Ứng dụng phương pháp CFMAE để xây dựng hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành dệt may khu vực thành phố Hồ Chí Minh

Bài báo cung cấp một phương pháp ứng dụng kết hợp giữa kỹ thuật ra quyết định và logic mờ

để xây dựng hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành dệt may khu vực TP.HCM. Phương

pháp nghiên cứu là sự kết hợp giữa phân tích lý thuyết, kỹ thuật định tính Delphi và phương pháp đánh

giá đa thuộc tính liên kết mờ (CFMAE - Combined Fuzzy Multiple Attribute Evaluation). Đầu tiên, từ

các lý thuyết liên quan đến quản lý chuỗi cung ứng ngành dệt may, tác giả sẽ xây dựng hệ thống đánh

giá năng lực theo mô hình phân cấp. Trải qua ba vòng Delphi để đánh giá mô hình từ các chuyên gia

trong ngành. Cuối cùng CFMAE gồm hai giai đoạn là tích phân mờ và FAHP (Fuzzy Analysis

Hierarchy Process) được thực hiện để xây dựng mô hình đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành dệt

may với các chỉ số chung của ngành. Nghiên cứu đã xây dựng được hệ thống đánh giá năng lực chuỗi

cung ứng ngành dệt may khu vực TP.HCM với các chỉ số đánh giá tích hợp. Trọng số của các thuộc

tính được xác định như là một quan điểm chung của toàn ngành về mức độ quan trọng của các thuộc

tính đến năng lực chung của toàn chuỗi. Ý nghĩa thực tiễn là bài báo cung cấp phương pháp đánh giá

năng lực chuỗi cung cho các doanh nghiệp trong ngành dệt may. Từ đó sẽ tạo cơ sở đề xuất cải tiến tập

trung và hiệu quả. Ý nghĩa khoa học bài báo là sự ứng dụng của logic mờ trong lĩnh vực kinh tế và quản

lý nhằm loại bỏ tính chủ quan trong quá trình ra quyết định.

pdf 14 trang kimcuc 12720
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng phương pháp CFMAE để xây dựng hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành dệt may khu vực thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng phương pháp CFMAE để xây dựng hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành dệt may khu vực thành phố Hồ Chí Minh

