Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù
Cho ñến nay, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều
công trình nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca
trù, nhưng chưa có công trình nào ñặt vấn ñề trực
tiếp nghiên cứu vai trò của nghệ nhân- ca nương
(ả ñào). Lần ñầu tiên, trên tạp chí Nam Phong bài
“Văn chương trong lối hát ả ñào” (tháng 3- 1923)
của Phạm Quỳnh và bài “Khảo luận về cuộc hát ả
ñào” (4-1923) của Nguyễn ðôn Phục, có nêu cao
vai trò kỷ cương, phẩm hạnh của ả ñào trong giai
ñoạn suy thoái. Bài viết “Vài nét về sinh hoạt của
hát ả ñào trong truyền thống văn hóa Việt Nam”
của Lê Văn Hảo (tạp chí ðại học 1963) nêu khái
quát ñịa vị và vai trò ả ñào trong lịch sử xã hội
Việt Nam (từ thế kỷ XV ñến ñầu thế kỷ XX). “Sỹ
phu, văn học sử và cô ñầu” của Tam Ích và
“Những ả ñào lưu danh trong quốc sử” của
Lương Mỵ Châu, cùng ñăng trên tạp chí Văn học
(1971) là hai chuyên khảo góp thêm tư liệu về ả
ñào, ñại khái nói ñến vai trò quan trọng của ñào
nương trong lịch sử và văn học. Bài “Văn nhân và
ả ñào” của Nguyễn Xuân Diện (ñăng trên nhiều
tạp chí) nhắc lại vai trò ả ñào trong việc nuôi
dưỡng tài thơ của các văn nhân về tinh thần lẫn
vật chất và lịch sử ñã ghi nhận mỗi một tài danh
trong làng văn học trung cận ñại ñều có ít nhất
một mối tình thắm thiết với cô ñào
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù
Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 Trang 94 Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù • Nguyễn Hoàng Anh Tuấn Trường ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ðHQG-HCM TÓM TT: Bài viết nêu bật tầm quan trọng của vai trò nguời ca nương (ñào nương) gắn liền với nguồn gốc lịch sử nghệ thuật ca trù, và ảnh hưởng ñến trào lưu thưởng thức nghệ thuật này. Qua vai trò ñào nương, ta hiểu ñược quy luật tồn tại và tiến hóa của nghệ thuật ca trù, từ trào lưu ñại chúng, ca trù tồn tại trong hát cửa ñình, hát khao vọng song song với trào lưu hát nhà tơ, ca quán; và xác ñịnh ñược phương hướng giữ gìn, phát huy nghệ thuật ca trù. T khóa: ñào nương (ả ñào), ca trù. Dẫn nhập Cho ñến nay, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử và nghệ thuật ca trù, nhưng chưa có công trình nào ñặt vấn ñề trực tiếp nghiên cứu vai trò của nghệ nhân- ca nương (ả ñào). Lần ñầu tiên, trên tạp chí Nam Phong bài “Văn chương trong lối hát ả ñào” (tháng 3- 1923) của Phạm Quỳnh và bài “Khảo luận về cuộc hát ả ñào” (4-1923) của Nguyễn ðôn Phục, có nêu cao vai trò kỷ cương, phẩm hạnh của ả ñào trong giai ñoạn suy thoái. Bài viết “Vài nét về sinh hoạt của hát ả ñào trong truyền thống văn hóa Việt Nam” của Lê Văn Hảo (tạp chí ðại học 1963) nêu khái quát ñịa vị và vai trò ả ñào trong lịch sử xã hội Việt Nam (từ thế kỷ XV ñến ñầu thế kỷ XX). “Sỹ phu, văn học sử và cô ñầu” của Tam Ích và “Những ả ñào lưu danh trong quốc sử” của Lương Mỵ Châu, cùng ñăng trên tạp chí Văn học (1971) là hai chuyên khảo góp thêm tư liệu về ả ñào, ñại khái nói ñến vai trò quan trọng của ñào nương trong lịch sử và văn học. Bài “Văn nhân và ả ñào” của Nguyễn Xuân Diện (ñăng trên nhiều tạp chí) nhắc lại vai trò ả ñào trong việc nuôi dưỡng tài thơ của các văn nhân về tinh thần lẫn vật chất và lịch sử ñã ghi nhận mỗi một tài danh trong làng văn học trung cận ñại ñều có ít nhất một mối tình thắm thiết với cô ñào Nhìn chung, giới nghiên cứu ñã cung cấp những tư liệu quý giá ñể có một cái nhìn ña chiều về vai trò ả ñào. Kế thừa những tư liệu ñã có, chúng tôi mong muốn ñóng góp một hướng tiếp cận mới ñể có cái nhìn toàn diện hơn vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù: hướng tiếp cận lịch ñại phối hợp với ñồng ñại từ cái nhìn văn hóa học. Phương pháp liên ngành, phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp hệ thống cấu trúc, xem ca trù như một hệ thống văn hóa, trong ñó, ả ñào là một thành tố, cùng với phương pháp so sánh ñể làm rõ mối tương quan giữa ả ñào với con hát