng cử quốc gia: 
70], 
38
 Trích Tang thương ngẫu lục [dẫn theo Dương ðình Minh 
Sơn 2009: 93-94]. 
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 
Trang 102 
dĩ thay thế ñược cả tuồng, lại cả chèo” [Tchya 
1959: 46]. 
3.2. Ca nương với vai trò nghệ nhân phục vụ 
thú tiêu khiển của tầng lớp trên 
Sùng bái văn hóa ca vũ cung ñình, nhiều quan 
ñại thần, trong nhà, cũng thường nuôi riêng một 
nhóm ả ñào ñể tiện bề hưởng thú phong lưu, như: 
Nguyễn Hữu Chỉnh nuôi hơn mười ả ñào ñể tiếp 
ñãi tân khách, ông còn ñặt ra những bài hát mới 
cho ả ñào múa hát, hào hoa phong nhã thứ nhất ở 
kinh kỳ [Hoàng Lê nhất thống chí, dẫn theo 
Nguyễn Nghĩa Nguyên 2011: 85]. “Nguyễn Khản 
thích hát xướng, gặp khi con hát có tang trở cũng 
cứ cho tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ, 
tiếng nhạc” [Phạm ðình Hổ 1989: 42-47]. Xét 
mối quan hệ giữa nghệ thuật và chính trị, có thể 
xem vai trò ả ñào trong dinh quan (tư gia) là vai 
trò quan kỹ (hay tư kỹ), tức là kỹ nữ phục vụ giải 
trí cho quan lại, quý tộc ñịa phương. Song, vai trò 
ả ñào có phần thiên về nghệ thuật nhiều hơn là 
hầu hạ, không giống như các kiseang kwanggi 
(quan kỹ) của Hàn Quốc, ngoài vai trò nghệ thuật, 
các kisaeng còn ñảm ñương nhiều vai trò rất xa lạ 
với văn hóa ả ñào, như vai trò y nữ khám chữa 
bệnh cho con gái nhà quý tộc- yakbang kisaeng 
(dược phòng kỹ), vai trò thợ may, may vá trang 
phục cho giới quý tộc- sangbang kisaeng (thường 
phòng kỹ sinh) Nguyên do lịch sử kisaeng 
ñược viết nên từ cuộc ñời của các hwarang- con 
nhà gia thế bị bắt làm tù nhân, hay tầng lớp lang 
thang bị bắt làm nô lệ, trong khi giới ả ñào xuất 
thân từ giáo phường ở nông thôn, không có sự 
phân biệt rõ nét về chức năng hay cấp bậc. 
Khoảng từ cuối thế kỷ XIX, ñào nương ñã tích 
lũy ñược vốn liếng, kinh nghiệm, tự thân thoát ly 
khỏi giáo phường, ra thành thị mở ca quán. Ca 
quán là một không gian tự do, trong ñó ả ñào giữ 
vai trò người nghệ sỹ ñồng thời là người chủ kinh 
doanh nghề hát. Cái tên cô ñầu ñã nói lên tầm 
quan trọng của vai trò này. Ca quán không dành 
riêng cho giới quý tộc và quan lại, mà ñó là nơi 
các văn nhân tài tử (giới trí thức) thường lui tới, 
những người chấp nhận chi trả một khoản tiền 
không nhỏ ñể ñổi lấy thú vui tao nhã từ sự xa xỉ, 
cầu kỳ của nghệ thuật và cái ái tình lãng mạn của 
cô ñầu. Xưa kia, người hát ñến nhà người nghe (ả 
ñào ñến hát ở tư gia), giờ ñây người nghe ñến nhà 
người hát (ca quán). Cái mối quan hệ “riêng một 
thú thanh sơn ñi lại39” này ñã làm nên nhiều áng 
thơ tuyệt tác trong văn Nôm ta, gắn liền với 
những bậc tài danh như: Nguyễn Công Trứ 
(1778-1858), Dương Khuê (1839-1902), Trần Tế 
Xương (1870-1907) 
3.3. Ca nương với vai trò là ñối tượng khơi 
nguồn sáng tạo và thưởng thức thơ 