Ứng dụng phương pháp CFMAE để xây dựng hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành dệt may khu vực thành phố Hồ Chí Minh
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 17, SỐ Q4 - 2014 
Trang 69 
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CFMAE ĐỂ XÂY DỰNG HỆ THỐNG 
ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CHUỖI CUNG ỨNG NGÀNH DỆT MAY KHU VỰC TP.HCM 
APPLYING CFMAE METHOD TO BUILD A SUPPLY CHAIN PERFORMANCE ASSESSMENT 
SYSTEM IN TEXTILE INDUSTRY IN HO CHI MINH CITY 
Võ Văn Thanh 
Khoa Cơ khí, Trường Đại học Bách khoa, ĐHQG - HCM – vvthanhise@hcmut.edu.vn 
Phạm Quốc Trung 
Khoa Quản lý công nghiệp, Trường Đại học Bách khoa, ĐHQG - HCM 
(Bài nhận ngày 22 tháng 05 năm 2014, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 27 tháng 10 năm 2014) 
TÓM TẮT 
Bài báo cung cấp một phương pháp ứng dụng kết hợp giữa kỹ thuật ra quyết định và logic mờ 
để xây dựng hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành dệt may khu vực TP.HCM. Phương 
pháp nghiên cứu là sự kết hợp giữa phân tích lý thuyết, kỹ thuật định tính Delphi và phương pháp đánh 
giá đa thuộc tính liên kết mờ (CFMAE - Combined Fuzzy Multiple Attribute Evaluation). Đầu tiên, từ 
các lý thuyết liên quan đến quản lý chuỗi cung ứng ngành dệt may, tác giả sẽ xây dựng hệ thống đánh 
giá năng lực theo mô hình phân cấp. Trải qua ba vòng Delphi để đánh giá mô hình từ các chuyên gia 
trong ngành. Cuối cùng CFMAE gồm hai giai đoạn là tích phân mờ và FAHP (Fuzzy Analysis 
Hierarchy Process) được thực hiện để xây dựng mô hình đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành dệt 
may với các chỉ số chung của ngành. Nghiên cứu đã xây dựng được hệ thống đánh giá năng lực chuỗi 
cung ứng ngành dệt may khu vực TP.HCM với các chỉ số đánh giá tích hợp. Trọng số của các thuộc 
tính được xác định như là một quan điểm chung của toàn ngành về mức độ quan trọng của các thuộc 
tính đến năng lực chung của toàn chuỗi. Ý nghĩa thực tiễn là bài báo cung cấp phương pháp đánh giá 
năng lực chuỗi cung cho các doanh nghiệp trong ngành dệt may. Từ đó sẽ tạo cơ sở đề xuất cải tiến tập 
trung và hiệu quả. Ý nghĩa khoa học bài báo là sự ứng dụng của logic mờ trong lĩnh vực kinh tế và quản 
lý nhằm loại bỏ tính chủ quan trong quá trình ra quyết định. 
Từ khóa: Quản lý chuỗi cung ứng, đánh giá năng lực chuỗi cung ứng, ngành dệt may, logic 
mờ, FAHP, CFMAE 
ABSTRACT 
The paper provides an application which is a combination between decision making technique 
and fuzzy logic to build a supply chain performance measurement system in textile industry in Ho Chi 
Minh City. The methodology is a combination of theoretical analysis, Delphi quantitative method and 
Combined Fuzzy Multiple Attribute Evaluation (CFMAE) method. First of all, based on theories on 
textile supply chain, we developed a hierarchical system for performance measurement. After three 
Delphi rounds to seek opinions of experts on the system, the CFMAE which consists of two phases (fuzzy 
integral and fuzzy analysis hierarchy process – FAHP) was conducted to build a supply chain 
performance measurement system in textile industry with general attributes. The study has constructed a 
supply chain performance measurement system in textile industry in Ho Chi Minh City with suitable 
attributes. The weight of attributes is determined as a general viewpoint of the industry of the 
Science &Technology Development, Vol 17, No.Q4 - 2014 
Trang 70 
importance of the attributes to the supply chain performance. In terms of practicality, this paper 
provides an approach in the performance measurement for the textile supply chain that serves as a 
framework for a centralized and effective improvement. The scientific meaning of this paper is the 
application of the fuzzy logic in economics and management to eliminate the subjectivity in the decision 
making process. 
Key words: Supply chain management, evaluate supply chain, textile industry, fuzzy logic, 
FAHP, CFMAE 
1. Giới thiệu 
Trong nền kinh tế nhiều biến động, quản lý 
chuỗi cung ứng là một giải pháp toàn diện để 
gia tăng lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, để quản 
lý chuỗi cung ứng hiệu quả, doanh nghiệp phải 
hiểu rõ thực trạng vận hành chuỗi thông qua 
các chỉ số đánh giá năng lực, từ đó tạo cơ sở 
cho các đề xuất cải tiến. 
Một hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung 