của các loại hình nghệ thuật trong và ngoài nước. Trong bài viết, chúng tôi ñã sử dụng những thuật ngữ hiện ñại như “trào lưu” và “ñại chúng” với ý nghĩa chỉ một xu thế nhất thời của một số ñông ra ñời và mất ñi trong một ñiều kiện thời gian, không gian nhất ñịnh, nhằm làm rõ quan niệm: quy luật chung của nghệ thuật nhân loại là theo hai dòng phát triển: văn hóa dân gian TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 Trang 95 và nghệ thuật chuyên nghiệp20, thì ca trù cũng không ngoại lệ; và vai trò ca nương xưa nay vẫn biến thiên theo hai xu hướng như thế. 1. Tên gọi “ñào nương” và vai trò gắn liền với nghệ thuật ca trù 1.1. Sự xuất hiện tên gọi “ñào nương” hay “ả ñào” có thể xem là cột móc ñể truy tìm lịch sử nguồn gốc của nghệ thuật ca trù. Trong nhiều dị bản của truyền thuyết tổ nghề ca trù, các giáo phường xưa vẫn thờ Mãn ðào Hoa công chúa- con gái Bạch ðinh21 Xà ðại Vương, bà là một ca nương có tư chất thông minh, có giọng hát hay và tinh thông âm luật, ñã ñặt ra lối hát ả ñào ñể dạy ñời [Doãn Kế Thiện sưu tầm (1943), dẫn theo Vũ Bằng 1971: 4]. Theo ðỗ Bằng ðoàn [1994: 36- 41] thì ñời nhà Lê, ðinh Lễ quê làng Cổ ðạm, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) ñược Lý Thiết Quải và Lã ðồng Tân cho một khúc gỗ dạy làm cây ñàn. Nhờ ñàn, ðinh Lễ ñã chữa bệnh và cưới ñược Hoa nương- con quan châu Thường Xuân (Thanh Hóa). Lịch triều phong tặng ðinh Lễ là Thanh Xà ðại vương và Hoa nương là Mãn ðào Hoa công chúa. Cũng theo thuyết ấy, Nguyễn ðôn Phục [1923: 277] ñã thừa nhận “hát ả ñào phôi thai phát triển sớm lắm. Duy âm ñiệu thì tản mát ở dân gian, hoặc mỗi người chế ra mỗi khúc, hoặc mỗi xứ hát ra mỗi giọng, khi xưa chưa có thống nhất. Bà Mãn ðào Hoa công chúa là một thiên tài âm nhạc, tự mình chế ra khúc hát ở các nơi, ñem tu bổ san thuật lại ñể dạy ñời”. Duy Việt trong truyện ðất tổ và Phú Sơn trên tạp chí Trung Bắc chủ nhật (1943) cũng ñồng quan ñiểm cho rằng: “lối hát ả ñào ñã lâu ñời rồi, dù không rõ niên ñại, nhưng chắc cũng chẳng sau lối hát 20 “Văn hóa dân gian duy trì tính hỗn ñồng hai bình diện: sáng tạo và những hoạt ñộng khác của con người, trong lúc ñó, nghệ thuật chuyên nghiệp (sản xuất nghệ thuật) thì tách biệt và ñi ñến khu biệt hóa thành các phương thức khác nhau: loại, thể” [M.Cagan 2004: Hình thái học nghệ thuật, Phan Ngọc dịch, NXB Hội nhà văn, H., tr.273]. 21 Các nhà nghiên cứu cho biết các nơi có ả ñào thì thường liên quan ñến họ ðinh, nhưng chưa có lời giải ñáp [Vũ Ngọc Khánh 1997: 16-24]. tuồng, chèo vốn là những lối hát phát sinh từ ñời Trần sơ” [dẫn theo Vũ Bằng 1971: 8]. Dựa theo truyền thuyết, ðại Việt sử ký toàn thư cũng ghi nhận về năm 1025 và Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ ñều cho rằng thời Lý Thái Tổ, trong ban Nữ nhạc có người ca nhi tên ðào Thị giỏi nghề hát, thường ñược vua ban thưởng, người ñời hâm mộ nên gọi các con hát là ñào nương (ả ñào). Công dư tiệp ký (1775) của Vũ Phương ðề, Lịch triều hiến chương loại chí (1819) của Phan Huy Chú, ðại Nam nhất thống chí - tỉnh Hưng Yên (1882) của Quốc sử quán triều Nguyễn thì dựa trên sự tích vào thời ñiểm muộn hơn, cuối nhà Hồ (1400), một ca nhi họ ðào có công giết giặc ñược dân làng lập ñền thờ, từ ñó ca nhi ñược gọi là ả ñào [dẫn theo Nguyễn ðức Mậu 2010: 13]. Vì thông tin trên chỉ cho biết giai ñoạn thế kỷ XI, nghề xướng ca chuyên nghiệp với nghệ nhân phụ nữ ñược gọi là “ả ñào” chứ không nói hát ả ñào là nghệ thuật gì nên giới nghiên cứu văn học sử quan niệm rằng ñào nương cũng như cô ñào, ñào hát chỉ là tên gọi chung cho nữ diễn viên của các loại hình nghệ thuật truyền thống lẫn hiện ñại và ca trù ra ñời rất muộn từ thế kỷ XVIII trở ñi, vì phải rất lâu sau khi các loại hình nghệ thuật dân gian (thơ ca, hò vè, hát chèo, quan họ, ) ñã hình thành và các thể thơ lục bát, song thất lục bát lần ñầu tiên ra ñời trong lịch sử văn học, và cần phải có một tầng lớp nhà nho tham gia sáng tác và thưởng thức nó. Thứ nhất, họ nhầm lẫn “ả ñào, ñào nương” vốn là tên gọi ñặc trưng riêng của nghệ thuật ca trù với “cô ñào, ñào hát” của những loại hình nghệ thuật khác, mà ñó chẳng qua cũng là cách chuyển dịch ngữ nghĩa từ khái niệm ả ñào của ca trù ñể gọi chung cho các nữ diễn viên sân khấu, ñiện ảnh. Thứ hai là nhầm lẫn hát nói với ca trù, chỉ vì “hát nói thông dụng nhất, có văn chương lý thú nhất” [Dương Quảng Hàm 1968: 154] nên vội kết luận ca trù ra ñời rất muộn cùng với lịch sử hát nói (sản phẩm của các nhà nho ñầu thế kỷ XVIII trở ñi). Thực tế, ngoài hát nói, ca trù Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 Trang 96 còn có nhiều ñiệu hát khác22, trong ñó khúc Non mai, Hồng hạnh chỉ ñược hát trong Lễ tế tổ (bà Mãn ðào Hoa) có lẽ là lối hát lâu ñời nhất ñể minh chứng cho bề dày của lịch sử ca trù. Một số khác có căn cứ xác thực và toàn diện hơn, trong Việt sử thông giám cương mục và Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn ðổng Chi cho rằng: Từ ñời Lý, nghệ thuật múa hát ñã thịnh, các ả ñào ñã có ñiệu hát riêng ñều dùng lối lục bát biến hóa ra. ðời Trần lối hát ả ñào dùng trong giáo phường bây giờ ñã nhiều và nhờ ñược lối văn hát tuồng pha Tàu và ta, lại thêm có thơ phú quốc âm xuất hiện nên hát ả ñào dần dần sinh ra lắm lối [dẫn theo Lê Văn Hảo 1963: 721-722]. Thời Lê sơ (thế kỷ XV), nghệ thuật âm nhạc có một bước phát triển ñột phá nhờ Âm luật Hồng ðức của Lê Thánh Tông (1460-1497), nhờ Nho học cực thịnh, vài nho sỹ ñã tham gia sáng tác bài hát cho ả ñào. Gia phả tiến sỹ Lê ðức Mao (1462- 1529) ñã ghi lại bài thơ Nôm ðại Nghị bát giáp thưởng ñào giải văn (soạn trước năm 1500) mà sau này Nguyễn Xuân Diện [2007: 72] ñã dịch và chú thích ñó là tư liệu sớm nhất ñược biết có hai chữ “ca trù”23. Qua tư liệu văn bia (có ghi chữ ca trù” từ thế kỷ XV và hình ảnh cây ñàn ñáy trên ñiêu khắc ñình làng từ trước thế kỷ XVI), Nguyễn Xuân Diện kết luận: Ở thế kỷ thứ XV, ca trù ñã là một bộ môn khá hoàn chỉnh. ðến thế kỷ XVII- XVIII, tổ chức giáo phường ñã hoàn bị, quản lý và mua bán quyền hát cửa ñình [2007: 78]. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu này vẫn chưa kết luận gì về thời ñiểm lịch sử tên gọi “ả ñào” và ñiều kiện lịch sử sản sinh ra nó. Quá trình ñiền dã của nhóm nghiên cứu Viện Âm nhạc Việt Nam (2006) ñã tìm ra ở Bắc Ninh có 10 ñình làng cùng thờ một ông tướng phò giúp Hai Bà Trưng (thế kỷ I tr.CN) tên là Doãn Công, có vợ là ñào nương (ả ñào) [Hồ sơ ứng cử quốc gia]. Phát hiện này ñồng 22 Trong Việt Nam ca trù biên khảo, ðỗ Bằng ðoàn ñã thống kê 46 ñiệu hát (hay còn gọi là cách hát, lối hát hay thể hát) và có ngôn bản của các ñiệu ñể minh ñịnh. 23 Trong bài thơ này, chữ “ca trù” xuất hiện hai lần: “Thọ bôi kể chục, ca trù ñiểm trăm; Mừng nay tiệc ca trù thị yến”. nhất khái niệm ả ñào với khái niệm “con hát” trong ðại Việt sử ký toàn thư và ðại Việt sử ký tiền biên24. Dương ðình Minh Sơn [2009: 31-36] cũng ñã công bố một phát hiện mới: ðó là nguồn gốc của chữ “ñào” là tên của một trong bốn ñứa bé25 của thầy trò gánh hát thờ trong các ñền miếu dân gian, sau này ñược Lý Thái Tổ ñưa vào làm lối hát thờ ở Thái Miếu mà thành lối hát của ban Nữ nhạc Cung ñình và nguồn gốc chữ trù là từ một lối hát trù yểm trong hát thờ26. Chữ “trù” theo nghĩa trù yểm có gốc gác sâu xa hơn giả thuyết “chữ trù là cái thẻ tre ghi chữ Nho, thưởng cho ả ñào, sau khi hát ả ñào ñổi lấy tiền” [ðào Duy Anh- Hán Việt từ ñiển, dẫn theo Nguyễn Nghĩa Nguyên 2011: 18]. Như vậy, các nhà nghiên cứu quan niệm nguồn gốc tên gọi ả ñào gắn liền với lịch sử ca trù trải dài suốt một ngàn năm Thăng Long, kể từ khi có lối hát thờ ở Thái Miếu, ả ñào (ñào nương) là tên gọi ñặc trưng ñể chỉ người hát ca trù. Việc lý giải và ñưa thêm cứ liệu xác thực ñòi hỏi nhiều thời gian và sự công phu hơn, tạm thời chúng ta chấp nhận cách giải thích trên. 1.2. Về sau, khoảng cuối thế kỷ XIX, nửa ñầu thế kỷ XX, ả ñào thường ñược gọi là cô ñầu. Từ "cô ñầu" thì