Ứng dụng năng lượng gió – xu thế chung và đánh giá dưới góc độ kinh tế và môi trường

Ngày nay năng lượng gió, một trong những năng lượng tái tạo, được sử dụng ngày

càng rộng rãi khi thiết bị được sản xuất hàng loạt, công nghệ lắp ráp đã hoàn thiện, chi phí cho

hoàn thành 1 trạm điện gió hiện nay chỉ bằng 1/4 so với năm 1986. Các nước công nghiệp phát

triển đã đề ra chiến lược khai thác tích cực hơn điện gió trong tương lai và thay thế dần các nguồn

năng lượng truyền thống như than đá, thuỷ điện, hạt nhân, Trong báo cáo có xem xét nguồn năng

lượng gió, khả năng ứng dụng, xu thế phát triển chung trên thế giới và đánh giá dưới góc độ kinh tế

và môi trường cũng như có một số kiến nghị về phát triển năng lượng gió ở Việt Nam.

pdf 8 trang kimcuc 18100
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng năng lượng gió – xu thế chung và đánh giá dưới góc độ kinh tế và môi trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng năng lượng gió – xu thế chung và đánh giá dưới góc độ kinh tế và môi trường

Ứng dụng năng lượng gió – xu thế chung và đánh giá dưới góc độ kinh tế và môi trường
 3 
ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG GIÓ – XU THẾ CHUNG VÀ 
ĐÁNH GIÁ DƯỚI GÓC ĐỘ KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG 
PGS. TSKH. NGUYỄN TRUNG DŨNG 
SV. NGUYỄN TUẤN ANH (Lớp 45K) 
Trường Đại học Thuỷ lợi 
Tóm tắt: Ngày nay năng lượng gió, một trong những năng lượng tái tạo, được sử dụng ngày 
càng rộng rãi khi thiết bị được sản xuất hàng loạt, công nghệ lắp ráp đã hoàn thiện, chi phí cho 
hoàn thành 1 trạm điện gió hiện nay chỉ bằng 1/4 so với năm 1986. Các nước công nghiệp phát 
triển đã đề ra chiến lược khai thác tích cực hơn điện gió trong tương lai và thay thế dần các nguồn 
năng lượng truyền thống như than đá, thuỷ điện, hạt nhân, Trong báo cáo có xem xét nguồn năng 
lượng gió, khả năng ứng dụng, xu thế phát triển chung trên thế giới và đánh giá dưới góc độ kinh tế 
và môi trường cũng như có một số kiến nghị về phát triển năng lượng gió ở Việt Nam. 
Năng lượng không thể thiếu được đối với 
cuộc sống con người và mọi hoạt động sản xuất 
kinh doanh. Việc thỏa mãn nhu cầu về năng 
lượng ngày càng tăng là một thách thức lớn đối 
với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Với tốc 
độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam như hiện 
nay thì nhu cầu về năng lượng còn lớn hơn và 
nguy cơ thiếu điện luôn là nỗi lo của ngành điện 
lực cũng như các doanh nghiệp và người dân. 
Sau sự cố của nhà máy điện hạt nhân ở 
Chernobyl (Ukraine, 1986), thì chính phủ các 
nước phương tây mà đứng đầu là Đức ngay từ 
đầu những năm 90 đã nhận thức rõ được những 
rủi ro tiềm tàng của điện hạt nhân đã thực thi 
theo lộ trình nhằm tiến tới thu hẹp nguồn năng 
lượng hạt nhân. Tiếp theo, sự biến đổi khí hậu 