ứng toàn diện yêu cầu phải tích hợp tất cả các 
mắt xích trong chuỗi và phù hợp với mục tiêu 
chiến lược của doanh nghiệp. Khi đó, hệ thống 
đánh giá sẽ cho doanh nghiệp một cách nhìn 
xuyên suốt toàn chuỗi cung ứng trong sự vận 
động chung của toàn ngành và của từng mắt 
xích trong chuỗi. 
Mỗi chuỗi cung ứng cần có một hệ thống 
đánh giá năng lực khác nhau. Bài báo giới thiệu 
phương pháp đánh giá đa thuộc tính mờ 
(CFAME) để giải quyết bài toán xây dựng hệ 
thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành 
dệt may khu vực TP.HCM vì dệt may là một 
ngành được nhận định tăng trưởng mạnh trong 
giai đoạn sắp tới ở Việt Nam. Trước những khó 
khăn hiện nay ngành đang gặp phải, thì quản lý 
chuỗi cung ứng là một giải pháp mà các doanh 
nghiệp dệt may đang hướng tới. Do đó, hệ 
thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành 
dệt may như là một tiền đề cho các doanh 
nghiệp nhìn lại mình trước khi gia nhập vào 
chuỗi cung ứng toàn cầu. 
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1. Chuỗi cung ứng ngành dệt may 
Chuỗi cung ứng ngành dệt may rất phức tạp 
với nhiều doanh nghiệp tham gia từ khắp mọi 
miền đất nước. Forza &Vinelli, (1997) mô tả 
những thành phần chính trong chuỗi cung ứng 
ngành dệt may như hình 2.1. Trong đó, mục 
tiêu quản lý chuỗi cung ứng là giảm thời gian 
chờ và phản hồi nhanh với thay đổi của môi 
trường.
Hình 2.1: Thành phần chuỗi cung ứng dệt may 
Một kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng thời 
gian đáp ứng đơn hàng trong chuỗi cung ứng 
dệt may là 66 tuần từ nguyên vật liệu đầu vào 
tới khách hàng cuối cùng, trong đó 40 tuần 
dành cho lưu trữ và vận chuyển, (Kurt Salmon 
Associates, 1993). Thời gian chờ quá dài sẽ 
dẫn đến việc cung cấp sản phẩm lạc hậu không 
đúng thời điểm và nhu cầu khách hàng. Do đó, 
thời gian chuỗi cung ứng là một thuộc tính 
quan trọng cần xem xét khi xây dựng hệ thống. 
Phản hồi nhanh trong chuỗi cung ứng dệt 
may được biết đến như là một quá trình chia sẻ 
thông tin giữa các thành viên trong chuỗi để 
đáp ứng nhu cầu khách hàng đúng lúc. Hơn 
 TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 17, SỐ Q4 - 2014 
Trang 71 
nữa, Yu và các đồng sự, (2001) đã chỉ ra rằng 
chia sẻ thông tin giữa các thành viên trong 
chuỗi cung ứng có thể giảm ảnh hưởng của 
hiệu ứng Bullwhip. Vì vậy, chia sẻ thông tin 
nên được xem khi đánh giá chuỗi cung ứng. 
Quá trình phát triển sản phẩm dệt may theo 
đề xuất của Burn & Bryant, (2002) gồm tám 
bước như sau: nghiên cứu thiết kế phát 
triển mẫu đánh giá thử mẫu sản xuất thử 
 tìm nguồn cung ứng sản xuất và đảm bảo 
chất lượng phân phối và bán lẻ. 
Trong đó, phát triển sản phẩm dệt may yêu 
cầu mẫu thiết kế, kỹ thuật may phải có khả 
năng sản xuất và thị trường cung cấp cũng như 
tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Theo 
Wickett và các đồng sự, (1999) thì quá trình 
phát triển sản phẩm dệt may cần chú ý các vấn 
đề về sự phù hợp của mẫu mã, mô hình sản 
xuất, nguồn nguyên liệu, dây chuyền lắp ráp và 
các chi phí liên quan. Bên cạnh đó các yêu cầu 
của khách hàng về phong cách, màu sắc, 
nguyên liệu, hàm lượng xơ trong vải cũng 
cần phải được cân nhắc trong quá trình thiết kế 
và phát triển sản phẩm. Do đó, phát triển sản 
phẩm là một thuộc tính quan trọng của chuỗi 
cung ứng dệt may. 
Trong mô hình thẻ điểm cân bằng (Balanced 
Score Card) của Kaplan & Norton, (1992) thì 
thẻ điểm học tập và cải tiến thừa nhận rằng các 
công ty cần phải không ngừng học tập và liên 
tục cải tiến để đảm bảo lợi nhuận trong tương 
lai. Trong ngành dệt may cải tiến là một điều 
quan trọng để thu hút khách hàng và duy trì lợi 
nhuận. Các công nghệ mới, nguyên liệu mới là 
những nhân tố quan trọng để tạo lợi thế cạnh 
tranh trong ngành. Vì vậy, cải tiến là một thuộc 
tính quan trọng trong chuỗi cung ứng ngành dệt 
may cần phải xem xét đánh giá. 
Tóm lại, qua phân tích chuỗi cung ứng 
ngành dệt may với những nghiên cứu trước đó, 
Tác giả thấy rằng chuỗi cung ứng của ngành có 
những đặc tính riêng biệt như phát triển sản 
phẩm, chia sẻ thông tin trong chuỗi cung ứng, 
thời gian chuỗi cung ứng, cải tiến trong chuỗi 
cung ứng. Bên cạnh đó các thuộc tính như chi 
phí, chất lượng, tính linh hoạt và lợi nhuận 
trong chuỗi cung ứng được tác giả đề nghị bổ 
sung xem xét khi xây dựng hệ thống đánh giá. 
Vì đây là các thuộc tính quan trọng trong mọi 
ngành công nghiệp, sản xuất để tạo dựng và 
duy trì lợi thế cạnh tranh. Đồng thời các thuộc 
