Ứng dụng siêu âm đàn hồi mô trong chẩn đoán u vú

U vú là bệnh lý thường gặp ở phụ nữ. U vú lành tính chiếm 80%, ác tính chiếm 20%. Ung thư vú gây tử

vong hàng đầu ở phụ nữ, trong đó có Việt Nam. Siêu âm đàn hồi mô ra đời, đánh giá độ cứng của mô, giúp

phân biệt khối u mềm hay cứng, từ đó có thể giúp phân biệt lành tính hay ác tính. Có hai loại siêu âm đàn hồi

mô là siêu âm đàn hồi mô sức căng bề mặt SE (Strain Elastography) và siêu âm đàn hồi sóng biến dạng SWE

(Shear Ware Elastography). Trong khảo sát các tổn thương ở vú, khối u càng ác tính thì có khuynh hướng càng

cứng và có vận tốc càng cao. Các nghiên cứu cho thấy kết hợp các đặc tính trong SWE cùng với siêu âm 2D để

bổ sung hoàn thiện phân loại BIRADS. Siêu âm đàn hồi mô là một kỹ thuật mới xuất hiện trong vài năm trở lại

đây, đã hứa hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp trong chẩn đoán, ngày càng có nhiều nghiên cứu và ứng dụng siêu

âm đàn hồi mô vào trong chẩn đoán tổn thương khu trú tuyến vú. Siêu âm đàn hồi mô vú khảo sát độ cứng

của ung thư vú cho thấy gấp 4 lần so với u vú lành tính và gấp 7 lần mô vú bình thường.

pdf 7 trang kimcuc 6460
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng siêu âm đàn hồi mô trong chẩn đoán u vú", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng siêu âm đàn hồi mô trong chẩn đoán u vú

Ứng dụng siêu âm đàn hồi mô trong chẩn đoán u vú
8Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
ỨNG DỤNG SIÊU ÂM ĐÀN HỒI MÔ TRONG CHẨN ĐOÁN U VÚ
Trần Thị Sông Hương1, Võ Thị Kim Yến2, Nguyễn Phước Bảo Quân3
(1) Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế, chuyên ngành Chẩn đoán hình ảnh
(3) Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng; (3) Phòng khám đa khoa Medic Huế
Tóm tắt
U vú là bệnh lý thường gặp ở phụ nữ. U vú lành tính chiếm 80%, ác tính chiếm 20%. Ung thư vú gây tử 
vong hàng đầu ở phụ nữ, trong đó có Việt Nam. Siêu âm đàn hồi mô ra đời, đánh giá độ cứng của mô, giúp 
phân biệt khối u mềm hay cứng, từ đó có thể giúp phân biệt lành tính hay ác tính. Có hai loại siêu âm đàn hồi 
mô là siêu âm đàn hồi mô sức căng bề mặt SE (Strain Elastography) và siêu âm đàn hồi sóng biến dạng SWE 
(Shear Ware Elastography). Trong khảo sát các tổn thương ở vú, khối u càng ác tính thì có khuynh hướng càng 
cứng và có vận tốc càng cao. Các nghiên cứu cho thấy kết hợp các đặc tính trong SWE cùng với siêu âm 2D để 
bổ sung hoàn thiện phân loại BIRADS. Siêu âm đàn hồi mô là một kỹ thuật mới xuất hiện trong vài năm trở lại 
đây, đã hứa hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp trong chẩn đoán, ngày càng có nhiều nghiên cứu và ứng dụng siêu 
âm đàn hồi mô vào trong chẩn đoán tổn thương khu trú tuyến vú. Siêu âm đàn hồi mô vú khảo sát độ cứng 
của ung thư vú cho thấy gấp 4 lần so với u vú lành tính và gấp 7 lần mô vú bình thường.
Từ khóa: Siêu âm đàn hồi mô, siêu âm đàn hồi mô vú
Summary
APPLICATION OF ELASTOGRAPHY 
FOR DIAGNOSIS BREAST TUMORS
Tran Thi Song Huong1, Vo Thi Kim Yen2, Nguyen Phuoc Bao Quan3
(1) PhS student of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Danang Oncology Hospital; (3) Medic Clinical, Hue City
Breast tumor is common in women. Benign tumors account for 80%, malignant tumors account for 20%. 
Breast cancer is the most common and deadly cancer among women, including Vietnam. Elastography, 
evaluates the stiffness of the tissue, helps to distinguish soft or hard tumors, which can help distinguish benign 
or malignant. Benign lesions tend to be softer than malignant lesions. There are two types of elastography: 
SE (Strain Elastography) and Shear Ware Elastography (SWE). In examining breast lesions, the maligne 
tumor tends to be stronger and the higher the velocity. Studies have shown that the SWE features should 
be combined with 2D ultrasound to complement the BIRADS classification. Elastography is a new technique 
that has emerged in the past few years, promising good diagnostic prospects, more and more research and 
application of elastography in diagnostics breast lesions. Breast elastogarphy, survey of hardness of breast 
cancer showed 4 times higher than that of benign tumor and 7 folds of normal breast tissue.
Keywords: Elastography, Breast elastogarphy 
- Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Sông Hương, email: songhuongyh@gmail.com 
- Ngày nhận bài: 18/10/2018; Ngày đồng ý đăng: 9/11/2018, Ngày xuất bản: 17/11/2018 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
U vú là bệnh lý thường gặp ở phụ nữ, có thể gặp 
ở mọi lứa tuổi. U vú lành tính chiếm khoảng 80%, ác 
tính chiếm 20%. Ung thư vú là loại ung thư thường 
gặp nhất và gây tử vong hàng đầu. Trên thế giới, có 
khoảng 1 triệu phụ nữ mắc bệnh mỗi năm, con số 
này sẽ tăng lên 50% là 1.5 triệu người vào năm 2020. 
Ở Việt Nam, mỗi năm tỷ lệ mắc là 14.000 người, 
tỷ lệ mới mắc 110.000 người và tỷ lệ tử vong trên 
73%, cao nhất thế giới. Tỷ lệ tử vong gia tăng do hầu 
hết trường hợp phát hiện muộn. Chẩn đoán u vú 
thường dựa vào khám lâm sàng kết hợp X quang, 
siêu âm và kết quả giải phẫu bệnh. X quang vú từ lâu 
đã được sử dụng, có hiệu quả trong tầm soát ung 
thư vú đối với phụ nữ trên 50 tuổi. Ngày nay, siêu 
âm là phương pháp thông dụng hơn, được chỉ định 
rộng rãi trong khám vú. Siêu âm 2D đặc biệt hữu ích 
ở bệnh nhân trẻ tuổi mà tổn thương có thể bị bỏ sót 
trên X quang, phân biệt được tổn thương dịch hay 
đặc, cung cấp các dấu hiệu hình ảnh gợi ý lành hay 
ác tính, tuy nhiên độ nhạy và độ đặc hiệu thấp, kết 
quả dương tính giả cao [2]. Siêu âm Doppler màu 
9Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
cung cấp thông tin mạch máu khối u, chưa giúp xác 
định u ác tính. Để khắc phục những giới hạn này, 
siêu âm đàn hồi mô ra đời, hỗ trợ đánh giá độ cứng 
của mô, giúp phân biệt khối u mềm hay cứng, giúp 
phân biệt u lành hay ác tính [3]. Những u vú ác tính 
có khuynh hướng cứng hơn u lành tính [7], [10]. Đặc 
tính chung này đã cung cấp bản chất căn bản của 
siêu âm đàn hồi mô trong chẩn đoán phân biệt tổn 
thương khu trú tuyến vú. Ngày nay, đã có nhiều kỹ 
thuật tiến bộ và mới được đưa vào sử dụng trong 
chẩn đoán bệnh lý tuyến vú như cộng hưởng từ vú, 
chụp nhũ ảnh mạch máu... tuy nhiên các kỹ thuật 
này có độ đặc hiệu trong chẩn đoán còn thấp và ở 
nước ta chưa được ứng dụng rộng rãi, đặc biệt là 
khu vục miền Trung. Vì vậy, ứng dụng siêu âm đàn 
hồi mô có thể góp phần trong chẩn đoán các tổn 
thương khu trú ở vú.
