Ung thư gan nguyên phát: Đặc điểm giải phẫu bệnh – lâm sàng

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư gan nguyên phát (UTGNP) là loại ung

thư tương đối phổ biến, gây tử vong nhiều và xuất độ

bệnh cũng thay đổi tùy thuộc vào từng vùng địa dư.

Theo Nguyễn Đại Bình ở Bộ môn Ung thư trường

Đại học Y Hà Nội: ung thư gan đứng hàng thứ 3 ở

giới nam và hàng thứ 4 ở giới nữ trong 10 loại ung

thư thường gặp nhất(1).

Theo ghi nhận ung thư quần thể của Nguyễn

Chấn Hùng và cộng sự tại Thành phố Hồ Chí Minh,

năm 1997: ung thư gan đứng hàng thứ nhất ở nam

(xuất độ 38,2 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm)

và đứng hàng thứ 6 ở giới nữ (xuất độ 8,3 trường hợp

trên 100.000 dân mỗi năm) trong 10 loại ung thư

thường gặp nhất(3,4).

Theo Parkin và cộng sự (1988): ung thư gan

đứng hàng thứ 8 trên thế giới và hàng thứ 7 ở các

nước đang phát triển.

Ung thư gan nguyên phát hầu hết đều là ung thư

biểu mô (chiếm 98%) bao gồm hai loại chính:

carcinom tế bào gan (HCC: Hepatocellular

Carcinoma), carcinom tế bào ống mật (CC:

Cholangiocarcinoma). Loại thứ ba hiếm gặp hơn, có

hình thái vi thể: kết hợp của hai loại trên, được gọi là

carcinom tế bào gan – ống mật (Hepa -

Cholangiocarcinoma). Trong ba loại carcinom kể trên

thì carcinom tế bào gan chiếm tỷ lệ cao nhất (90%) với

loại mô học điển hình là dạng bè(6,7,19,20). Do vậy, các

tác giả có khuynh hướng thường dùng carcinom tế bào

gan (HCC) để chỉ cho các ung thư gan nguyên phát.

Bệnh liên quan mật thiết với xơ gan, viêm gan

siêu vi B (HBV: Hepatitis B virus), viêm gan siêu vi C

(HCV: Hepatitis C virus), rượu, độc tố.

 

pdf 6 trang kimcuc 3460
Bạn đang xem tài liệu "Ung thư gan nguyên phát: Đặc điểm giải phẫu bệnh – lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ung thư gan nguyên phát: Đặc điểm giải phẫu bệnh – lâm sàng