Trong giai ñoạn sơ khởi, ca trù là những bài hát 
giản dị gần với phương ngôn và ca dao40, nhưng 
một khi ñã có tài hoa của các văn nhân can thiệp, 
ca trù trở thành một sinh hoạt nghệ thuật sáng tác 
và thưởng thức thơ. Thế kỷ XIX ghi dấu sự hoàn 
thiện của thể cách hát nói cả về âm nhạc, văn 
chương và việc thưởng ngoạn [Nguyễn Xuân 
Diện 2007: 83]. Ca trù ñược ñơn giản hóa nhạc 
khí và người biểu diễn ñể tiện cho việc diễn 
xướng thơ trong không gian thính phòng, người 
nghe hát như là “một thứ khách thính văn học 
(salon littéraire) của xã hội Tây phương” [Vũ 
Bằng 1971: 14]. Lúc này, thanh sắc ả ñào ñóng 
vai trò phục vụ nhu cầu khoái cảm “ñược nghe 
thơ mình qua giọng giai nhân”- một khoái cảm 
tổng hợp của nhiều khoái cảm. Khoái cảm làm 
ñược một bài thơ rồi tự cầm chầu thưởng thức nó 
giữa chốn ñông người ñều là những tài tử giai 
nhân, khác loại công chúng bình thường. Khoái 
cảm ñược cộng hưởng niềm vui, cùng chia sẻ 
những giá trị văn hóa “vừa tư tưởng, vừa âm luật 
hỗn hợp với nhau, vừa văn chương vừa mỹ thuật 
cùng nhau ñiều hòa, vừa tài tử, vừa giai nhân 
cùng nhau gặp gỡ, cùng nhau sánh cạnh mà chia 
39
 Trích câu thơ của Dương Khuê trong bài Gặp ñào Hồng, 
ñào Tuyết. 
40
 Những bài hát cổ hiện còn lưu truyền ñều mang nặng sắc 
thái này [ðỗ Bằng ðoàn 1960: “Quá trình tiến hóa của ca trù 
và ảnh hưởng của ca trù ñối với văn hóa dân tộc”, TC.Bách 
khoa, số 132, tr.28]. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 
Trang 103 
vui” [Nguyễn Văn Ngọc, dẫn theo Nguyễn ðức 
Mậu 2010: 53]. ðể ñảm ñương vai trò ấy, ả ñào 
phải có kỹ năng tổng hợp, ngoài kỹ năng nghề ca 
xướng, ả ñào còn phải học chữ ñể có thể ñọc và 
hiểu thơ, ñể hát cho ñúng ý tứ của tác giả. “Xem 
như kỹ nữ các nước, trong nghề hương phấn ca 
ngâm ñều có mùi pha văn học cả, vì nước nào 
cũng có một thứ chữ, một thứ sách vở riêng của 
nước ấy, càng làm kỹ nữ càng phải giao thiệp 
nhiều, càng phải dò dẫm xem lấy những chuyện 
khóc cười, chuyện xa gần, ñể làm cái tài liệu tiếp 
khách” [Nguyễn ðôn Phục 1923]. Theo Nguyễn 
Xuân Diện, việc trí thức hóa nghề ả ñào là một 
biệt lệ chưa từng có ở những người phụ nữ bình 
dân. Chính cái tri thức ñã làm nên nét văn hóa ả 
ñào: sang trọng, ñài các, phong lưu, khu biệt với 
các kỹ nữ tầm thường khác 
Vai trò “nàng thơ” của ả ñào cũng tựa như ca 
nương của ca Huế, “câu ca xứ Huế, cô ñầu tỉnh 
Thanh”. Cùng chung một nguồn gốc nhã nhạc 
cung ñình, nghệ thuật trong dinh phủ của các 
chúa Nguyễn ở ðàng Trong phát tán thành một 
lối gọi là ca Huế (gồm cả ca và ñàn) hay là “lối 
hát ả ñào của người Huế”. Ca Huế tương ñồng 
với ca trù về lối chơi văn chương, tri âm tri kỷ, sự 
trau chuốt của giọng hát, ngón ñàn và không gian 
thính phòng, một lối chơi của các ông hoàng bà 
chúa. Như ả ñào, ca nương của ca Huế cũng giữ 