2. TỔNG QUAN VỀ SIÊU ÂM ĐÀN HỒI MÔ 
TUYẾN VÚ
Siêu âm đàn hồi mô được đề xuất đầu tiên bởi 
Opphir vào những năm 1990, cung cấp thông tin về 
thuộc tính vật lý của mô. Các thuộc tính cơ học của 
mô mềm phụ thuộc vào: Các khối phân tử cấu thành 
mô như mô mỡ, sợi, cách thức cấu trúc vi thể và 
đại thể, tình trạng đường bờ của cấu trúc. Chính các 
thuộc tính này đã quy định cho mô đặc tính cứng và 
đàn hồi
Có hai loại kỹ thuật ghi hình đàn hồi trên siêu 
âm: Siêu âm đàn hồi mô sức căng bề mặt SE (Strain 
Elastography) và siêu âm đàn hồi sóng biến dạng 
SWE (Shear Ware Elastography) [3].
2.1. Siêu âm đàn hồi mô sức căng bề mặt SE
- Siêu âm đàn hồi mô sức căng bề mặt SE (Strain 
Elastography): tạo ra hình ảnh dựa trên sự đáp ứng 
của mô với lực gây dời chỗ trong mô từ bên ngoài bởi 
đầu dò, xung lực bức xạ âm ARFI (Acoustic Radiation 
Force Impulse) hay bên trong từ bệnh nhân (sự thở, 
nhịp đập tim), xác định sức căng tương đối hay độ 
đàn hồi của mô trong trường khảo sát, đánh giá 
định tính độ cứng của mô tổn thương khi so sánh 
mô xung quanh trong vùng khảo sát. 
Khi áp một lực nén lên trên vùng mô vú cần khảo 
sát, gồm có mô tuyến vú, mô mỡ, mô liên kết nâng 
đỡ, thì lực nén sẽ tác động lên tất cả các điểm của 
vùng mô khảo sát làm mô tổ chức đó căng lên, mô có 
tính chất chắc hơn thì chịu sức căng kém hơn, mô có 
tính chất mềm hơn thì chịu sức căng lớn hơn, như thế 
qua đánh giá sức căng thì có thể biết được độ đàn hồi 
của mô. Người ta tiến hành qua các bước sau:
- Thực hiện ghi hình siêu âm lên mô cần khảo sát, 
tín hiệu hồi âm được lưu trữ vào máy tính.
- Áp một lực lên mô cần khảo sát.
- Sau khi lực nén phân bố đồng đều và ổn định 
thì thực hiện xuyên âm lần 2, tín hiệu thu về được 
lưu trữ để cùng xử lý với tín hiệu lần đầu.
Hình A- Sơ đồ của thiết bị ghi hình đàn hồi, đầu 
dò được gắn trên tấm giá đỡ và cũng là hệ thống 
dùng để tạo lực nén, kết quả được tạo hình siêu 
âm và để lưu trữ chờ xử lý; Hình B- Các đường hồi 
âm được tạo ra và thu nhận ở trước và sau khi áp 
một lực nén; Hình C- Phân tích các khoảng lệch thời 
gian của từng cặp tín hiệu trên cùng một đường 
hồi âm [3]
Hình 1. Nguyên lý tạo hình độ đàn hồi mô [3]
Siêu âm đàn hồi sức căng sử dụng ARFI
Sóng siêu âm có thể được tán xạ, tạo ra sự 
chuyển đổi động lượng, sẽ gây nên sự di chuyển 
của mô. Năng lượng được gia tăng trong chùm sóng 
siêu âm sẽ tạo ra lực gia tăng và sự chuyển động sau 
đó. Kết quả ứng dụng trong siêu âm đàn hồi mô là: 
đo lượng sự chuyển động trực tiếp gọi là siêu âm 
đàn hồi sức căng và sự chuyển động của mô sinh 
ra một sóng ngang bên mà tốc độ của sóng có thể 
tính được gọi là siêu âm đàn hồi đo vận tốc sóng 
biến dạng. 
Xung ARFI thay thế sự đè ép của đầu dò thông 
thường trước đây nên ít phụ thuộc vào người khám. 
Khi sự dịch chuyển theo trục được đánh giá thì kỹ 
thuật ARFI sẽ tạo ra hình ảnh định tính tương tự đàn 
hồi sức căng, gọi là tạo hình mô bằng kỹ thuật chạm 
ảo (VTI: Virtual Touch Tissue Imaging) và chỉ cho 
hình ảnh định tính.