có người cho là "cô ñào" bị nói trệch ñi, chữ “ả” là chữ Nho có nghĩa là “cô”, ả ñào có nghĩa là cô ñào [Vũ Bằng 1971: 11]. Một số người hiểu từ "cô ñầu" là một cái tên xấu vì lúc 24 ðại Việt sử ký toàn thư (1479) kỷ An Dương Vương (255 tr.CN) ghi về chuyện rùa vàng chỉ ra nguyên nhân thành ñắp không xong là do “trong núi có con quỷ, ñó là người con hát thời trước chết chôn ở ñấy hóa thành”. ðại Việt sử ký tiền biên, khắc in dưới thời Tây Sơn (1800) chép: “Theo ngoại sử, Trình hoàng hậu là con hát, quê ở làng Dương Thâm, quận Giao Chỉ. Nay ở ñấy có ñền thờ Triệu ðà và Trình hoàng hậu. Sau này con cháu Trình Thị ñổi ra họ Trần, vẫn giữ nghiệp ca công, nên có ñền thờ, hàng năm ñến ngày 11 tháng chạp thì giỗ tổ”[Hát cửa ñình Lỗ Khê]. 25 Cam. Quýt, Mận, ðào [khi còn nhỏ] tóc ñể chỏm, hát hầu thánh. ðến khi cô ðào lớn lên thì nghiễm nhiên gọi là “ðào Thị”, người bề trên gọi là con hát. 26 Hát thờ có nhiều công ñoạn khác nhau như: 1. Hát công tích của vị thần thờ trong miếu; 2. Hát cúng thổ thần, hát cúng cháo cho ma thập phương và hát cúng “trù yểm” trừ tà, ñuổi ma. Lối hát trừ tà, ñuổi ma này là công ñoạn thứ hai gọi là cúng tẩy uế, trước khi vào lễ cúng chính ở ngôi ñình làng [Dương ðình Minh Sơn 2009: 39]. TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 Trang 97 này có câu thành ngữ “Cô ñầu, cô ñít, cô ñuôi” [Nguyễn Nghĩa Nguyên 2011: 19]. Nhưng, thành kiến của dân gian ñôi khi không phản ánh ñúng sự thật lịch sử. Ả ñào có tên là “cô ñầu” khi vào thời ñiểm này, các ả ñào ñã tích lũy ñược vốn liếng, kinh nghiệm, ñủ sức thoát ly khỏi giáo phường, tự thân mở nhà hát (ca quán) ở thành thị ñể dạy hát và kinh doanh nghề hát. Nguyễn ðôn Phục [1923] và ðỗ Bằng ðoàn- ðỗ Trọng Huề [1994: 44] cho rằng chữ "ñầu" ám chỉ tiền ñầu mà theo tục lệ các học trò phải trích ra ñể phụng dưỡng người thầy dạy hát của mình. "Cô ñầu" lại cũng thường ñược dùng ñể chỉ những cô ca sỹ có nhiều học trò. Cô ñầu thoát thai từ ả ñào. “Tiếng cô thay tiếng ả cho rõ ràng, tiếng ñầu thay tiếng ñào ñể tỏ ý tán tụng bậc danh ca” [Vũ Bằng 1971: 3-5]. Vì thế, cái tên cô ñầu không có ở trong giáo phường và cũng không phải là người xứ Nghệ (Bắc Trung Bộ) ñặt ra, mà do “nhập cảng” từ Bắc Bộ vào [Nguyễn Nghĩa Nguyên 2011: 19]. 1.3. Căn cứ vào tên người ca nương, người ta còn gọi nghệ thuật ca trù bằng những tên sau: hát ả ñào, hát cô ñầu, ñào nương ca (nương nương ca)27, căn cứ vào bốn không gian diễn xướng của ñào nương: cung vua, ñình làng (ñền thần), dinh quan (tư gia) và ca quán và phương thức biểu diễn của họ, ca trù còn ñược gọi là hát hát nhà trò (hát cửa ñình), hát nhà tơ (hát nhà ty, hát cửa quyền), hát thẻ (trù); ở Thanh Hóa còn gọi là hát ca công, hát gõ, Từ những ñặc ñiểm vừa nêu, chúng tôi ñi ñến ñịnh nghĩa về ả ñào và ca trù: Ca trù là một thể loại hát thính phòng xuất xứ từ hát thờ (tín ngưỡng dân gian) ñược bác học hóa thành hát chơi (giải trí cho tầng lớp trí thức), trong ñó ả ñào giữ vai chính bên cạnh kép28 ñệm ñàn ñáy và 27 Hai khái niệm này có trong các thư tịch, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc ñã sử dụng ñể làm tiêu ñề cho tác phẩm của mình - ðào nương ca (1932). 28 Kép là một nam nghệ nhân giữ vai trò nhạc công gảy ñàn ñáy bên cạnh ả ñào. Cách gọi “ñào” và “kép” là thuật ngữ ñặc thù của cấu trúc văn hóa ca trù. quan viên29 cầm chầu thưởng thức. Ả ñào là chức danh của một nữ nghệ nhân hát ca trù, còn ñược gọi là ñào nương hay cô ñầu. Thiếu nữ vác ñàn ñáy, ñiêu khắc gỗ tại ñình ðại Phùng, huyện ðan Phượng (Hà Tây)30. 