Ung thư gan nguyên phát: Đặc điểm giải phẫu bệnh – lâm sàng
UNG THƯ GAN NGUYÊN PHÁT: 
ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU BỆNH – LÂM SÀNG 
Nguyễn Quang Tuấn*, Nguyễn Sào Trung*, Nguyễn Văn Thắng*, Trần Minh Thông† 
TÓM TẮT 
Khảo sát 114 trường hợp ung thư tế bào gan được phẫu thuật tại Bệnh viện Chợ Rẫy, được chẩn đoán 
tại Khoa Giải phẫu bệnh – Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 8/2002 đến tháng 5/2004, tác giả nhận thấy:Nam 
mắc bệnh gấp 03 lần nữ. Tuổi trung bình: 52,5. Có 73,7% trường hợp định lượng AFP trong huyết thanh 
tăng. 71,9% là viêm gan B và 10,5% là viêm gan C. 42,1% có kết hợp với tổn thương xơ gan và 7% kết hợp 
với gan thoái hóa mỡ.. Loại mô học chiếm nhiều nhất là dạng bè (58,8%) 
SUMMARY 
PRIMARY CANCER OF THE LIVER: PATHOLOGICAL – CLINICAL FEATURES 
Nguyen Quang Tuan, Nguyen Sao Trung,, Nguyen Van Thang, Tran Minh Thong 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 170 – 175 
The author studied 114 cases of the liver cancer, operated in Cho Ray Hospital, diagnosed by 
Department Pathology of the Medicine at Ho Chi Minh City, and noticed that: Male/female ratio is: 3/1. 
The average mean is 52,5, AFP positive was: 73,7%, HBV and HCV positive was: 71,9% and 10,5%, 42,1% 
of cases present with cirrhosis and 7% with steatosis Hepatocellular carcinoma, trabecular type: 58,8% 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư gan nguyên phát (UTGNP) là loại ung 
thư tương đối phổ biến, gây tử vong nhiều và xuất độ 
bệnh cũng thay đổi tùy thuộc vào từng vùng địa dư. 
Theo Nguyễn Đại Bình ở Bộ môn Ung thư trường 
Đại học Y Hà Nội: ung thư gan đứng hàng thứ 3 ở 
giới nam và hàng thứ 4 ở giới nữ trong 10 loại ung 
thư thường gặp nhất(1). 
Theo ghi nhận ung thư quần thể của Nguyễn 
Chấn Hùng và cộng sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, 
năm 1997: ung thư gan đứng hàng thứ nhất ở nam 
(xuất độ 38,2 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm) 
và đứng hàng thứ 6 ở giới nữ (xuất độ 8,3 trường hợp 
trên 100.000 dân mỗi năm) trong 10 loại ung thư 
thường gặp nhất(3,4). 
Theo Parkin và cộng sự (1988): ung thư gan 
đứng hàng thứ 8 trên thế giới và hàng thứ 7 ở các 
nước đang phát triển. 
Ung thư gan nguyên phát hầu hết đều là ung thư 
biểu mô (chiếm 98%) bao gồm hai loại chính: 
carcinom tế bào gan (HCC: Hepatocellular 
Carcinoma), carcinom tế bào ống mật (CC: 
Cholangiocarcinoma). Loại thứ ba hiếm gặp hơn, có 
hình thái vi thể: kết hợp của hai loại trên, được gọi là 
carcinom tế bào gan – ống mật (Hepa - 
Cholangiocarcinoma). Trong ba loại carcinom kể trên 
thì carcinom tế bào gan chiếm tỷ lệ cao nhất (90%) với 
loại mô học điển hình là dạng bè(6,7,19,20). Do vậy, các 
tác giả có khuynh hướng thường dùng carcinom tế bào 