tính cũng được nhắc đến trong nhiều nghiên 
cứu trước đây của nhiều tác giả về đánh giá 
năng lực. 
2.2. Giới thiệu ứng dụng phương pháp 
CFMAE trong quản lý chuỗi cung ứng 
CFMAE là một phương pháp định lượng, 
kết hợp giữa kỹ thuật ra quyết định đa thuộc 
tính và lý thuyết mờ. Phương pháp được sử 
dụng trong các nghiên cứu khi thông tin không 
đầy đủ và thiếu sự hiểu biết chính xác do các 
điều kiện khách quan. CFMAE dựa trên lý 
thuyết nền tảng của độ đo mờ, tích phân mờ và 
phương pháp đánh giá thứ bậc mờ FAHP - là 
một phương pháp định lượng với các số mờ 
hình tam giác dùng để sắp xếp các phương án 
ra quyết định. Với FAHP người ra quyết định 
sẽ tự tin cung cấp những phán đoán ước lượng 
hơn là những phán đoán với giá trị chính xác 
do bản chất mờ của quá trình so sánh (Cheng & 
Mon, 1994). 
Hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng 
ngành dệt may là một vấn đề ra quyết định đa 
thuộc tính được trình bày dưới dạng mô hình 
thứ bậc với ba phân cấp. Cấp không là kết quả 
cuối cùng của hệ thống đánh giá. Cấp một là 
các thuộc tính độc lập, cơ bản và đặc trưng của 
ngành dệt may. Các thuộc tính ở cấp một sẽ 
gồm nhiều tiêu chí đánh giá liên quan và phụ 
thuộc với nhau ở cấp hai của mô hình. Mô hình 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 17, SỐ Q4- 2014 
Trang 72 
đánh giá thứ bậc của hệ thống được minh họa trong hình 2.2. 
Hình 2.2:Mô hình phân cấp hệ thống theo CFMAE 
Bên cạnh đó hệ thống đánh giá năng lực 
chuỗi cung ứng ngành dệt may cần xây dựng 
với các chỉ số định lượng tích hợp có được từ 
các đánh giá chủ quan của các chuyên gia. 
Với các đặc tính trên, phương pháp CFAME 
là phù hợp để sử dụng tính trọng số của từng 
thuộc tính đến năng lực tổng thể của chuỗi và 
loại bỏ tính chủ quan của người đánh giá. Đồng 
thời, với việc sử dụng các số mờ trong phương 
pháp sẽ giúp cho người ra quyết định có không 
gian rộng hơn với những phán đoán và đánh 
giá liên quan đến nhiều mục tiêu. Cuối cùng, 
CFAME thích hợp cho việc tích hợp các tiêu 
chí theo mô hình thứ bậc hơn là phương pháp 
vector riêng truyền thống. Và đây là điều mà 
nghiên cứu hướng đến – với một hệ thống đánh 
năng lực tích hợp các thuộc tính trong chuỗi. 
CFMAE gồm ba thực hiện. Đầu tiên, độ đo 
mờ và tích phân mờ được sử dụng để xác định 
hàm giá trị đánh giá h(Xi) của từng thuộc tính 
cấp một được phản ánh trong các tiêu chí cấp 
hai. Sau đó, phương pháp FAHP được thực 
hiện để xác định trọng số (Wi) của từng thuộc 
tính cấp một. 
Cuối cùng để đánh giá năng lực tổng thể của 
chuỗi, chỉ số năng lực SCp được tính qua 
phương pháp SAW (Simple Additive Weight) 
để tích hợp hàm giá trị đánh giá h(Xi) ở bước 
một và trọng số Wi ở bước hai. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu là xây 
dựng hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung 
ứng ngành dệt may, quy trình nghiên cứu được 
đề xuất như hình 3.1. 
 TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 17, SỐ Q4 - 2014 
Trang 73 
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu 
Theo quy trình trên, các phương pháp 
nghiên cứu được sử dụng bao gồm: 
3.1. Nghiên cứu lý thuyết 
Nghiên cứu lý thuyết nhằm tìm hiểu các 
nghiên cứu đã thực hiện trước đó trong cùng 
lĩnh vực, đồng thời phân tích các đặc trưng của 
chuỗi cung ứng ngành dệt may. Từ đó, hình 
thành hệ thống đánh giá chuỗi cung ứng dựa 
trên các cơ sở lý thuyết và phân tích quản trị. 
3.2. Phương pháp Delphi 
Delphi là một phương pháp định tính nổi 
tiếng được tạo ra bởi hai nhà khoa học Mỹ là 
Helmer & Dalkey vào năm 1953. Phương pháp 
được tiến hành qua nhiều giai đoạn, trong đó 
mỗi giai đoạn cách nhau khoảng hai tháng. 
Trong vòng đầu tiên các chuyên gia sẽ trả lời 
các câu hỏi chung về vấn đề nghiên cứu và các 
vòng tiếp theo sẽ được xây dựng dựa trên kết 
quả thu được từ vòng thực hiện trước đó. Quá 
trình sẽ chấm dứt khi có sự đồng thuận của tất 
cả các chuyên gia về vấn đề cần dự báo hoặc 
nghiên cứu (Delbecq và đồng sự, 1975). 
Delphi được thực hiện trong nghiên cứu qua 
ba vòng đánh giá nhằm loại bỏ và bổ sung 
thêm các thuộc tính, tiêu chí trong hệ thống đã 
xây dựng. Với các đặc điểm như tính khuyết 
danh, kiểm soát thông tin nhiễu qua nhiều vòng 
thực hiện và phản hồi bằng hình thức viếtcủa 
phương pháp, thì đây là phương pháp phù hợp 
để khám phá thêm các thông tin về chuỗi cung 
ứng ngành dệt may và các chỉ số đánh giá với 