toàn cầu đang diễn ra nhanh và khó lường trong 
những năm gần đây là hậu quả lâu dài của việc 
sử dụng quá nhiều các nhiên liệu hoá thạch. 
Trong khuôn khổ thực thi Nghị định thư Kyoto 
(ký 11.1997) về giảm các khí gây hiệu ứng nhà 
kính buộc các nước phát triển phải cắt giảm 
nguồn năng lượng hoá thạch và định hướng tới 
việc sử dụng các nguồn năng lượng sạch như 
gió, mặt trời, sinh khối,  Bài báo này giới 
thiệu một cách tổng quát về năng lượng gió, xu 
thế sử dụng điện gió hiện nay trên thế giới và 
một số đánh giá cơ bản mang tính so sánh xét ở 
góc độ kinh tế và môi trường. 
1. Ứng dụng năng lượng gió - Một bức 
tranh tổng quát 
Trong lịch sử, con người đã biết sử dụng 
năng lượng gió từ rất lâu. Người Ai cập lợi dụng 
sức gió đẩy cánh buồm để đưa tàu ra khơi, 
người châu Âu sử dụng cối xay gió để xay xát 
lúa mỳ  Sau đó, người Hà Lan đã cải thiện về 
cơ bản cối xay gió để có thể đón liên tục được 
hướng gió. Người Mỹ cải tiến cối xay gió để 
xay ngũ cốc và bơm nước. Song mãi đến năm 
1970 sự ra đời của tuabin gió đã đưa việc ứng 
dụng năng lượng gió sang một trang mới. Đến 
cuối những năm 90 của thế kỷ 20 việc ứng dụng 
năng lượng gió đã có nhiều tiến bộ quan trọng 
mang tính đột phá. Bước sang thế kỷ 21, con 
người đang từng bước đưa năng lượng gió vào 
để thay thế các nguồn năng lượng truyền thống 
và có thể nói, chúng ta đang ở bước đầu của thời 
kỳ bùng nổ năng lượng gió. Nhiều nơi trên thế 
giới các trang trại điện gió với qui mô lớn với 
hàng trăm hàng ngàn tuabin gió được xây dựng. Hình 1. Trang trại điện gió (Winfarm) 
 4 
1.1 Nguyên lý để chuyển gió thành điện năng 
Khi hướng gió đến được chia thành hai lực: 
- Lực trượt: Hiệu quả kém khoảng 10-15% 
- Lực nâng: Nếu trục rôto ở vị trí thẳng đứng 
thì hiệu quả trung bình đạt 30% lượng điện, còn 
nằm ngang với 2-3 cánh thì hiệu quả cao hơn 
khoảng 40-45%. 
Lực tác dụng lên tuabin phụ thuộc vào trọng 
lượng không khí, vận tốc gió, diện tích của cánh 
quạt và động năng của gió. Nó được tính theo 
công thức: F = Cp(1/2)ρV2A, trong đó Cp là hệ 
số (= 16/27), A là diện tích của cánh quạt gió 
mà chính là diện tích hình tròn A = ΠR2 với R là 
bán kính cánh quạt. (1/2) ρV2 là động năng 
trong 1m2 không khí. Suy ra, công suất của gió 
khi qua tuabin: Pgió = [Cp.(1/2)ρV2A]V và rút 
gọn Pgió = (ρ/2)AV3Cp 
Sau khi tính toán công suất của sức gió: công suất 
lý thuyết và công suất thực tế, ta có đồ thị ở hình 3. 
Hình 2. Phân tích lực tác dụng lên cánh tuabin [10] 
1.2 Tuabin của một trạm điện gió 
Trong ứng dụng năng lượng gió thì tuabin 
gió đóng vai trò quan trọng trong việc biến gió 
thành điện năng. Bộ phận cơ bản của trạm điện 
gió là tuabin có trục rôto nằm ngang. Cấu tạo 
của nó dựa vào hình 4 bao gồm: 
- Cánh để đón hướng gió đến và tác động lên 
cánh tuabin. Lực nâng làm cho cánh tuabin 
quay. Bản thân mỗi cánh có thể tự quay xung 