gan (HCC) để chỉ cho các ung thư gan nguyên phát. 
Bệnh liên quan mật thiết với xơ gan, viêm gan 
siêu vi B (HBV: Hepatitis B virus), viêm gan siêu vi C 
(HCV: Hepatitis C virus), rượu, độc tố... 
Theo Y văn trong nước đã có một số công trình 
nghiên cứu về tình hình điều trị, chẩn đoán của ung 
*Bộ môn Giải phẫu bệnh – Đại học Y Dược TPHCM, 
†Khoa Giải phẫu bệnh – Bệnh viện Chợ Rẫy TPHCM
Chuyên đề Y Học Cơ Sở 170
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
thư gan nguyên phát ; nhưng chưa có công trình nào 
khảo sát về các đặc điểm GPB – Lâm sàng (LS) của 
ung thư gan nguyên phát. Trong phạm vi nghiên cứu 
này chúng tôi chỉ đề cập đến carcinom tế bào gan 
nhằm các mục tiêu xác định: 
Đặc tính LS, CLS và GPB 
Tương quan giữa GPB với LS và CLS. 
Tương quan giữa GPB vi thể với đại thể 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Vật liệu 
114 trường hợp được phẫu thuật và chẩn đoán 
giải phẫu bệnh là ung thư tế bào gan tại Khoa ngoại 
tiêu hóa (lầu 4/B3) – Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 
8/2002 đến tháng 5/2004. 
Phương pháp 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang: dựa trên hồ sơ bệnh 
án, phiếu trả lời kết quả giải phẫu bệnh và tiêu bản 
của khoa GPB Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Thu thập các dữ liệu lâm sàng và cận lâm sàng 
như: tuổi, giới, alpha-fetoprotein, tình trạng viêm gan 
siêu vi.... 
Đọc lại các tiêu bản lưu trữ tại khoa GPB Bệnh 
viện Chợ Rẫy ghi nhận các đặc tính vi thể bao gồm: 
loại mô học, đặc tính tế bào, độ mô học và các bệnh 
lý kết hợp. 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 12.0 for 
Windows 
KẾT QUẢ 
Tuổi và giới 
Bảng 1. 
Số trường hợp Tuổi 
Nam Nữ 
Tổng cộng 
< 20t 2 0 2 
21-30t 2 3 5 
31-40t 11 2 13 
41-50t 17 7 24 
51-60t 27 11 38 
61-70t 21 4 25 
> 70t 6 1 7 
Tổng 86 28 114 
Tỷ lệ nam/nữ là 3/1 
Tuổi nhỏ nhất: 17t, tuổi lớn nhất: 77t 
Tuổi trung bình: 52,5 ± 12,5 
Tình trạng viêm gan siêu vi 
Biểu đồ. Phân bố tình trạng viêm gan siêu vi 
Định lượng Alpha-fetoprotein (AFP) 
Bảng 2 
 Số ca Tỷ lệ 
Bình thường 30 26,3% 
10 – 100ng/ml 32 28,1% 
100 – 1000ng/ml 18 15,8% 
> 1000ng/ml 34 29,8% 
Tổng 114 100% 
AFP tăng cao trên 1000ng/ml chiếm tỷ lệ 29,8% ; 
AFP (+) trong huyết thanh: 73,7% 
Kích thước u 
Bảng 3 
Kích thước Số ca Tỷ lệ 
< 2cm 8 7% 
2 – 5cm 59 51,8% 
5 – 10cm 40 35,1% 
> 10cm 7 6,15 
Tổng cộng 114 100% 
Kích thước từ 2 – 5cm chiếm tỷ lệ cao nhất: 
51,8% 
Hình thái tổn thương 
Bảng 4. 
Tổn thương Số ca Tỷ lệ 
Một ổ 84 73,7% 
Nhiều ổ 25 21,9% 
Lan tỏa 5 4,4% 
Tổng cộng 114 100% 
 171
Đa phần là tổn thương dạng một ổ: 73,7% 
Loại mô học 
Bảng 5 
Loại mô học Số ca Tỷ lệ 
Dạng bè 67 58,8% 
Giả tuyến 19 16,7% 
Dạng đặc 18 15,8% 
Xơ cứng 6 5,2% 
Phiến sợi 4 3,5% 
Tổng cộng 114 100% 
Loại mô học dạng bè chiếm tỷ lệ cao: 58,8% ; 