sự kiểm soát thông tin chặt chẽ. 
Kết quả cuối cùng của giai đoạn này là hình 
thành hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung 
ứng hoàn chỉnh dựa trên sự thống nhất ý kiến 
của các chuyên gia trong ngành. 
3.3. Công cụ khảo sát bảng câu hỏi 
Bảng câu hỏi khảo sát là công cụ giúp thu 
thập số liệu đánh giá của các doanh nghiệp 
trong ngành dệt may về mức độ quan trọng của 
các thuộc tính, tiêu chí trong hệ thống. Dữ liệu 
thu được từ bảng câu hỏi sẽ hỗ trợ cho phương 
pháp phân tích định lượng CFAME. 
Science &Technology Development, Vol 17, No.Q4 - 2014 
Trang 74 
Cấu trúc bảng câu hỏi gồm ba phần: Đầu 
tiên là các thông tin đánh giá mức độ quan 
trọng Xij của các chỉ số đánh giá cấp hai để hỗ 
trợ cho tính toán độ đo mờ và tích phân mờ. 
Tiếp theo là phần đánh giá trọng số của từng 
thuộc tính cấp một ở dạng ma trận so sánh cặp 
để cung cấp thông tin cho quá trình FAHP. Và 
phần cuối cùng là những thông tin chung về đối 
tượng tham gia khảo sát. 
3.4. Phương pháp CFAME 
Cuối cùng, phương pháp CFMAE qua ba 
giai đoạn được thực hiện để xây dựng hàm 
đánh giá năng lực tổng thể chuỗi cung ứng 
ngành dệt may với các chỉ số chung của ngành 
là hàm giá trị đánh giá h(Xi) và trọng số Wi 
tính được. 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Kết quả nghiên cứu lý thuyết 
Mô hình phân cấp hệ thống đánh giá năng 
lực chuỗi cung ứng ngành dệt may gồm các 
thuộc tính cấp một và chỉ số đánh giá cấp hai. 
Đầu tiên dựa vào phân tích đặc trưng của 
chuỗi cung ứng ngành dệt may và các nghiên 
cứu liên quan (mục 2.1) tám thuộc tính cấp một 
cơ bản được hình thành như sau: phát triển sản 
phẩm trong chuỗi cung ứng; chi phí chuỗi cung 
ứng; thời gian chuỗi cung ứng; chất lượng 
chuỗi cung ứng; tính linh hoạt trong chuỗi 
cung ứng; cải tiến trong chuỗi cung ứng; chia 
sẻ thông tin trong chuỗi cung ứng và lợi nhuận 
trong chuỗi cung ứng. 
Các chỉ số cấp hai được tác giả xây dựng 
thông qua tìm hiểu các nghiên cứu về hệ thống 
đánh giá năng lực chuỗi cung ứng của Beamon 
(1999), Brewer & Speh (2000), Bhagwat & 
Sharma (2007), Cirtita và đồng sự (2012) và 
các chỉ số được áp dụng thực tế tại nhiều doanh 
nghiệp qua nghiên cứu của Keebler và đồng sự 
(1999). 
Cùng cuối mô hình phân cấp hệ thống đánh 
giá năng lực chuỗi cung ứng ngành dệt may 
được hình thành bao gồm tám thuộc tính cấp 
một và ba mươi hai chỉ số đánh giá cấp hai 
được trình bày trong bảng 4.1 bên dướ ... i hạn 
Tỷ lệ đơn giao hàng hoàn hảo 
Tính chính xác của dự báo 
F5 
Thông tin chia sẻ chính xác 
Thời gian chia sẻ thông tin 
Hiệu quả của việc chia sẻ 
thông tin 
F6 
Linh hoạt trong số lượng 
Linh hoạt trong giao nhận 
Linh hoạt trong kết hợp sản 
phẩm 
F7 
Số sản phẩm mới mỗi mùa 
Số lượng kỹ thuật mới sử 
dụng 
Tỷ lệ nguyên vật liệu mới 
F8 
Tổng doanh thu chuỗi c/ ứng 
Tổng lợi nhuận chuỗi c/ ứng 
Phân phối lợi nhuận hợp lý 
4.3. Tổng quan mẫu nghiên cứu 
Số liệu nghiên cứu được thu thập ở các 
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may 
ở khu vực TP.HCM thông qua một bảng câu 
hỏi khảo sát. 
Tổng mẫu khảo sát thu thập được là 194 
mẫu theo phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên đơn 
giản. Trong đó có 82 mẫu chiếm tỷ lệ 42% là 
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực may 
mặc và gia công, 18% hoạt động trong lĩnh vực 
phân phối bán lẻ, 17% trong lĩnh vực sản xuất 
các nguyên liệu phụ trợ, 10% trong lĩnh vực dệt 
và sản xuất vải, 10% trong lĩnh vực in nhuộm 
và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực 
sản xuất sợi, bông có tỷ lệ thấp nhất 3% (6 
mẫu). 
4.4. Phương pháp CFAME xây dựng hàm 
đánh giá năng lực chuỗi cung ứng 
CFMAE được thực hiện qua ba bước như 
sau: độ đo mờ và tích phân mờ; phương pháp 
FAHP và phương pháp SAW. 
4.4.1. Độ đo mờ và tích phân mờ 
Độ đo mờ và hàm tích phân mờ được thực 
hiện để xây dựng hàm giá trị đánh giá h(Xi) của 
tám thuộc tính cấp một. 
Đầu tiên tác giả sẽ chuyển các giá trị thực 
của các đánh giá thành giá trị mờ, với số mờ 
hình thang. Ví dụ, một bảng hồi đáp kết quả 
cho bốn tiêu chí như sau: (6, 4, 5, 5). Khi đó 
giá trị mã hóa mờ được xác đại diện cho mỗi 
tiêu chí là (0.7, 0.75, 0.85, 0.9); (0.4, 0.45, 
0.55, 0.6); (0.55, 0.6, 0.7, 0.75); (0.55, 0.6, 0.7, 
0.75). 
Sciencie &Technology Development, Vol 17, No.Q4- 2014 
Trang 78 
Sau đó tác giả tính số mờ trung bình của 194 
người hồi đáp theo phương pháp trung bình 
cộng cho từng tiêu chí cấp hai. Ví dụ số mờ 