10
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Hình 2. Kỹ thuật tạo hình bằng xung lực bức xạ âm AFRI [3]
Có rất nhiều điểm khác nhau giữa đàn hồi sức căng thông thường và tạo hình mô bằng kỹ thuật chạm ảo 
VTI [6]. Một sự khác biệt quan trọng là xung bức xạ trong hình ảnh ARFI thì tối đa hóa ở điểm tập trung trong 
khi với đàn hồi sức căng thông thường thì sức căng đồng nhất ở các bên trong hình ảnh hơn dựa trên ấn đầu 
dò, lượng lực nhấn được cung cấp tại chỗ và thay đổi theo độ sâu. Xung nén ARFI có giới hạn trong việc tạo 
ra dời chỗ ở xa hơn 5cm [3]. Thuật toán bản đồ màu có khác biệt nhẹ so với SE thông thường. Tổn thương 
vú trên hình đàn hồi mô được phân loại theo thang xám từ màu rất sáng đến rất sẫm tương ứng từ độ mềm 
đến cứng, phân loại tổn thương theo BIRADS-ACR.
Bảng 1. Thang điểm đàn hồi mô về sức căng của mô trên IE
Điểm đàn 
hồi mô
Đặc điểm hình ảnh của tổn thương
Hình ảnh Độ sáng Đường bờ Bờ rõ nét Hình ảnh vôi hoá
1 Không rõ Rất sẫm màu Không đều Không rõ Không rõ
2 Ít rõ Sẫm màu Ít đều Ít rõ Ít rõ
3 Rõ Giống với ngoại vi Đều và nhẵn Bờ rõ ràng Rõ
4 Rất rõ Sáng Rất rõ
5 Rất sáng
Nguồn: “Elastography of Breast Lesion: Initial Clinical Results, RSNA-1997” [3].
2.2. Siêu âm đàn hồi đo vận tốc sóng biến dạng sử dụng kỹ thuật ARFI
- Siêu âm đàn hồi sóng biến dạng SWE (Shear Ware Elastography): sử dụng xung lực bức xạ âm ARFI tạo 
ra sóng biến dạng đo được giá trị vận tốc vì vậy định lượng được độ cứng của mô.
Nguyên lý kỹ thuật này là phóng một xung sóng siêu âm ngắn vào trong mô kế cận vùng tham khảo (ROI – 
Region of Interest), chính áp lực nén - giãn của xung sóng siêu âm này đã tạo ra dịch chuyển mô theo hướng 
vuông góc với nó, kết quả là đã hình thành sóng biến dạng trong mô và hướng truyền sóng biến dạng vuông 
góc với xung sóng nén [3]. Điều này giống như khi ném viên sỏi vào trong hồ nước, các gợn sóng được tạo ra 
tương ứng với sóng ngang. 
Tiếp tục thực hiện việc vận tốc của sóng biến dạng bằng cách liên tục gởi vào mô vùng tham khảo (ROI) 
các chùm sóng siêu âm để phát hiện đỉnh sóng biến dạng đầu tiên hiện diện ở vùng ROI. Khoảng cách giữa vị 
trí ROI với đường đi của xung sóng siêu âm và khoảng thời gian từ lúc phát đi xung nén sóng siêu âm cho đến 
khi phát hiện đỉnh sóng biến dạng hiện diện trong ROI sẽ cho phép tính được vận tốc của sóng biến dạng. Vận 
tốc truyền đi trong mô cứng sẽ cao hơn vận tốc truyền đi trong mô mềm [1], [3].
Hình 3. Siêu âm đàn hồi sóng biến dạng SWE [3]
11
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Việc tính toán được vận tốc của sóng biến dạng 
trong mô cho phép biết được đặc tính đàn hồi của 
mô qua công thức tính suất YOUNG (E=3ρ.v²), trong 
đó E có đơn vị là kPa, ρ là tỷ trọng của mô có đơn vị 
là kg/m³ và v là vận tốc sóng biến dạng lan truyền 
trong mô khảo sát.
Trong khảo sát các tổn thương ở vú, khối u càng 
cứng thì có vận tốc càng cao. Các nghiên cứu đã cho 
thấy rằng, bất cứ một tính chất nào được phân tích 
trên SWE đều có thể giúp nâng cao chất lượng chẩn 
đoán trong phân loại BIRADS các tổn thương khu 
trú ở vú, do đó nên kết hợp các đặc tính trong SWE 
cùng với siêu âm 2D để bổ sung hoàn thiện phân loại 
BIRADS [3]. Siêu âm đàn hồi mô là một kỹ thuật mới 
xuất hiện, ngày càng có nhiều nghiên cứu và ứng 
dụng siêu âm đàn hồi mô vào trong chẩn đoán tổn 
thương khu trú tuyến vú. Khảo sát về độ cứng của 
ung thư vú cho thấy gấp 4 lần so với u tuyến lành 
tính và gấp 7 lần mô vú bình thường. 