dạng phiến sợi chiếm tỷ lệ thấp nhất: 3,5% 
Đặc điểm tế bào 
Bảng 6 
Đặc tính tế bào Số ca Tỷ lệ 
Điển hình 84 73,7% 
Tế bào sáng 14 12,3% 
TB khổng lồ 7 6,1% 
Dạng hình thoi 5 4,4% 
Dạng phồng bào 4 3,5% 
Tổng cộng 114 100% 
Tế bào điển hình chiếm tỷ lệ: 73,7% ; ít nhất là tế 
bào dạng phồng bào: 3,5% 
Bệnh lý kết hợp 
Bảng 7 
Bệnh lý kết hợp Số ca Tỷ lệ 
Xơ gan 48 42,1% 
Viêm gan mạn 42 36,8% 
Xơ gan + VGM 16 14,1% 
Gan thoái hóa mỡ 8 7% 
Tổng cộng 114 100% 
Bệnh lý kết hợp nhiều nhất là xơ gan: 42,1% ; 
gan thóai hóa mỡ chiếm ít nhất: 7% 
Tương quan giữa loại mô học và tuổi 
Bảng 8 
Loại mô học Tuổi trung bình 
Dạng bè 51,9 ± 12,8 
Giả tuyến 55,8 ± 12,7 
Dạng đặc 53,2 ± 11,5 
Phiến sợi 41,3 ± 16,9 
Xơ cứng 54,5 ± 6,3 
Tương quan loại mô học và AFP 
Bảng 9 
Định lượng AFP Loại 
mô học Bình 
thường
10 – 
200ng/ml
200 – 
1000ng/ml 
> 
1000ng/ml
Tỷ lệ
Dạng 
bè 
22,4% 25,4% 17,9% 34,3% 100%
Giả 
tuyến 52,6% 21,1% 10,5% 15,8% 100%
Dạng 
đặc 
22,2% 38,9% 11,1% 27,8% 100%
Phiến 
sợi 
0 25% 25% 50% 100%
Xơ cứng 16,7% 50% 16,7% 16,7% 100%
AFP tăng trên 1000ng/ml gặp chủ yếu trong ung 
thư tế bào gan dạng phiến sợi (50%). 
AFP tăng từ 10 – 200ng/ml gặp trong ung thư tế 
bào gan dạng xơ cứng (50%) 
Tương quan loại mô học và kích thước 
Bảng 10 
Kích thước u Loại mô 
học < 
2cm 
2-
5cm 
5-10cm > 
10cm 
Kích 
thước TB 
(cm) 
Dạng bè 5 36 21 5 5,5 ± 2,6 
Giả tuyến 2 9 6 2 5,7 ± 3,3 
Dạng đặc 1 9 8 0 5,5 ± 2,4 
Phiến sợi 0 1 3 0 6 ± 0,8 
Xơ cứng 0 4 2 0 5,3 ± 1,5 
Kích thước trung bình nhỏ nhất là dạng xơ cứng, 
lớn nhất là dạng phiến sợi 
Tương quan giữa loại mô học và bệnh 
lý kết hợp 
Bảng 11 
Loại mô học Bệnh lý kết 
hợp Bè Giả tuyến Đặc Phiến sợi Xơ cứng
Xơ gan 47,7% 26,3% 38,9% 75% 16,7% 
VGM 28,4% 57,9% 33,3% 25% 83,3% 
Xơ gan + 
VGM 
16,4% 5,3% 22,2% 0 0 
Gan thóai 
hóa mỡ 
7,5% 10,5% 5,6% 0 0 
Tổng 100% 100% 100% 100% 100% 
Chuyên đề Ngoại Chuyên Ngànhi 172
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
BÀN LUẬN 
Tuổi và giới 
Theo tác giả N.S. Trung(7): tỷ lệ nam/nữ là 5/1 ; 
tuổi mắc bệnh trung bình của ung thư tế bào gan là 
50 tuổi. Y văn nước ngoài: Saul S.H(20), Rosai(10), 
DeVita(15), Nichanaki(18) ghi nhận tần suất bệnh thay 
đổi rất nhiều tùy theo từng nghiên cứu nhưng cũng 
nằm trong giới hạn từ 3/1 đến 9/1. Về tuổi mắc bệnh 
cũng nằm trong nhóm tuổi từ 50 đến 60 tuổi ; ngoài 
ra một số còn ghi nhận ở những lứa tuổi trẻ (< 30 
tuổi)(10,11,13,16,17,18,20). 
Như vậy số liệu của chúng tôi nam/nữ = 3/1, phù 
hợp với các tác giả trong nước và Y văn nước ngoài. 
Tình trạng viêm gan siêu vi 
Theo tác giả Nguyễn Sào Trung(7) tỷ lệ viêm gan 
B là 72,5%. 
Y văn nước ngoài: Craig J.R(12), DeMay(14), 
Rosai(21)... tỷ lệ viêm gan B thay đổi từ 50 -72% tùy 
theo từng nghiên cứu. Như vậy tỷ lệ viêm gan siêu vi 