một vai không thể thay thế. Nhưng, ca nương của 
ca Huế gắn liền với văn hóa cố ñô Huế nên mang 
bản sắc ñịa phương rõ nét hơn ả ñào. Hình thức 
“mượn tiếng mỹ nhân ñể thưởng ngoạn nghệ 
thuật” của hát ả ñào còn dễ khiến người ta liên 
tưởng geisha Nhật Bản hay kisaeng Hàn Quốc 
như “ả ñào Nhật Bản, ả ñào Hàn quốc”. Tương tự 
ca quán, nhà geisha hay tửu quán, trà ñộng của 
kisaeng, ñều là không gian phòng, không có 
những tiết mục sôi ñộng như ca vũ tạp kỹ, chỉ 
thuần túy là không gian trò chuyện, luận ñàm văn 
chương, ... Vì thế, nhạc cụ cũng khá tinh giản, ả 
ñào chỉ dùng ñôi phách tre; geisha ngoài cây ñàn 
shanmisen còn dùng sáo trúc và mấy chiếc trống, 
trống nhỏ tsutsumi vác lên vai, trống nhỡ ôkawa 
kê trên ñùi, còn trống lớn taikô ñặt cạnh người 
diễn; kisaeng dùng ñàn gayageum (12 dây) và 
ñàn geomungo (6 dây). 
Trong vai trò khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, ả 
ñào góp phần làm phong phú các ñiệu hát ca trù 
bằng cách bắt chước ñiệu hát Huế, ñiệu hát xẩm, 
ñiệu hát phường chèo, làm thêm “gia vị” cho 
cuộc hát. Công lao tiếp biến của ả ñào ñã quyết 
ñịnh tên gọi cho ñiệu hát, như một số ñiệu nếu 
kép hát thì gọi là hà nam, là hát trai, còn ñào hát 
thì gọi là hát nói, hát gái. Tương tự, các kisaeng 
Hàn Quốc cũng có công thiết lập trường phái 
nghệ thuật bản ñịa như thơ sijo (thơ thời ñiệu), 
nghệ thuật hội họa (kisaeng Juk Hyang- thế kỷ 
XIX), nghệ thuật múa kiếm (kisaeng Unsim- thế 
kỷ XVIII), thậm chí các kisaeng còn tham gia viết 
lời và diễn xuất những vở pansori (truyện kể ñại 
chúng); các geisha Nhật Bản ñã có công phát 
triển nghệ thuật kịch kabuki, họ còn viết hồi ký, 
nhờ ñó mà người phương Tây mới biết về thân 
phận làm geisha Hiểu ñược ñiều này, chúng ta 
mới thấm thía câu nói: “Hàng trăm tiên sinh ñạo 
học khuyên ñời, không bằng sức một con hát41”. 
Ngoài ra, vai trò của nhan sắc ả ñào cũng ñóng 
góp không nhỏ trong việc tạo nên sức hấp dẫn của 
nghệ thuật ca trù trong hát chơi. Giới quý tộc, trí 
thức thích ñi hát và có cảm tình gắn bó với nghệ 
thuật là vì cái ñẹp của ả ñào. “ðào nương thuở ấy 
hễ tóc ñen mườn mượt, tóc dài thậm thượt thì 
ñược người yêu. Thường thì ñào nương hát về 
ñêm, người nghe vì thế phải trằn trọc suốt canh 
thâu” [dẫn theo Trần Văn Khê 1960: 71]. Sắc 
ñẹp của ñào nương là một mảng ñề tài lớn trong 
các sáng tác của văn nhân, như các bài: Tặng cô 
ñầu Văn của Dương Tự Nhu; Tiểu ca cơ của 
Phạm ðình Hổ; Long thành cầm giả ca của 
Nguyễn Du; thậm chí bài Bỡn cô ñào già của 
Nguyễn Công Trứ còn ñem cái duyên của ả ñào 
41
 Nhận ñịnh của Trần Hồng Thụ, danh sỹ ñời Minh [ðàm 
Phàm 2004: 6] 
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 
Trang 104 
ra ñể ñùa cợt tình tứ cho thấy sự cảm tình ñặc 
biệt và sự ñề cao vai trò của nhan sắc ả ñào. 