1.4. Và, một ñúc kết chung cho vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù: ðó là vai trò người nghệ nhân ña năng, một mình ñảm ñương nhiều vai như ca, múa, diễn trò,. Những vai này ñều là vai chính, lại không có ai có thể thay thế hay ñứng ngang hàng với ñào nương. Không như những loại hình dân nhạc khác, các vai diễn kể cả vai chính cũng có thể thêm vào hay bỏ bớt thế nào cũng ñược. ðờn ca tài tử không có ca nương thì tay ñàn vẫn tạo ñược một buổi nhạc, ñám ñông có thể tham gia cuộc hát như hát với nhau, thi nhau hátChèo mà thiếu cô ñào hay anh hề, múa rối nước mà thiếu mất nhân vật chú tiễu cũng 29 Theo tập quán dân gian thì ñi hát ca trù là sinh hoạt của bậc phong lưu công tử như con của các quan phủ, huyện mà tục lệ xưa thường gọi là quan viên tử ñược ñặc ân miễn tạp dịch trong làng. 30 Nguồn: ðặc khảo ca trù Việt Nam, Nhiều tác giả, NXB Viện Âm nhạc H., (2006), tr. 531 Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 Trang 98 không ảnh hưởng gì. Nhưng với ca trù thì không, ñây là một nghệ thuật ñã ñược công thức hóa thàn ... rong sinh hoạt văn hóa của giai cấp quý tộc phong kiến, góp phần tạo nên văn hóa ả ñào- văn hóa kỹ nữ. 3.1. Ca nương với vai trò là nhân vật văn hóa của giai cấp thống trị Trong cung ñình, ả ñào ñóng vai trò cung nữ phục vụ giải trí ca, nhạc, vũ. ðặc ñiểm của âm nhạc cung ñình là “thích cả nhạc hát lẫn nhạc ñàn, chuộng âm sắc trang nhã, sự tinh tế của hệ thống ñàn dây gảy37”, là sự tiếp biến mô phỏng hệ thống nhã nhạc Trung Hoa, trang phục của con hát sang trọng gấm vóc sặc sỡ, ñèn lồng kết hoa công phu, ñắt tiền “biểu diễn trên thuyền rồng, trong ñêm thanh vắng nghe như khúc nhạc của quần tiên tụ hội”38. Bức chạm tiên nữ cưỡi hươu gảy ñàn ñáy là một biểu tượng cho hình ảnh ñào ngự. Những yếu tố ñó làm nên phong cách ả ñào: tính ñài các, phong lưu vương giả, trong một hình thức giải trí cao cấp. Hệ quả của nó: Ả ñào ñược chọn ñể tiếp sứ, giữ vai trò truyền tải thông ñiệp ngoại giao văn hóa. Trong văn bia Bản huyện giáo phường lập ñoan bi ký còn ghi: “Năm Long ðức thứ 3 (1734), giáo phường An Thanh huyện Lập Thạch ñã ñược mời về kinh ñể hát xướng ñón sứ bộ các nước” [Nguyễn Xuân Diện 2007b: 80]. Trong những thời khắc của lịch sử, ả ñào còn ñược xem như một quân cờ cạnh tranh chính trị trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng: “Khi ðào Duy Từ thổi vào môn hát tuồng một nguồn sinh lực mới tại phủ ðồng Sơn (Bình ðịnh) thì ngoài Bắc ñang lúc thịnh thời của các chúa Trịnh- muốn thưởng thức một thứ nhạc bác học ñi song song với tửu sắc, thi ca. Chúa chọn hát cô ñào ñể gây ra một nghệ thuật khả 37 Trúc sinh (ñàn khô), ñàn cầm, ñàn 7 dây, ñàn 9 dây, ñàn tranh. Cường ñộ dàn nhạc họ dây luôn vừa tầm, không lấn át tiếng hát [Bùi Trọng Hiền, in trong Hồ sơ ứng cử quốc gia: 70], 38 Trích Tang thương ngẫu lục [dẫn theo Dương ðình Minh Sơn 2009: 93-94]. Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 Trang 102 dĩ thay thế ñược cả tuồng, lại cả chèo” [Tchya 1959: 46]. 3.2. Ca nương với vai trò nghệ nhân phục vụ thú tiêu khiển của tầng lớp trên Sùng bái văn hóa ca vũ cung ñình, nhiều quan ñại thần, trong nhà, cũng thường nuôi riêng một nhóm ả ñào ñể tiện bề hưởng thú phong lưu, như: Nguyễn Hữu Chỉnh nuôi hơn mười ả ñào ñể tiếp ñãi tân khách, ông còn ñặt ra những bài hát mới cho ả ñào múa hát, hào hoa phong nhã thứ nhất ở kinh kỳ [Hoàng Lê nhất thống chí, dẫn theo Nguyễn Nghĩa Nguyên 2011: 85]. “Nguyễn Khản thích hát xướng, gặp khi con hát có tang trở cũng cứ cho tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ, tiếng nhạc” [Phạm ðình Hổ 1989: 42-47]. Xét mối quan hệ giữa nghệ thuật và chính trị, có thể xem vai trò ả ñào trong dinh quan (tư gia) là vai trò quan kỹ (hay tư kỹ), tức là kỹ nữ phục vụ giải trí cho quan lại, quý tộc ñịa phương. Song, vai trò ả ñào có phần thiên về nghệ thuật nhiều hơn là hầu hạ, không giống như các kiseang kwanggi (quan kỹ) của Hàn Quốc, ngoài vai trò nghệ thuật, các kisaeng còn ñảm ñương nhiều vai trò rất xa lạ với văn hóa ả ñào, như vai trò y nữ khám chữa bệnh cho con gái nhà quý tộc- yakbang kisaeng (dược phòng kỹ), vai trò thợ may, may vá trang phục cho giới quý tộc- sangbang kisaeng (thường phòng kỹ sinh) Nguyên do lịch sử kisaeng ñược viết nên từ cuộc ñời của các hwarang- con nhà gia thế bị bắt làm tù nhân, hay tầng lớp lang thang