B ở khảo sát này 71,5%, phù hợp với Y văn trong và 
ngoài nước. 
Với viêm gan siêu vi C, theo khảo sát của các tác 
giả nước ngoài tỷ lệ này cao (76,2%) ở Nhật Bản. 
Trong khảo sát của chúng tôi, tỷ lệ viêm gan siêu vi C 
là 10,2% ; tuy số liệu thấp hơn rất nhiều so với các tác 
giả nhưng điều này cũng nêu lên được một thực 
trạng về loại bệnh lý viêm gan siêu vi C đang có nguy 
cơ gia tăng trong cộng đồng. 
Định lượng AFP 
Theo DeMay(14), trong ung thư tế bào gan định 
lượng AFP ở giới hạn bình thường chiếm tỷ lệ từ 5 – 
20% ; như vậy số liệu của chúng tôi tôi tuy có cao hơn 
(28,1%) nhưng chấp nhận được do xét nghiệm này có 
độ nhạy và độ đặc hiệu phụ thuộc vào nhiều yếu tố 
như: phương pháp, bản chất khối u........ Một nghiên 
cứu khác trong 6 năm của các bệnh viện ở Los 
Angeles (1976 – 1982)(12): AFP huyết thanh tăng cao 
trên 1000ng/ml là 63%, AFP từ 25 – 1000ng/ml là 
82%. Khảo sát của chúng tôi tỷ lệ này chỉ đạt: 29,8% 
và 43,9%. Điều này có thể lý giải một phần là do 
những yếu tố như đã nói ở trên, bên cạnh đó cỡ mẫu 
khảo sát của chúng tôi nhỏ, thời gian ngắn vì vậy 
chưa phản ảnh đúng tỷ lệ của AFP. 
Tuy nhiên nếu chỉ tính tỷ lệ AFP huyết thanh 
dương tính (73,7%) nghiên cứu này hoàn toàn phù 
hợp với các tác giả trong và ngoài nước: tỷ lệ này thay 
đổi từ 40 – 90%(8,16). 
Kích thước u 
Theo các tác giả trong nước và Y văn nước ngoài 
kích thước trung bình của u thay đổi tùy theo từng 
nhóm nghiên cứu nhưng cơ bản là trong giới hạn từ 
5 đến 7 cm(12,16,20). Như vậy số liệu của khảo sát này 
cũng hoàn toàn phù hợp với các Y văn. 
Hình thái tổn thương 
Có ba dạng đại thể chính mà các tác giả trong và 
ngoài nước đã đề cập bao gồm: tổn thương dạng một 
khối lớn (một ổ), tổn thương dạng nhiều ổ rải rác và 
tổn thương lan toả. 
Ghi nhận trong nghiên cứu này tỷ lệ dạng một 
khối lớn chiếm nhiều nhất 73,7%, sau đó là tổn 
thương dạng nhiều ổ (21,9%), tổn thương lan tỏa 
chiếm tỷ lệ ít nhất là 4,4%. 
Theo ghi nhận của Văn Tần và Hoàng Danh 
Thái(5): tổn thương dạng một ổ là 67%, nhiều ổ là 
15,1% và lan tỏa là 17,9%. 
Theo các Y văn nước ngoài, các tác giả không ghi 
nhận số liệu cụ thể của từng dạng đại thể nhưng đều 
có nhận xét chung là hình thái tổn thương dạng một 
ổ chiếm đa phần, ít nhất là tổn thương lan tỏa toàn 
bộ gan(9,12,16). 
Khảo sát của chúng tôi cũng tương đối phù hợp 
với tác giả Văn Tần về tổn thương dạng một ổ và 
nhiều ổ ; riêng tổn thương lan tỏa số liệu của chúng 
tôi có thấp hơn. Với các Y văn nước ngoài số liệu của 
khảo sát này cũng tương đối phù hợp với các nhận xét 
của các tác giả. 
Loại mô học 
Như vậy với ung thư tế bào gan dạng bè, dạng 
đặc và phiến sợi số liệu của chúng tôi tương đương 
với các Y văn nước ngoài nhưng thấp hơn số liệu của 
 173
tác giả Nguyễn Sào Trung, sự khác biệt này do trong 