trung bình của bốn tiêu chí trên lần lượt là 
(0.496, 0.546, 0.646, 0.695); (0.518, 0.568, 
0.668, 0.717); (0.448, 0.498, 0.598, 0.647); 
(0.381, 0.431, 0.531, 0.581). 
Sử dụng các công thức khử mờ (công thức 
đo khoảng cách, giá trị trung tâm và trọng lực 
trọng tâm) để tìm ra giá trị thực của các thuộc 
tính cấp một. Giá trị khử mờ của bốn tiêu chí 
trên là (0.595, 0.617, 0.547, 0.481). 
Sau khi có giá trị khử mờ, độ đo mờ λ được 
tính như bảng 4.4. 
Bảng 4.4: Giá trị độ đo mờ λ của tám thuộc tính 
Thuộc tính cấp 1 Chỉ số λ 
Phát triển s/ phẩm trong chuỗi c/ 
ứng 
-0.9535 
Chi phí chuỗi cung ứng -0.9742 
Thời gian chuỗi cung ứng -0.9996 
Chất lượng chuỗi cung ứng -0.9972 
Tính linh hoạt trong chuỗi c/ứng -0.9850 
Chia sẻ thông tin trong chuỗi 
c/ứng 
-0.8982 
Tính đổi mới trong chuỗi cung 
ứng 
-0.9522 
Lợi nhuận trong chuỗi cung ứng -0.9887 
Với giá trị λ tìm được hàm giá trị đánh giá 
của tám thuộc tính lần lượt được xác định như 
sau: 
h(X1) = h(X14)*1 + h(X13)*(1 – 0.959) + 
h(X12)*(0.959 – 0.862) + h(X11)* (0.862 – 
0.595) 
h(X2) = h(X26)*1 + h(X25)*(1 – 0.9841) + 
h(X24)*(0.9841 – 0.9478) + h(X23)*( 0.9478 – 
0.8665) + h(X22)*(0.8665 – 0.7795) + 
h(X21)*(0.7795 – 0.5206) 
h(X3) = h(X38)*1 + h(X37)*(1 – 0.9996) + 
h(X36)*( 0.9996 – 0.9984) + h(X35)*(0.9984 – 
0.9896) + h(X34)*(0.9896 – 0.9659) + 
h(X33)*(0.9659 – 0.9222) + h(X32)*(0.9222 – 
0.8334) + h(X31)*(0.8334 – 0.5905) 
h(X4) = h(X45)*1 + h(X44)*(1 – 0.9971) + 
h(43)*(0.9971 – 0.9785) + h(X42)*(0.9785 – 
0.8913) + h(X41)*(0.8913 – 0.6640) 
h(X5) = h(X53)*1 + h(X52)*(1 – 0.9573) + 
h(X51)*(0.9573 – 0.7792) 
h(X6) = h(X63)*1 + h(X62)*(1 – 0.8889) + 
h(X61)*(0.8889 – 0.6470) 
h(X7) = h(X73)*1 + h(X72)*(1 – 0.9268) + 
h(X71)*(0.9268 – 0.7234) 
h(X8) = h(X83)*1 + h(X82)*(1 – 0.9620) + 
h(X81)*( 0.9620 – 0. 7796) 
Các hàm giá trị đánh giá trên đại diện chung 
cho toàn ngành dệt may. Khi đó giá trị đánh giá 
của một chuỗi cung ứng nhất định được xác 
định qua hàm h(Xij) theo từng chỉ số cấp hai 
tương ứng. 
4.4.2. Phương pháp FAHP 
FAHP là một giải thuật của phương pháp 
AHP trong đó các giá trị là số mờ hình tam 
giác. Phương pháp gồm bốn bước thực hiện 
như sau: 
Đầu tiên các ma trận số thực được chuyển 
thành các ma trận so sánh cặp với các số mờ 
hình tam giác gồm ba chữ số (ai1 ,ai2, ai3) 
 TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 17, SỐ Q4 - 2014 
Trang 79 
Sau đó, tạo ma trận so sánh cặp với các số 
mờ trung bình của 194 người hồi đáp theo 
phương pháp trung bình cộng. 
 Thực hiện các phép toán trên ma trận như 
phương pháp AHP với các số mờ, sẽ được 
trọng số của tám thuộc tính dưới dạng số mờ 
hình tam giác được thể hiện trong bảng 4.5 
Bảng 4.5: Trọng số mờ của tám thuộc tính 
Wim ai1 ai2 ai3 
W1m 0.5359 0.7067 0.9698 
W2m 0.3500 0.4387 0.6038 
W3m 0.6034 0.8533 1.2073 
W4m 0.9184 1.2851 1.7300 
W5m 1.4611 1.9964 2.5484 
W6m 0.5383 0.7099 0.9715 
W7m 0.7237 0.9716 1.3045 
W8m 1.5683 2.1360 2.7278 
Tiếp tục sử dụng các công thức khử mờ sẽ 
được trọng số Wi của tám thuộc tính dưới dạng 
số thực như bảng 4.6. 
Bảng 4.6: Trọng số của tám thuộc tính 
Thuộc tính 
Trọng 
số Wi 
Lợi nhuận trong toàn chuỗi cung ứng 0.2322 
Tính linh hoạt trong chuỗi cung ứng 0.2166 
Chất lượng trong chuỗi cung ứng 0.1397 
Tính đổi mới trong chuỗi cung ứng 0.1077 
Thời gian trong chuỗi cung ứng 0.0934 
Chia sẻ thông tin trong chuỗi cung ứng 0.0797 
Phát triển sản phẩm trong chuỗi cung ứng 0.0793 
Chi phí trong chuỗi cung ứng 0.0506 
Với các trọng số Wi này, kết hợp giá trị đánh 
giá h(Xi) ở giai đoạn một của phương pháp 
CFMAE thì năng lực của một chuỗi cung ứng 
cụ thể sẽ được đánh giá. 
4.4.3. Mô hình đánh giá năng lực chuỗi cung 
ứng tổng thể 
Phương pháp cộng tính trọng số đơn giản 
(SAW) sẽ được thực hiện để đánh giá năng lực 
của một chuỗi cung ứng nhất định dựa trên kết 
quả của giá trị đánh giá h(Xi) và trọng sốWi. 
Chỉ số năng lực chuỗi cung ứng được xác định 
qua công thức: 
SCp = h1.W1 + h2.W2 + h3.W3 + h4.W4 + 
h5.W5 + h6.W6 + h7.W7 + h8.W8 (4.1) 
Sciencie &Technology Development, Vol 17, No.Q4 - 2014 
Trang 80 
Với 194 mẫu khảo sát đáp ứng tốt yêu cầu 
bao phủ về vị trí địa lý ở khu vực TP.HCM và 
đầy đủ các mắt xích trong chuỗi cung ứng 
ngành dệt may nên các giá trị trọng số Wi trong 
nghiên cứu được xem là giá trị trọng số chung 
cho toàn ngành. Khi đó, công thức trên được 
viết lại thành: 
SCp = 0.0793h1 + 0.0506h2 + 0.0934h3 + 