3. THỰC HÀNH SIÊU ÂM ĐÀN HỒI MÔ TRONG 
THĂM KHÁM TỔN THƯƠNG KHU TRÚ TUYẾN VÚ 
Bước 1: Thăm khám lâm sàng: xác định vị trí khối 
u, đo kích thước, đánh giá mật độ mềm, cứng, ranh 
giới và mức độ di động của u, đánh giá có hạch vùng 
liên quan ở hố nách, thượng đòn và vú trong.
Bước 2: Tiến hành khám, xác định chẩn đoán tổn 
thương khu trú tuyến vú trên siêu âm 2D. Phân loại 
tổn thương.
- Dùng đầu dò thẳng (Linear) có tần số cao ≥7,5 
MHz
- Kỹ thuật khám:
+ Di chuyển đầu dò theo hình zíc-zắc trên xuống, 
dưới lên, đi từ trong ra ngoài hoặc khám theo hình 
nan hoa từ núm vú ra. Đảm bảo không bỏ sót một 
vùng nào của vú.
+ Kiểm tra vùng sau núm vú bằng cách chếch đầu 
dò.
+ Xác định vị trí tổn thương khu trú.
+ Đo kích thước tổn thương: Chiều rộng, dày và 
chiều cao.
+ Đè ép khối u với nhiều mức độ khác nhau.
+ Đánh giá thêm tổn thương với Doppler màu, 
Doppler năng lượng.
+ Khám hạch liên quan ở nách, thượng đòn, hạ 
đòn, vú trong
- Phân loại theo hệ thống định danh BI-RADS: 
đánh giá tổn thương lành tính, nghi ngờ ác tính hay 
ác tính dựa vào hình dạng, hướng, đường bờ, ngoại 
vi, cấu trúc âm, đặc điểm truyền âm.
+ BI-RADS 0: kết quả chưa đầy đủ, cần thêm 
thông tin 
+ BI-RADS 1: Bình thường, không có nguy cơ ung 
thư 
+ BI-RADS 2: biểu hiện lành tính, không có nguy 
cơ ung thư . 
+ BI-RADS 3: Có khả năng là lành, nguy cơ ung 
thư ≤ 2% . Cần theo dõi sát hoặc sinh thiết.
+ BI-RADS 4: Thương tổn nghi ngờ, nguy cơ ung 
thư 3-90%. Chỉ định sinh thiết 
+ BI-RADS 5: Nghi ngờ ác tinh cao, nguy cơ ác 
tính ≥ 90. Chỉ định sinh thiết 
Bước 3: Khám và đọc kết quả siêu âm đàn hồi mô
+ Thực hiện ghi hình siêu âm đàn hồi mô trên tổn 
thương dựa trên định vị của khám vú và siêu âm 2D.
+ Bệnh nhân nhịn thở, đầu dò vuông góc da, 
ép đầu dò với một lực thật nhẹ, đều với mức dịch 
chuyển đầu dò 1-2mm
+ Sau khi lực nén phân bố đồng đều và ổn định 
thì cố định đầu dò, thực hiện xuyên âm lần 2, hiển 
thị trên màn hình hai hình ảnh: hình đàn hồi (IE) bên 
phải màn hình và hình SA 2D ở bên trái màn hình.
+ Bật chế độ màu (C-Mode)
+ Điều chỉnh khung hình vùng liên quan cần khảo 
sát (ROI), ở phía trên bao gồm cả lớp mỡ dưới da, 
phía dưới bao gồm cân cơ ngực lớn, hai bên phải đặt 
rộng ra quá bờ tổn thương > 5mm.
+ Có thể lưu nhiều hình ảnh vào máy để phân 
tích sự phân bố đàn hồi, độ sáng hoặc thang màu 
của tổn thương trên vùng khảo sát.
+ Đo kích thước tổn thương bằng thước đo thẳng 
hoặc dạng vẽ đường viền, đo dạng chu vi bằng hình 
tròn hoặc hình êlíp trên hình 2D và hình đàn hồi mô. 