Kết luận 
Từ những nội dung trình bày, chúng tôi rút ra 
một số kết luận sau: 
1. Hai trào lưu nghệ thuật trên ñều có sự ñóng 
góp thiết yếu của thanh sắc ả ñào. Trong lịch sử, 
với vai trò nghệ nhân (con hát) và vai trò người 
phục vụ (kỹ nữ). Văn hóa ả ñào luôn thích nghi 
với những biến ñổi của phong khí thời ñại. Thời 
ñại chuộng nhạc thì họ ñàn ca, hát xướng, thời ñại 
chuộng thơ thì họ có thể làm bạn thơ với văn 
nhân, thời ñại chuộng sắc thì họ hóa thân như kỹ 
nữ, “làng chơi làm sao thì nhà nghề làm vậy”. 
2. Qua vai trò ả ñào, nghệ thuật ca trù tồn tại 
song hành hai ñặc tính vừa bác học vừa dân gian. 
Ngay trong thời ñại tính bác học trông có vẻ “lấn 
át tính dân gian” (từ sau thế kỷ XIX), hát cửa 
ñình vẫn là một hoạt ñộng văn hóa tồn tại và bám 
rễ lâu bền trong ñời sống nhân dân ở các làng xã 
cho ñến những năm ñầu thế kỷ XX. 
3. ðể khôi phục những tinh hoa của ca trù, ta 
cần phải khu biệt ñào nương ngày nay với ả ñào 
ngày xưa. Vai trò ñào nương ngày nay chỉ là vai 
trò của cô ca sỹ hát lại các bài hát xưa, hoặc hát 
những bài mới do những khán giả yêu ca trù sáng 
tác, nhưng, không tạo ra ñược không gian trữ tình 
của “tài tử giai nhân cùng nhau hội ngộ, cùng 
nhau sánh cạnh chia vui”. Các ca nương trong các 
câu lạc bộ ca trù hiện nay chỉ ñóng một vai rất 
hạn chế của ca trù hát chơi trong ca quán ngày 
trước, chưa nói ñến vai trò phục vụ tín ngưỡng 
hay các sự kiện văn hóa lễ hội mà xưa kia các ñào 
nương ñã ñảm nhiệm. 
4. Mặt khác, ñể nghệ thuật ca trù tồn tại ñược 
trong ñời sống ñương ñại thì vai trò ñào nương 
ngày nay cần phải ñược ñại chúng hóa, ñào 
nương không thể chỉ ñóng một vai “nghệ nhân 
giữ gìn vốn cổ”, mà còn phải ñảm ñương nhiều 
vai như một ngôi sao, một nghệ sỹ thực thụ trên 
các phương tiện truyền thông, ñiện ảnh, ðồng 
thời, các nhà ñạo diễn và các nhà thiết kế chương 
trình nên khuyến khích những ngôi sao hóa thân 
vào vai ả ñào hiện ñại, như trường hợp Madona 
hóa thân làm geisha chẳng hạn. 
The Role of Female Vocalists in Catrù Art 
• Nguyen Hoang Anh Tuan 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
This paper highlights the importance of the 
role of female vocalists (ñào nương) 
associated with the historical origins of Catru 
art, and their influence on the trend to enjoy 
this kind of art. Through female vocalists’ 
role, existence and evolution rules of Catru 
are thoroughly understood. From popular 
trend, Catru exists in the form of communal 
house theater in the village (hát cửa ñình), 
banquet theater (hát khao vọng), etc. going 
hand-in-hand with madarin home theater (hát 
nhà tơ), bar (ca quán), and determining the 
orientation to preserve and promote Catru 
art. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 
Trang 105 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Will DURANT 2004: Lịch sử văn minh Ấn 
ðộ (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT, 
Cty VH Phương Nam phát hành, TpHCM, 
556tr. 