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Sào Trung bao gồm 
tất cả các loại ung thư gan nguyên phát. Riêng với 
ung thư tế bào gan dạng giả tuyến và dạng xơ cứng, 
số liệu của chúng tôi có cao hơn các tác giả. Điều này 
lý giải do loại bệnh lý này phụ thuộc vào yếu tố nguy 
cơ, tác nhân gây bệnh, địa dư... ; hơn nữa cách chọn 
bệnh phẩm và số lượng bệnh phẩm khi sinh thiết 
cũng rất quan trọng trong việc phân loại các dạng mô 
học của ung thư tế bào gan. 
Bảng 12. So sánh loại mô học với các tác giả trong và 
ngoài nước 
Tác giả Loại mô 
học N. S. 
Trung(7) Craig J.R
(12) Saul 
S.H(20) NC này 
Bè 78,6% > 50% Phần lớn 58,8% 
Giả tuyến - 12% 5-10% 16,7% 
Đặc - - 5-15% 15,8% 
Phiến sợi - 1-10% 1-5% 3,5% 
Xơ cứng - 3% < 2% 5,2% 
Đặc điểm tế bào 
Theo Saul S.H(20): ghi nhận loại tế bào điển hình 
chiếm phần lớn (73,7%), tế bào sáng chiếm khoảng 
5-12%, tế bào khổng lồ ít hơn 1%, hình thoi 1-9%, 
dạng phồng bào không có ghi nhận. 
Như vậy số liệu của chúng tôi cũng tương đối phù 
hợp với tác giả Saul, riêng loại tế bào khổng lồ số liệu 
chúng tôi có cao hơn. 
Bệnh lý kết hợp 
Bảng 13. So sánh bệnh lý kết hợp với các tác giả 
Bệnh lý kết hợp 
Tác giả 
Xơ gan VGM Xơ + VGM 
Gan thóai hóa 
mỡ 
N.S. Trung(7) 71,4% 9,9% 14,3% 4,4% 
Ashley DJ.B(9) 50-60% - - - 
Craig J.R(11) 77% - - 9% 
Crawford J.M(13) 85-90% - - - 
Nghiên cứu này 42,1% 36,8% 14,1% 7% 
Như vậy số liệu của chúng tôi có phần thấp hơn 
các tác giả về bệnh lý xơ gan ; VGM kèm xơ gan thì 
phù hợp với tác giả Nguyễn Sào Trung. Tuy nhiên 
điều này có thể giải thích là do trong nhiều trường 
hợp bệnh phẩm sinh thiết chỉ được lấy tại nơi có tổn 
thương ung thư vì vậy không đại diện được cho 
những tổn thương kết hợp. 
Tương quan giữa loại mô học và tuổi 
Có sự khác biệt về tuổi giữa các loại mô học của 
ung thư tế bào gan, tuy nhiên không có ý nghĩa về 
mặt thống kê với phép kiểm χ2, P > 0,05. 
Theo Saul S.H(20): ung thư tế bào gan phiến sợi có 
đỉnh tuổi ở thập niên thứ ba, thay đổi từ 5 đến 85 
tuổi, lứa tuổi trên 40 ít hơn 20%. 
Theo tác giả Craig J.R( )12 : ung thư tế bào gan 
dạng xơ cứng có tuổi trung bình là 62,7 tuổi, lớn hơn 
các loại carcinom tế bào gan còn lại 7,6 tuổi. 
Như vậy số liệu của chúng tôi có phần khác biệt, 
tuy nhiên cũng phù hợp ở một nhận định chung đó 
là ung thư tế bào gan dạng phiến sợi có tuổi trung 
bình trẻ hơn và dạng xơ cứng có tuổi trung bình lớn 
hơn các loại còn lại. 
Tương quan giữa loại mô học và AFP 
Theo Saul S.H(20): ung thư tế bào gan dạng phiến 
sợi chỉ có khoảng 10 -15% các trường hợp là có lượng 
AFP tăng cao trên 1000ng/ml ; ngược lại theo Craig 
J.R(12): lượng AFP hiếm khi nào tăng cao trong ung 
thư tế bào gan dạng phiến sợi. Như vậy nhận định 
của chúng tôi cũng phù hợp với tác giả Saul S.H 
nhưng ngược với Craig J.R. 