Bật chế độ Shadow (bóng) để so sánh kích thước tổn 
thương trên hai hình ảnh 2D và IE.
+ Nhận định phân bố đàn hồi của tổn thương 
trên ảnh đàn hồi mô đồng thời phân loại tổn thương 
theo thang điểm đàn hồi mô của Ako Itoh et al [4].
Thang mã hóa màu từ màu xanh dương đến màu 
đỏ biểu thị hai cực từ cứng đến mềm của mô
- Màu xanh dương ứng với độ cứng của mô
- Màu xanh lục ứng với độ mềm của mô
- Màu đỏ ứng với độ mềm nhất của mô
Theo thang xám mã hóa từ trắng đến đen biểu 
thị hai cực từ cứng đến mềm của mô
- Màu trắng biểu thị là mô cứng
- Màu đen biểu thị là mô mềm
Đặc điểm cứng hay mềm của tổn thương thể 
hiện trên thang xám hoặc thang mã hóa màu và sự 
phân bố màu (sức căng).
Thang điểm đàn hồi: Xác định mẫu hình màu 
sắc trong tổn thương và mô tuyến vú ngoại vi tổn 
thương trên hình ảnh 2D, tương ứng với thang 5 
điểm ở trên hình đàn hồi mô. 
12
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Hình 4. Thang điểm mô phỏng độ cứng trên hình đàn hồi mô cải tiến của Itoh, Ueno và cộng sự 2006 [3]
Tỷ lệ này kết hợp các thay đổi tỷ lệ kích thước và mức độ cứng của tổn thương. Nếu tổn thương mềm, 
được phân loại là 1 điểm; nếu tổn thương có một mẫu hỗn hợp, được cho điểm 2. Một tổn thương cứng 
nhưng nhỏ hơn được cho điểm 3. Khi tổn thương cứng và cùng kích thước trên đàn hồi mô như trong 
B-mode được cho điểm số 4. Nếu tổn thương là cứng và lớn hơn trên đàn hồi mô, được phân loại là 5. 
Khuyến cáo các tổn thương với điểm số 4 hoặc 5 được sinh thiết. Điểm từ 1 đến 3 được phân loại là có thể 
lành tính. Với một số thiết bị (Hitachi, Toshiba) tổn thương xuất hiện ba lớp màu: màu xanh, xanh lá cây và 
đỏ (BGR) được xác định là nang.
Ảnh 1. Hình ảnh của tổn thương với thang điểm 
đàn hồi mô E=0
Ảnh 2. Hình ảnh của tổn thương với thang điểm 
đàn hồi mô E=2 
Ảnh 3. Hình ảnh của tổn thương với thang điểm 
đàn hồi mô E =3
Ảnh 4. Hình ảnh của tổn thương với thang điểm 
đàn hồi mô E = 4
Ảnh 5. Hình ảnh của tổn thương với thang điểm 
đàn hồi mô E = 5
Hình 5. Đối chiếu thang điểm của Ako Itoh trên hình siêu âm (IE).
- Ghi hình đàn hồi dựa trên vận tốc sóng biến dạng
Đặt đầu dò vuông góc mặt da, bệnh nhân nhịn thở
Ấn phím kích hoạt đo ARFI
+ Kỹ thuật ARFI – thể hiện định lượng (p-SWE)
Thông tin đàn hồi của ROI được xác định trên hình siêu âm kiểu B 
Thể hiện độ cứng mô qua giá trị vận tốc sóng biến dạng (m/s) ở ROI khảo sát – còn gọi là p-SWE 
Ảnh 6. Đo vận tốc sóng biến dạng (m/s) ở ROI khảo sát
+ Kỹ thuật ARFI – thể hiện vừa định tính – vừa định lượng (2D-SWE)
13
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Hình đàn hồi chồng lên hình siêu âm kiểu B
Mã hóa màu giá trị vận tốc sóng biến dạng (m/s) phân bố trên hình B mode, còn gọi là 2D –SWE
 Ảnh 7. Mã hóa màu giá trị vận tốc sóng biến dạng (m/s) phân bố trên hình B mode
4. ỨNG DỤNG LÂM SÀNG VÀ BÀN LUẬN
Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên 
cứu siêu âm đàn hồi mô sử dụng kỹ thuật ARFI khảo 
sát tổn thương khu trú cũng như đo vận tốc sóng 
biến dạng bình thường ở các cơ quan như vú, giáp, 
gan, tụy, lách, tuyến tiền liệt, buồng trứng, tinh 
hoàn, ruột thừa... 