0.1397h4 + 0.2166h5 + 0.0797h6 + 0.1077h7 + 
0.2322h8 (4.2) 
Với một chuỗi cung ứng nhất định, khi các 
tiêu chí đánh giá cấp hai được xác định, thì giá 
trị hi sẽ được tính qua phương pháp độ đo mờ 
và tích phân mờ. Khi đó, chỉ số năng lực của 
chuỗi cung ứng SCp sẽ được tính theo công 
thức (4.2). 
Kết quả SCp, sẽ giúp doanh nghiệp xem lại 
quá trình hoạt động và quản lý chuỗi cung ứng 
dựa trên các thuộc tính và chỉ số được thống 
nhất chung trong toàn ngành. Đồng thời biết 
được thuộc tính nào có trọng số Wi lớn sẽ giúp 
doanh nghiệp tập trung nguồn lực hiệu quả để 
đạt mục tiêu tốt nhất. 
5. Trường hợp nghiên cứu 
Hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng 
ngành dệt may đã xây dựng, được áp dụng 
đánh giá thực tế tại công ty may Nhà Bè, nhằm 
kiểm định tính khả thi và sự phù hợp của hệ 
thống về các chỉ số chung của ngành gồm hàm 
đánh giá h(Xi) và trọng số Wi. 
Phương pháp đánh giá được thực hiện, chủ 
yếu là thảo luận với đại diện doanh nghiệp để 
đánh giá các tiêu chí trong hệ thống dựa trên 
mục tiêu, kế hoạch chiến lược và thực trạng 
vận hành chuỗi cung ứng của công ty trên 
thang đo bảy điểm từ hoàn toàn không tốt đến 
hoàn toàn rất tốt. 
5.1. Giới thiệu doanh nghiệp 
NBC – Tổng Công ty CP may Nhà Bè là một 
trong những doanh nghiệp hàng đầu trong 
ngành dệt may Việt Nam. Được thành lập từ 
năm 1973 với hai xí nghiệp đến nay NBC đã có 
hơn 35 đơn vị và xí nghiệp với gần 20.000 cán 
bộ công nhân viên, 15.000 máy móc thiết bị 
chuyên dụng, hiện đại và đạt doanh thu trên 
100 tỷ mỗi năm. 
Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất và 
bán lẻ hàng may mặc cho thị trường trong 
nước, xuất khẩu sang thị trường quốc tế và các 
hoạt động đầu tư, thương mại, Sau 30 năm 
hoạt động NBC đã tạo được uy tín với khách 
hàng về năng lực sản xuất, chất lượng sản 
phẩm và thương hiệu. 
Từng bước hoàn thiện các mắt xích trong quá 
trình sản xuất từ chủ động nguyên vật liệu đầu 
vào đến thị trường đầu ra, NBC đã từng bước 
áp dụng quản lý chuỗi cung ứng vào doanh 
nghiệp từ năm 2008. Hiện tại công ty đã hình 
thành cơ bản sơ đồ chuỗi giá trị và kết nối 
chuỗi cung ứng với một số nhà cung cấp 
nguyên vật liệu và các trung tâm phân phối, 
bán lẻ ở thị trường trong nước. 
Trước xu hướng chung của ngành là “Đẩy 
mạnh tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu”, 
NBC tham gia nghiên cứu với mong muốn kết 
quả nghiên cứu sẽ giúp cho doanh nghiệp có 
định hướng và rà soát lại hoạt động chuỗi cung 
ứng trước khi tham gia vào chuỗi cung ứng 
toàn cầu của ngành. 
5.2. Kết quả đánh giá chuỗi cung ứng 
Kết quả đánh giá các tiêu chí trong hệ thống 
của đại diện công ty may Nhà Bè, được xử lý 
qua bốn bước trong giai đoạn một của 
CFMAE, kết hợp với các hàm đánh giá h(Xi) 
đã được xác định để tính giá trị hi cho tám 
thuộc tính của công ty như bảng sau. 
Bảng 5.1: Giá trị đánh giá của NBC 
Thuộc tính cấp một 
Giá trị 
đánh giá hi 
Phát triển sản phẩm trong chuỗi c/ứng 0.6474 
 TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 17, SỐ Q4 - 2014 
Trang 81 
Thời gian trong chuỗi cung ứng 0.7282 
Chi phí chuỗi cung ứng 0.6657 
Chất lượng chuỗi cung ứng 0.7484 
Tính linh hoạt trong chuỗi c/ứng 0.6996 
Chia sẻ thông tin trong chuỗi c/ứng 0.7290 
Tính đổi mới trong chuỗi c/ ứng 0.5499 
Lợi nhuận trong chuỗi c/ ứng 0.7973 
Sử dụng công thức 4.2 (mục 4.4.3) năng lực 
tổng thể chuỗi cung ứng may Nhà Bè được xác 
định như sau: 
SCNB = 0.0793h1 + 0.0506h2 + 0.0934h3 + 
0.1397h4 + 0.2166h5 + 0.0797h6 + 0.1077h7 + 
0.2322h8 = 0.0793*0.6474 + 0.0506*0.7282 + 
0.0934*0.6657 + 0.1397*0.7484 + 
0.2166*0.6996 + 0.0797*0.7290 + 
0.0797*0.5499 + 0.2322*0.7973 = 0.70889. 
Theo quy luật chuyển đổi giá trị của Delgado 
và đồng sự (1998), ngôn ngữ đánh giá năng lực 
chuỗi cung ứng may Nhà Bè ứng với giá trị mờ 
0.70889 nằm trong khoảng (0.7, 0.75, 0.85, 
0.9) là “Rất tốt”. 
Tương tự, ngôn ngữ đánh giá cho tám thuộc 
tính cấp một của chuỗi cung ứng may Nhà Bè 
ứng với các giá trị trong bảng 5.1 được trình 
bày trong bảng 5.2 như sau: 
Bảng 5.2: Ngôn ngữ đánh giá các thuộc tính 
trong chuỗi cung ứng của NBC 
Thuộc tính cấp một Giá trị hi 
Ngôn ngữ 
đánh giá 
Phát triển sản phẩm trong 
chuỗi cung ứng 
0.6474 Tốt (LG) 
Thời gian trong chuỗi 
cung ứng 
0.7282 Rất tốt (VG) 
Chi phí chuỗi cung ứng 0.6657 Tốt (LG) 
Chất lượng chuỗi cung 
ứng 
0.7484 Rất tốt (VG) 
Tính linh hoạt trong chuỗi 
cung ứng 
0.6996 Tốt (LG) 