Với các loại mô học còn lại, số liệu của chúng tôi 
chỉ có tính cách tham khảo do chưa thấy các Y văn 
ghi nhận. 
Tương quan giữa loại mô học và kích 
thước u 
Theo tác giả Saul S.H(20): ung thư tế bào gan 
dạng phiến sợi điển hình có kích thước thay đổi từ 
3 – 25 cm, trung bình là 13cm. Theo tác giả Craig 
J.R(12) thì kích thước này thay đổi từ 4 -17 cm ; các 
loại mô học còn lại không thấy ghi nhận kích 
thước trung bình. 
Như vậy số liệu của chúng tôi nếu chỉ xét cho 
loại mô học dạng phiến sợi (6 ± 0,8 cm) nằm 
trong khoảng kích thước của hai tác giả là 3 – 25 
cm và 4 – 17 cm. Các dạng mô học khác các tác 
Chuyên đề Ngoại Chuyên Ngànhi 174
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
giả không ghi nhận nên số liệu của chúng tôi chỉ 
có tính cách tham khảo. 
Tương quan giữa loại mô học và bệnh 
lý kết hợp 
Có sự khác biệt giữa loại mô học và bệnh lý kết 
hợp tuy nhiên không có ý nghĩa về mặt thống kê với 
phép kiểm χ2, P > 0,05. 
Các Y văn nước ngoài đã ghi nhận: ung thư tế 
bào gan dạng phiến sợi xảy ra hầu hết (90%) trong 
những gan không xơ(12,20); ung thư tế bào gan dạng xơ 
cứng xảy ra trong khoảng 50% gan xơ 20). 
Như vậy, số liệu ghi nhận của chúng tôi hoàn 
toàn trái ngược với các ghi nhận của Y văn. Sự khác 
nhau này có lý do gì không ? chúng tôi chưa xác định 
được bởi có rất nhiều yếu tố đưa đến sự khác biệt này 
như: địa dư, chủng tộc, sinh bệnh học... 
KẾT LUẬN 
Qua khảo sát 114 trường hợp ung thư tế bào gan 
chúng tôi ghi nhận như sau: 
Tuổi trung bình là 52,5 tuổi, giới nam mắc bệnh 
gấp ba lần nữ 
AFP tăng trong 73,7% các trường hợp ; viêm gan 
B chiếm 71,9% 
Kích thước u trong giới hạn từ 2 – 5cm ; loại mô 
học dạng bè chiếm tỷ lệ 58,8% 
Bệnh lý kết hợp nhiều nhất là xơ gan (42,1%) 
Ung thư tế bào gan dạng phiến sợi có tỷ lệ AFP 
tăng cao trên 1000ng/ml và có kích thước u lớn nhất 
Ung thư tế bào gan dạng xơ cứng có AFP từ 10 – 
200ng/ml và có kích thước u nhỏ nhất.ª 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Đại Bình (1997): Ung thư gan nguyên phát. Trong: 
Bài giảng ung thư học, của bộ môn Ung thư Đại học Y khoa 
Hà Nội, nhà xuất bản Y học, trang 205 – 209. 
2. Trần Phương Hạnh (1997): Từ điển giải nghĩa bệnh học, 
xuất bản lần thứ 2, trường Đại học Y dược TP.HCM. 
3. Nguyễn Chấn Hùng, Nguyễn Bá Đức (1997),: Xây dựng 
chiến lược Quốc gia phòng chống ung thư, Y học TP.HCM, 
số đặc biệt chuyên đề ung thư, trang 1 – 10. 
4. Nguyễn Chấn Hùng, Nguyễn Mạnh Quốc, Phó Đức 
Mẫn, Nguyễn Quốc Trực (1998): Kết qủa ghi nhận ung 
thư quần thể tại TP Hồ Chí Minh năm 1997, Y học 
TP.HCM, số đặc biệt chuyên đề ung bướu học, phụ bản 
số 3, tập 2, trang 11 – 19. 
5. Văn Tần, Hoàng Danh Tấn (2000): Đặc điểm chẩn đoán, 
điều trị và tiên lượng ung thư gan nguyên phát tại Bệnh 
viện Bình Dân. Trong: Hội thảo các biện pháp mới trong 