bị bắt làm nô lệ, trong khi giới ả ñào xuất thân từ giáo phường ở nông thôn, không có sự phân biệt rõ nét về chức năng hay cấp bậc. Khoảng từ cuối thế kỷ XIX, ñào nương ñã tích lũy ñược vốn liếng, kinh nghiệm, tự thân thoát ly khỏi giáo phường, ra thành thị mở ca quán. Ca quán là một không gian tự do, trong ñó ả ñào giữ vai trò người nghệ sỹ ñồng thời là người chủ kinh doanh nghề hát. Cái tên cô ñầu ñã nói lên tầm quan trọng của vai trò này. Ca quán không dành riêng cho giới quý tộc và quan lại, mà ñó là nơi các văn nhân tài tử (giới trí thức) thường lui tới, những người chấp nhận chi trả một khoản tiền không nhỏ ñể ñổi lấy thú vui tao nhã từ sự xa xỉ, cầu kỳ của nghệ thuật và cái ái tình lãng mạn của cô ñầu. Xưa kia, người hát ñến nhà người nghe (ả ñào ñến hát ở tư gia), giờ ñây người nghe ñến nhà người hát (ca quán). Cái mối quan hệ “riêng một thú thanh sơn ñi lại39” này ñã làm nên nhiều áng thơ tuyệt tác trong văn Nôm ta, gắn liền với những bậc tài danh như: Nguyễn Công Trứ (1778-1858), Dương Khuê (1839-1902), Trần Tế Xương (1870-1907) 3.3. Ca nương với vai trò là ñối tượng khơi nguồn sáng tạo và thưởng thức thơ Trong giai ñoạn sơ khởi, ca trù là những bài hát giản dị gần với phương ngôn và ca dao40, nhưng một khi ñã có tài hoa của các văn nhân can thiệp, ca trù trở thành một sinh hoạt nghệ thuật sáng tác và thưởng thức thơ. Thế kỷ XIX ghi dấu sự hoàn thiện của thể cách hát nói cả về âm nhạc, văn chương và việc thưởng ngoạn [Nguyễn Xuân Diện 2007: 83]. Ca trù ñược ñơn giản hóa nhạc khí và người biểu diễn ñể tiện cho việc diễn xướng thơ trong không gian thính phòng, người nghe hát như là “một thứ khách thính văn học (salon littéraire) của xã hội Tây phương” [Vũ Bằng 1971: 14]. Lúc này, thanh sắc ả ñào ñóng vai trò phục vụ nhu cầu khoái cảm “ñược nghe thơ mình qua giọng giai nhân”- một khoái cảm tổng hợp của nhiều khoái cảm. Khoái cảm làm ñược một bài thơ rồi tự cầm chầu thưởng thức nó giữa chốn ñông người ñều là những tài tử giai nhân, khác loại công chúng bình thường. Khoái cảm ñược cộng hưởng niềm vui, cùng chia sẻ những giá trị văn hóa “vừa tư tưởng, vừa âm luật hỗn hợp với nhau, vừa văn chương vừa mỹ thuật cùng nhau ñiều hòa, vừa tài tử, vừa giai nhân cùng nhau gặp gỡ, cùng nhau sánh cạnh mà chia 39 Trích câu thơ của Dương Khuê trong bài Gặp ñào Hồng, ñào Tuyết. 40 Những bài hát cổ hiện còn lưu truyền ñều mang nặng sắc thái này [ðỗ Bằng ðoàn 1960: “Quá trình tiến hóa của ca trù và ảnh hưởng của ca trù ñối với văn hóa dân tộc”, TC.Bách khoa, số 132, tr.28]. TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 Trang 103 vui” [Nguyễn Văn Ngọc, dẫn theo Nguyễn ðức Mậu 2010: 53]. ðể ñảm ñương vai trò ấy, ả ñào phải có kỹ năng tổng hợp, ngoài kỹ năng nghề ca xướng, ả ñào còn phải học chữ ñể có thể ñọc và hiểu thơ, ñể hát cho ñúng ý tứ của tác giả. “Xem như kỹ nữ các nước, trong nghề hương phấn ca ngâm ñều có mùi pha văn học cả, vì nước nào cũng có một thứ chữ, một thứ sách vở riêng của nước ấy, càng làm kỹ nữ càng phải giao thiệp nhiều, càng phải dò dẫm xem lấy những chuyện khóc cười, chuyện xa gần, ñể làm cái tài liệu tiếp khách” [Nguyễn ðôn Phục 1923]. Theo Nguyễn Xuân Diện, việc trí thức hóa nghề ả ñào là một biệt lệ chưa từng có ở những người phụ nữ bình dân. Chính cái tri thức ñã làm nên nét văn hóa ả ñào: sang trọng, ñài các, phong lưu, khu biệt với các kỹ nữ tầm thường khác Vai trò “nàng thơ” của ả ñào cũng tựa như ca nương của ca Huế, “câu ca xứ Huế, cô ñầu tỉnh Thanh”. Cùng chung một nguồn gốc nhã nhạc cung ñình, nghệ thuật trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở ðàng Trong phát tán thành một lối gọi là ca Huế (gồm cả ca và ñàn) hay là “lối hát ả ñào của người Huế”. Ca Huế tương ñồng với ca trù về lối chơi văn chương, tri âm tri kỷ, sự trau chuốt của giọng hát, ngón ñàn và không gian thính phòng, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa. Như ả ñào, ca nương của ca Huế cũng giữ một