Chia sẻ thông tin trong 
chuỗi cung ứng 
0.7290 Rất tốt (VG) 
Tính đổi mới trong chuỗi 
cung ứng 
0.5499 Tốt (LG) 
Lợi nhuận trong chuỗi 
cung ứng 
0.7973 Rất tốt(VG) 
6. Kết luận 
Quản lý chuỗi cung ứng tích hợp sẽ giúp 
doanh nghiệp cải thiện năng lực và nâng cao 
giá trị cạnh tranh. Tuy nhiên, để vận hành 
chuỗi cung ứng hiệu quả cần phải đánh giá và 
kiểm soát tốt các mắt xích trong chuỗi thông 
qua hệ thống tiêu chí đánh giá tích hợp. 
Với phương pháp Delphi và các nghiên cứu 
lý thuyết nền tảng, đề tài đã xây dựng được hệ 
thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng ngành 
dệt may dưới dạng mô hình phân cấp gồm 8 
thuộc tính cấp một và 35 chỉ số đánh giá cấp 
hai. Các kỹ thuật của logic mờ được sử dụng để 
loại bỏ tính chủ quan từ dữ liệu nghiên cứu của 
194 bảng khảo sát của các doanh nghiệp hoạt 
động trong ngành. 
Năng lực chuỗi cung ứng được xác định qua 
hàm giá trị đánh giá h(Xi) và trọng số Wi của 
từng thuộc tính. Trọng số Wi của các thuộc 
tính và hàm tích phân h(Xi) được sử dụng như 
là giá trị tham khảo chung cho toàn ngành khi 
thực hiện đánh giá năng lực cho một chuỗi 
cung ứng nhất định. 
Với những thuật toán được lập trình sẵn 
trong phần mềm Matlab sẽ giúp doanh nghiệp 
dễ dàng đánh giá năng lực chuỗi cung ứng theo 
những thời điểm khác nhau. Từ đó doanh 
nghiệp có thể so sánh, đánh giá và đưa ra các 
quyết định tốt nhất liên quan đến vận hành 
chuỗi cung ứng. 
Sciencie &Technology Development, Vol 17, No.Q4 - 2014 
Trang 82 
Hệ thống đánh giá năng lực chuỗi cung ứng 
sau khi xây dựng đã được áp dụng để đánh giá 
năng lực chuỗi cung ứng tại công ty may Nhà 
Bè và thu được nhiều kết quả đáng kể. Trong 
đó, nhấn mạnh năng lực của các mắt xích trong 
chuỗi cung ứng lên năng lực chung của toàn 
chuỗi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Beamon, B. M. (1999), Measuring supply 
chain performance,International Journal of 
Operations & Production Management, 
Vol. 19 No. 3, pp. 275 – 292. 
[2]. Bhagwat, R. & Sharma, M. K. (2007), 
Performance measurement of supply chain 
management: A balanced scorecard 
approach, Computers & Industrial 
Engineering, pp. 43 - 62. 
[3]. Brewer, P. C & Speh, T. W. (2000), Using 
the balanced scorecard to measure supply 
chain performance, Journal of Business 
Logistics, Vol. 21 No. 1, pp. 75 - 92. 
[4]. Burn, L. D & Bryant, N. O. (2002), The 
Business of Fashion Designing, 
Manufacturing, and Marketing, Fairchild 
Publications, Inc,. New York. 
[5]. Cirtita, H. & Glaser - Segura, D. A. (2012), 
Measuring downstream supply chain 
performance, Journal Manufacturing 
Technology Management, Vol. 23 No. 3, 
pp. 299 - 314. 
[6]. Cheng, C. H & Mon, D. L. (1994), 
Evaluating weapon system by AHP based 
on fuzzy scale, Fuzzy Sets and Systems, 
Vol. 63, pp. 1 - 10. 
[7]. Delbecq, A. L., Van De Ven, A. H. & 
Gustafson, D. H. (1975), Group 
Techniques for Program Planing: A Guide 
to Nominal Group and Delphi Processes. 
Glenview: Scott, Foresman and Company. 
[8]. Delgado, M., Herrare, F., Herrera - 
Viedma, F. & Martinez, L. (1998), 
Combininh numerical and linguitic 
information in group decision making, 
Information Sciences, Vol. 107, pp. 177 - 
194. 
[9]. Forza, C. & Vinelli, A. (1997), Quick 
Response in the tixtile – apparel industry 
and the support of information 
technologies, Intergrated Manufacturing 
Systems, Vol. 8 No. 3, pp. 125 - 136. 
[10]. Kaplan, R. S. & Norton, D. P. (1992), The 
balanced scorecard – measures that drive 
performance, Harvard Business Review, 
Vol. 70 No. 1, pp. 71 - 79. 
[11]. Keebler, J. S., Marodt, K. B, Durtsche, D. 
A. & Ledyard, D. M. (1999), Keeping 
SCORE: Measuring the Business Value of 
Logistics in the Supply Chain, Oak Brook, 
IL: Council of Logistics Management. 
[12]. Kurt Salmon Associates Inc. (1993), 
Effcient Consumer Response: Enhancing 
Consumer Value in the Grocery Industry, 
Food Marketing Institute, Washington, 
DC. 
[13]. Wickett, J. L., Gaskill, L. R. &Damhorst, 
M. L. (1999), Apparel retail product 
development: Model testing and expansion, 
Clothing and Textiles Ressearch Journal, 
Vol. 17 No. 1, pp. 21 - 35. 
[14]. Yu, Z. X., Yan, H. & Cheng, T. C. E. 
(2001), Benefits of information sharing 
with supply chain partnerships, Industrial 
Managemetn and Data Systems, Vol. 101 
No. 3, pp. 114 - 119. 

File đính kèm:

  • pdfung_dung_phuong_phap_cfmae_de_xay_dung_he_thong_danh_gia_nan.pdf