Yoon Seok Kim và cộng sự (2014) nghiên cứu 
157 bệnh nhân có tổn thương tuyến vú khu trú với 
40 tổn thương ác tính và 117 lành tính, SE ở tổn 
thương ác tính trung bình 3,7 ±1,0, tổn thương lành 
tính 1,6±0,8, vận tốc sóng biến dạng ở tổn thương 
ác tính trung bình là 4,23 ± 1,09 m/s, ở tổn thương 
lành tính là 2,22 ± 0,88m/s. Kết hợp siêu âm 2D với 
siêu âm đàn hồi ARFI và tỷ số sức căng có độ nhạy 
97,5%, độ đặc hiệu 92,3%, độ chính xác 93,6%, giá 
trị dự báo dương tính 79,6%, giá trị dự báo âm tính 
99,1% [10]. 
Min Bai MD và cộng sự (2012) nghiên cứu 143 
tổn thương ở vú với 102 lành tính và 41 ác tính, vận 
tốc sóng biến dạng trong tổn thương lành tính là 
2,25 ± 0,59 m/s, ác tính lá 5,96 ± 2,96m/s (p<0,001) 
độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác của kỹ thuật siêu 
âm đàn hồi ARFI là 63,4%, 100%, 89,5% [6]. 
Sebastian Wojcinski và cộng sự (2013) nghiên 
cứu 143 tổn thương vú khu trú có kết quả vận 
tốc sóng biến dạng ở tổn thương ác tính là 8,38 
±1,99m/s, lành tính là 5,39 ± 2,95m/s (p<0,001) [8].
Wendie A. Berg và cộng sự gồm 32 nhà nghiên 
cứu ở 16 trung tâm lớn ở châu Âu – Mỹ nghiên 
cứu 939 thương tổn trong đó có 289 ác tính, kết 
quả cho thấy siêu âm đàn hồi cải thiện độ đặc hiệu 
nhưng không làm giảm độ nhạy. Điểm cắt cho Dx 
thương tổn AT là SWV =5 m/s (80 kPa). Tái xếp loại 
các thương tổn 3 và 4a (nếu 3 và 4a: chỉ định sinh 
thiết đúng, 4a và 3: tránh sinh thiết không cần thiết) 
Như vậy tăng độ đặc hiệu từ 61,1% (2D) đến 78,5% 
(SWE), độ nhạy không thay đổi/650 thương tổn [9].
Ở nước ta, kỹ thuật siêu âm đàn hồi mô ARFI 
được ứng dụng ở các trung tâm chẩn đoán hình 
ảnh trong vài năm trở lại đây, các lĩnh vực khảo sát 
như tuyến vú, tuyến giáp, tuyến tiền liệt, gan, tụy 
và mạch máu. Nguyễn Phước Bảo Quân, Trần Chí 
Thành, Ngô Xuân Lan qua nghiên cứu 241 người 
bình thường có kết quả giá trị sóng biến dạng trong 
gan là 1,05 ± 0,12 m/s, kỹ thuật đo không phụ thuộc 
vào tính chủ quan của người làm [2].
Các hạn chế của kĩ thuật
- Siêu âm đàn hồi dựa trên mức biến dạng SE: 
Phụ thuộc vào lực nén, chỉ có tính chất định tính và 
bán định lượng, có nhiễu ảnh từ tổn thương dạng 
dịch (nang) và tính lập lại không cao.
- Siêu âm đàn hồi dựa trên song biến dạng SWE: 
có nhiễu ảnh do chuyển động của cơ quan lân cận, 
kết quả nhiễu/mô quá cứng (v > 9 m/s) và tính lập lại 
mức độ vừa phải. 
 Ung thư vú không tạo khối trên siêu âm
 Mô vú quá mỏng hay quá nông nên hạn chế đàn 
hồi mô biến dạng. 