chẩn đoán và điều trị u gan, TP Hồ Chí Minh tháng 9/2000. 
6. Nguyễn Văn Thông (2003): Ung thư gan. Trong: Nguyễn 
Đình Hối và Nguyễn Mậu Anh, Bệnh học ngoại khoa tiêu 
hóa, Nhà xuất bản Y học – Chi nhánh TP HCM, trang 167 
– 170. 
7. Nguyễn Sào Trung, Hứa Thị Ngọc Hà, Lê Văn Xuân, 
Nguyễn Đình Tuấn, La Chí Hải, Trần Minh Thông, Trần 
Mậu Kim (1998): Ung thư gan nguyên phát và viêm gan 
siêu vi B khảo sát bệnh học và hóa mô miễn dịch, Y học 
TP.HCM, số đặc biệt chuyên đề Ung bướu học, phụ bản số 3, 
tập 2, trang 37 – 41. 
8. Ackerman L.V., Rosai J., (1974): Liver. In: Surgical 
Pathology, 5th edition, The C.V Mosby Company, p 534 - 
537. 
9. Ashley D. J.B., (1978): Epithelial Tumours of the Liver. In: 
Evan’s Histological Appearances of Tumours, 3rd edition, 
Churchill Livingstone, p 593 – 598. 
10. Barwick K.W., Rosai J., (1988): Liver. In: Rosai J., 
Ackerman’s surgical pathology, Volume 1, 7th edition, 
Mosby Company, p 675 – 722. 
11. Craig J.R., (1990): Tumors of the liver. In: Kissan J.M, 
editors, Anderson Pathology, 9th edition, p 1294 – 1295, 
CV Mosby Co. 
12. Craig J.R., Peters R.L., Edmondson H.A., (1989): Tumor of 
the liver and intrahepatic bile ducts, AFIP, 2nd series, 
fascicle 26, p 123 – 216. 
13. Crawford J.M., (1994): The liver and biliary tract. In: 
Robbins pathologic basic of diseases, 5th edition, W.B 
Saunders Co, p 831 – 896. 
14. Demay R.M., (1996): Liver. In: The Art and Science of 
Cytopathology, Volume II, 1sd edition, ASCP Press, 
Chapter 23, p: 1026 – 1036. 
15. Fong Y., Kemeny N., Lawrence T.S., (2001): Cancer of the 
Liver and Biliary Tree, In: DeVita V.T., Hellman S., 
Rosenberg S.A. (eds), Cancer Principles and Practice of 
Oncology, 6th Edition, Lippincott Williams & Wilkins, p 
1162 – 1187. 
16. Ishak K.G., Markin R., (1996): Liver. In: Damjanov I., 
Linder J. (eds), Anderson’s pathology, volume 2, 10th 
edition, Mosby company, p 1779 – 1840. 
17. Mondragn S.R., Ochoa C.F.J., Ruiz M.J.M., ET AL (1997): 
Carcinoma hepatocelular, Rev Gastroenterol Mx 1997 ; 62(1 
): 34-40. 
18. Nichanaki G.S., Prabhu S.R., (1985): Primary hepatocellular 
carcinoma (a review of 74 cases), J Postgrad Med 1985 ; 31: 
34-8. 
19. O’Brien M.J, Gottlieb L.S., (1979): The Liver and Biliary 
tract. In: Robbins S.L and Cotran R.S., editors, Pathologic 
Basis of Disease, 2nd edition, W.B Saunders Company, p 
1065 – 1068. 
20. Saul S.H., (1999): Masses of the liver. In: Sternberg S.S., 
Diagnostic surgical pathology, 3rd edition, volume 2, p 1553 
– 1620. 
21. Shiu W., Tang Z.Y., (1994): Liver cancer. In: Love R. R and 
al., editors, Manual of Clinical Oncology, 6th edition, 
Springer-Verlagp, 303 – 309. 
 175

File đính kèm:

  • pdfung_thu_gan_nguyen_phat_dac_diem_giai_phau_benh_lam_sang.pdf