[2]. Will DURANT 2006: Nguồn gốc văn minh 
(Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT, 
TpHCM, 204tr. 
[3]. Dương Quảng Hàm 1968: Việt Nam văn 
học sử yếu, BGD-Trung tâm học liệu xuất 
bản, SG., 496tr. 
[4]. ðàm Phàm 2004: Lịch sử con hát (Cao Tự 
Thanh dịch), Nxb Tổng hợp Tp.HCM, 324 
tr. 
[5]. ðỗ Bằng ðoàn- ðỗ Trọng Huề 1994: Việt 
Nam ca trù biên khảo, Nxb Tp.HCM, 678 
tr. 
[6]. Hát cửa ñình Lỗ Khê 1980, (Nhiều tác giả), 
Sở VHTT Hội Văn nghệ H. xb. 
[7]. Hồ sơ ứng cử quốc gia 2006 (phần Phụ 
lục): Hát ca trù người Việt, 7/2006 ñệ trình 
UNESCO xét duyệt di sản phi vật thể 
truyền khẩu nhân loại, Bộ Văn hóa thông 
tin, H., 216 tr. 
[8]. Lê Văn Hảo 1963: “Vài nét về sinh hoạt của 
hát ả ñào trong truyền thống văn hóa Việt 
Nam”, TC ðại học số 29, tr. 718 – 750 
[9]. Nguyễn ðôn Phục 1923: “Khảo luận về 
cuộc hát ả ñào”, Nam phong tạp chí, số 
70/1923, tr.277-289 
[10]. Nguyễn ðức Mậu 2003 (gt&bs): Ca trù 
nhìn từ nhiều phía, Nxb VHTT, H., 620tr. 
[11]. Nguyễn ðức Mậu 2010: Ca trù Hà Nội 
trong lịch sử và hiện tại, Nxb H., 700tr. 
(khổ A4) 
[12]. Nguyễn Xuân Diện: “ði tìm vẻ ñẹp của 
nghệ thuật ca trù”, 
[13]. Nguyễn Xuân Diện 2007: Lịch sử và nghệ 
thuật ca trù, khảo sát nguồn tư liệu tại 
Viện nghiên cứu Hán – Nôm [chuyên khảo 
trên cơ sở luận án Tiến sỹ Ngữ văn Hán 
Nôm], Nxb Thế Giới H. 
[14]. Phạm ðình Hổ 1989: Vũ trung tùy bút, 
(bản dịch của ðông Châu Nguyễn Hữu 
Tiến, Nguyễn Quảng Tuân khảo ñính và 
chú thích), Nxb Trẻ, Hội NCGDVH 
TP.HCM, tr. 42, 43, 46 & 47 
[15]. Phan Kế Bính 1972: Việt Nam phong tục, 
[“Bộ quốc sử - Contribution à l’histoire 
d’Annam”, trích ðông Dương tạp chí số 
24- 49, 1913- 1914], Phong trào văn hóa 
xb, SG., 366 tr. 
[16]. Tchya 1959: “Ca kịch Việt Nam”, Phổ 
thông Tạp chí văn hóa (chủ bút Nguyễn 
Vỹ) số 25, tr.46- 50 [Cơ sở biên mục dựa 
vào số 1(15/11/1958)] 
[17]. Trần Văn Khê 1960: “Hát ả ñào”, TC. 
Bách khoa số 81, 82, & 83 
[18]. Trần Văn Khê 2000: Trần Văn Khê và âm 
nhạc dân tộc, Nxb Trẻ, Tp. HCM. 
[19]. Vũ Bằng 1971: “Hát ả ñào- lịch sử ra sao? 
Ông tổ là người nào? Mà ả ñào, cô ñầu và 
nhà tơ có khác nhau không?”, TC. Văn 
học, số 138, tr.3- 5 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_ca_nuong_trong_nghe_thuat_ca_tru.pdf