vai không thể thay thế. Nhưng, ca nương của ca Huế gắn liền với văn hóa cố ñô Huế nên mang bản sắc ñịa phương rõ nét hơn ả ñào. Hình thức “mượn tiếng mỹ nhân ñể thưởng ngoạn nghệ thuật” của hát ả ñào còn dễ khiến người ta liên tưởng geisha Nhật Bản hay kisaeng Hàn Quốc như “ả ñào Nhật Bản, ả ñào Hàn quốc”. Tương tự ca quán, nhà geisha hay tửu quán, trà ñộng của kisaeng, ñều là không gian phòng, không có những tiết mục sôi ñộng như ca vũ tạp kỹ, chỉ thuần túy là không gian trò chuyện, luận ñàm văn chương, ... Vì thế, nhạc cụ cũng khá tinh giản, ả ñào chỉ dùng ñôi phách tre; geisha ngoài cây ñàn shanmisen còn dùng sáo trúc và mấy chiếc trống, trống nhỏ tsutsumi vác lên vai, trống nhỡ ôkawa kê trên ñùi, còn trống lớn taikô ñặt cạnh người diễn; kisaeng dùng ñàn gayageum (12 dây) và ñàn geomungo (6 dây). Trong vai trò khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, ả ñào góp phần làm phong phú các ñiệu hát ca trù bằng cách bắt chước ñiệu hát Huế, ñiệu hát xẩm, ñiệu hát phường chèo, làm thêm “gia vị” cho cuộc hát. Công lao tiếp biến của ả ñào ñã quyết ñịnh tên gọi cho ñiệu hát, như một số ñiệu nếu kép hát thì gọi là hà nam, là hát trai, còn ñào hát thì gọi là hát nói, hát gái. Tương tự, các kisaeng Hàn Quốc cũng có công thiết lập trường phái nghệ thuật bản ñịa như thơ sijo (thơ thời ñiệu), nghệ thuật hội họa (kisaeng Juk Hyang- thế kỷ XIX), nghệ thuật múa kiếm (kisaeng Unsim- thế kỷ XVIII), thậm chí các kisaeng còn tham gia viết lời và diễn xuất những vở pansori (truyện kể ñại chúng); các geisha Nhật Bản ñã có công phát triển nghệ thuật kịch kabuki, họ còn viết hồi ký, nhờ ñó mà người phương Tây mới biết về thân phận làm geisha Hiểu ñược ñiều này, chúng ta mới thấm thía câu nói: “Hàng trăm tiên sinh ñạo học khuyên ñời, không bằng sức một con hát41”. Ngoài ra, vai trò của nhan sắc ả ñào cũng ñóng góp không nhỏ trong việc tạo nên sức hấp dẫn của nghệ thuật ca trù trong hát chơi. Giới quý tộc, trí thức thích ñi hát và có cảm tình gắn bó với nghệ thuật là vì cái ñẹp của ả ñào. “ðào nương thuở ấy hễ tóc ñen mườn mượt, tóc dài thậm thượt thì ñược người yêu. Thường thì ñào nương hát về ñêm, người nghe vì thế phải trằn trọc suốt canh thâu” [dẫn theo Trần Văn Khê 1960: 71]. Sắc ñẹp của ñào nương là một mảng ñề tài lớn trong các sáng tác của văn nhân, như các bài: Tặng cô ñầu Văn của Dương Tự Nhu; Tiểu ca cơ của Phạm ðình Hổ; Long thành cầm giả ca của Nguyễn Du; thậm chí bài Bỡn cô ñào già của Nguyễn Công Trứ còn ñem cái duyên của ả ñào 41 Nhận ñịnh của Trần Hồng Thụ, danh sỹ ñời Minh [ðàm Phàm 2004: 6] Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 Trang 104 ra ñể ñùa cợt tình tứ cho thấy sự cảm tình ñặc biệt và sự ñề cao vai trò của nhan sắc ả ñào. Kết luận Từ những nội dung trình bày, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Hai trào lưu nghệ thuật trên ñều có sự ñóng góp thiết yếu của thanh sắc ả ñào. Trong lịch sử, với vai trò nghệ nhân (con hát) và vai trò người phục vụ (kỹ nữ). Văn hóa ả ñào luôn thích nghi với những biến ñổi của phong khí thời ñại. Thời ñại chuộng nhạc thì họ ñàn ca, hát xướng, thời ñại chuộng thơ thì họ có thể làm bạn thơ với văn nhân, thời ñại chuộng sắc thì họ hóa thân như kỹ nữ, “làng chơi làm sao thì nhà nghề làm vậy”. 2. Qua vai trò ả ñào, nghệ thuật ca trù tồn tại song hành hai ñặc tính vừa bác học vừa dân gian. Ngay trong thời ñại tính bác học trông có vẻ “lấn át tính dân gian” (từ sau thế kỷ XIX), hát cửa ñình vẫn là một hoạt ñộng văn hóa tồn tại và bám rễ lâu bền trong ñời sống nhân dân ở các làng xã cho ñến những năm ñầu thế kỷ XX. 3. ðể khôi phục những tinh hoa của ca trù, ta cần phải khu biệt ñào nương ngày nay với ả ñào ngày xưa. Vai trò ñào nương ngày nay chỉ là vai trò của cô ca sỹ hát lại các bài hát xưa, hoặc hát những bài mới do những khán giả yêu ca trù sáng tác, nhưng, không tạo ra ñược không gian trữ tình của “tài tử giai nhân cùng nhau hội ngộ, cùng nhau sánh cạnh chia vui”. Các ca nương trong các câu lạc bộ ca trù hiện nay chỉ ñóng một vai rất hạn chế của ca trù hát chơi trong ca quán ngày trước, chưa nói ñến vai trò phục vụ tín ngưỡng hay các sự kiện văn hóa lễ hội mà xưa kia các ñào nương ñã ñảm nhiệm. 