Thương tổn ung thư nhưng không cứng (ung thư 
nhú, ung thư nhầy) và âm tính giả 
Thương tổn lành tính nhưng quá cứng (u xơ 
tuyến vôi hóa, biến đổi xơ nang xơ cứng hóa) và 
dương tính giả 
Đồng thuận của ACR về khám siêu âm đàn hồi 
mô
+ Phiên bản mới nhất của ACR năm 2014 bổ sung 
đặc điểm về đàn hồi mô vào các tiêu chí đánh giá 
thương tổn vú
+ Các thông số đàn hồi mô được đánh giá như 
14
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
chỉ điểm độc lập cho chẩn đoán ung thư vú. 
Xu hướng phân tích đa thông số hình ảnh siêu 
âm để chẩn đoán xác định: Hình thái/2D,3D; Huyết 
động/Doppler và đặc tính cứng - mềm/ Hình đàn hồi 
mô. 
5. KẾT LUẬN
- Siêu âm đàn hồi mô là kỹ thuật mới trong siêu 
âm
Siêu âm 2D cung cấp thông tin về giải phẫu và 
cấu trúc bên trong tổn thương
Siêu âm Doppler cung cấp thông tin huyết động 
của tổn thương
Siêu âm đàn hồi mô cung cấp thông tin về độ 
cứng – mềm của mô tổn thương, khối u càng ác tính 
thì có khuynh hướng càng cứng và có vận tốc sóng 
biến dạng càng cao 
- Siêu âm đàn hồi dựa trên mức biến dạng cung 
cấp định tính, bán định tính độ cứng tổn thương. 
Siêu âm đàn hồi dựa trên sóng biến dạng vừa 
cung cấp định tính và định lượng tính chất cứng 
mềm của tổn thương 
Từ đó hỗ trợ chẩn đoán u vú lành hay ác tính, 
giúp hạn chế sinh thiết, chỉ ra chỗ sinh thiết phù hợp 
nhất
- Siêu âm đàn hồi kết hớp siêu âm 2D hứa hẹn là 
kỹ thuật có độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác cao 
trong chẩn đoán các tổn thương vú.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Phước Bảo Quân, Trần Chí Thành, Ngô Xuân 
Lan (2012), “Giá trị vận tốc sóng biến dạng lan truyền trong 
mô gan người bình thường đo được qua kỹ thuật xung áp 
lực nén siêu âm”, Điện quang Việt Nam, 5, tr. 38-42.
2. Andrea S.H. Eric L.R., Mary S.S., Baker J.A. (2005), 
“BI-RADS for Sonography: Positive and Negative Predictive 
Values of Sonographic Features”, AJR, 184, pp. 1260-1265.
3. Barr Rich ard G. (2015), Breast Elastography, Thieme 
Medical Publishers, Inc.
4. Brian S.G. Cespedes I., Ophir J., Steven R.S. et al 
(1997), “ Elastography of Breast Lesion: Initial Clinical 
Results”, Breast Imaging Radiology, 202, pp. 79-86.
5.Chang JM Won JK, Lee KB, Park IA, Yi A, Moon W 
(2013), “Comparison of shear-wave and strain ultrasound 
elastography in the differentiation of benign and malignant 
breast lesions.”, AJR Am J Roentgenol, 201, pp. 347-356.
6. MD. Min Bai (2012), “Virtual Touch Tissue 
Quantification Using Acoustic Radiation Force Impulse 
Technology Initial Clinical Experience With Solid Breast 
Masses”, JUM, 31 (2), pp. 289-294.
7. Meng W Zhang G, Wu C, Wu G, Song Y, Lu Z. (2011), 
“Preliminary results of acoustic radiation force impulse 
(ARFI) ultrasound imaging of breast lesions.”, Ultrasound 
Med Biol, 37, pp. 1436-1443.
8.Wojcinski Sebastian (2013), “Acoustic radiation force 
impulse imaging with Virtual Touch™ tissue quantification: 
mean shear wave velocity of malignant and benign breast 
masses”, International Journal of Women’s Health, 5, pp. 
619-627.
9.Wendie A. Berg et al (2012), “Shear - wave 
Elastography Improves the Specificity of Breast US”, 
Radiology, Volume 12.
10. Yoon Seok Kim (2014), “Diagnostic Value of 
Elastography Using Acoustic Radiation Force Impulse 
Imaging and Strain Ratio for Breast Tumor”, Journal of 
Breast Cancer, 17 (1), pp. 76-82.

File đính kèm:

  • pdfung_dung_sieu_am_dan_hoi_mo_trong_chan_doan_u_vu.pdf