4. Mặt khác, ñể nghệ thuật ca trù tồn tại ñược trong ñời sống ñương ñại thì vai trò ñào nương ngày nay cần phải ñược ñại chúng hóa, ñào nương không thể chỉ ñóng một vai “nghệ nhân giữ gìn vốn cổ”, mà còn phải ñảm ñương nhiều vai như một ngôi sao, một nghệ sỹ thực thụ trên các phương tiện truyền thông, ñiện ảnh, ðồng thời, các nhà ñạo diễn và các nhà thiết kế chương trình nên khuyến khích những ngôi sao hóa thân vào vai ả ñào hiện ñại, như trường hợp Madona hóa thân làm geisha chẳng hạn. The Role of Female Vocalists in Catrù Art • Nguyen Hoang Anh Tuan University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM ABSTRACT: This paper highlights the importance of the role of female vocalists (ñào nương) associated with the historical origins of Catru art, and their influence on the trend to enjoy this kind of art. Through female vocalists’ role, existence and evolution rules of Catru are thoroughly understood. From popular trend, Catru exists in the form of communal house theater in the village (hát cửa ñình), banquet theater (hát khao vọng), etc. going hand-in-hand with madarin home theater (hát nhà tơ), bar (ca quán), and determining the orientation to preserve and promote Catru art. TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 16, SOÁ X2- 2013 Trang 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Will DURANT 2004: Lịch sử văn minh Ấn ðộ (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT, Cty VH Phương Nam phát hành, TpHCM, 556tr. [2]. Will DURANT 2006: Nguồn gốc văn minh (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT, TpHCM, 204tr. [3]. Dương Quảng Hàm 1968: Việt Nam văn học sử yếu, BGD-Trung tâm học liệu xuất bản, SG., 496tr. [4]. ðàm Phàm 2004: Lịch sử con hát (Cao Tự Thanh dịch), Nxb Tổng hợp Tp.HCM, 324 tr. [5]. ðỗ Bằng ðoàn- ðỗ Trọng Huề 1994: Việt Nam ca trù biên khảo, Nxb Tp.HCM, 678 tr. [6]. Hát cửa ñình Lỗ Khê 1980, (Nhiều tác giả), Sở VHTT Hội Văn nghệ H. xb. [7]. Hồ sơ ứng cử quốc gia 2006 (phần Phụ lục): Hát ca trù người Việt, 7/2006 ñệ trình UNESCO xét duyệt di sản phi vật thể truyền khẩu nhân loại, Bộ Văn hóa thông tin, H., 216 tr. [8]. Lê Văn Hảo 1963: “Vài nét về sinh hoạt của hát ả ñào trong truyền thống văn hóa Việt Nam”, TC ðại học số 29, tr. 718 – 750 [9]. Nguyễn ðôn Phục 1923: “Khảo luận về cuộc hát ả ñào”, Nam phong tạp chí, số 70/1923, tr.277-289 [10]. Nguyễn ðức Mậu 2003 (gt&bs): Ca trù nhìn từ nhiều phía, Nxb VHTT, H., 620tr. [11]. Nguyễn ðức Mậu 2010: Ca trù Hà Nội trong lịch sử và hiện tại, Nxb H., 700tr. (khổ A4) [12]. Nguyễn Xuân Diện: “ði tìm vẻ ñẹp của nghệ thuật ca trù”, [13]. Nguyễn Xuân Diện 2007: Lịch sử và nghệ thuật ca trù, khảo sát nguồn tư liệu tại Viện nghiên cứu Hán – Nôm [chuyên khảo trên cơ sở luận án Tiến sỹ Ngữ văn Hán Nôm], Nxb Thế Giới H. [14]. Phạm ðình Hổ 1989: Vũ trung tùy bút, (bản dịch của ðông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Quảng Tuân khảo ñính và chú thích), Nxb Trẻ, Hội NCGDVH TP.HCM, tr. 42, 43, 46 & 47 [15]. Phan Kế Bính 1972: Việt Nam phong tục, [“Bộ quốc sử - Contribution à l’histoire d’Annam”, trích ðông Dương tạp chí số 24- 49, 1913- 1914], Phong trào văn hóa xb, SG., 366 tr. [16]. Tchya 1959: “Ca kịch Việt Nam”, Phổ thông Tạp chí văn hóa (chủ bút Nguyễn Vỹ) số 25, tr.46- 50 [Cơ sở biên mục dựa vào số 1(15/11/1958)] [17]. Trần Văn Khê 1960: “Hát ả ñào”, TC. Bách khoa số 81, 82, & 83 [18]. Trần Văn Khê 2000: Trần Văn Khê và âm nhạc dân tộc, Nxb Trẻ, Tp. HCM. [19]. Vũ Bằng 1971: “Hát ả ñào- lịch sử ra sao? Ông tổ là người nào? Mà ả ñào, cô ñầu và nhà tơ có khác nhau không?”, TC. Văn học, số 138, tr.3- 5
File đính kèm:
- vai_tro_ca_nuong_trong_nghe_thuat_ca_tru.pdf