quanh theo chiều mũi tên như trong hình 4. 
- Chuyển động quay được truyền từ trục trên 
qua các bánh răng. Nhờ cơ cấu chuyển động 
khớp mà có thể truyền chuyển động tới trục 
dưới để sang bộ phận tạo ra điện. 
Hình 3. Biểu đồ mối quan hệ giữa các công suất [10] 
- Vỏ tuabin bảo vệ các bộ phận bên trong và 
chống lại sự ôxy hóa của không khí. 
- Phanh dùng trong trường hợp tốc độ gió 
vượt quá mức cho phép nhằm bảo vệ tuabin gió 
hoạt động an toàn. 
- Bộ phận đón hướng gió có tác dụng đón 
hướng gió mạnh nhất để tối đa lượng điện. 
- Bộ phận khí tượng dùng để theo dõi tình 
hình khí tượng. 
- Môtơ lệch có tác dụng để tuabin có thể quay 
quanh cột nhằm đón đúng hướng gió. 
Hình 4. Cấu tạo của tuabin gió [7] 
 5 
Tuabin được phân loại thành tuabin loại nhỏ 
và lớn (bảng 1). 
1.3 Các địa điểm có thể xây dựng điện gió 
Người ta phân biệt ba loại địa điểm đặt trạm 
điện gió: Nội địa (onshore), ven biển (near 
shore) và ngoài thềm lục địa (offshore). Các 
trạm đặt ở ven biển hay ngoài thềm lục địa 
thường cho sản lượng cao hơn các trạm nội địa 
vì bờ biển thường có gió mạnh. Giải pháp này 
tiết kiệm đất xây dựng, đồng thời việc vận 
chuyển các cấu kiện lớn trên biển cũng thuận lợi 
hơn.
Bảng 1. Phân loại tuabin gió 
Loại tuabin Khoảng công suất 
(kW) 
Công suất 
(kW) 
Chiều cao 
(m) 
Diện tích cánh quạt 
(m2) 
Tuabin nhỏ 0,4 – 10 0,4 14 
 0,9 14 
 1 9 - 24 
 3,2 9 - 24 
 10 30 
 11 -30 20, 30 (2 cánh) 40 -60 
 12, 15 24 -36 
 40 – 50 50 24 
 60 – 70 65 25 
Tuabin lớn 1 – 49 25 50 75 
 40 26 140 
 50 – 99 65 26 154 
 95 28 227 
 100 – 199 100 24, 36 247 
 150 26 330 
 200 – 499 225 38 573 
 500 – 699 600 45 1590 
 660 40 - 50 1195 
 700 – 750 750 55 - 65 2304 
 1000 1000 70 - 79 756 
Trong đất liền có thể sử dụng những mỏm núi, 
đồi hoang để đặt trạm điện gió. Trường hợp này 
không cần làm trụ đỡ cao, tiết kiệm đáng kể chi 
phí xây dựng. Ngoài ra, trên mái nhà cao tầng 
cũng có thể đặt trạm nhằm đáp ứng nhu cầu riêng 
của ngôi nhà cũng như cấp điện cho thành phố. 
Điện khí hóa ngành đường sắt là xu hướng 
tất yếu của các nước công nghiệp. Chỉ cần đặt 
với khoảng cách 10 km một trạm 4.800 kW dọc 
các tuyến đường sắt đã có đủ điện năng cho tất 
cả các đoàn tàu ở Việt Nam hiện nay. Như vậy 
các đầu máy diesel và than đá tiêu thụ lượng 
nhiên liệu lớn và gây ô nhiễm môi trường được 
thay thế bằng đầu máy điện trong tương lai. 
1.4 Ưu nhược điểm cơ bản của năng lượng gió 
Ưu điểm nổi bật nhất của điện gió là không 
lo hết hay cạn kiệt nguồn nhiên liệu, không gây 
ô nhiễm môi trường như các nhà máy nhiệt 
điện, dễ chọn địa điểm và tiết kiệm đất xây 
dựng. Khác hẳn với các nhà máy thủy điện, địa 
điểm xây dựng phải gần dòng chảy có lưu lượng 
và cột nước cao cũng như cần phải có đủ diện 
tích và điều kiện địa hình để xây dựng hồ chứa. 
Theo thống kê các nhà máy thủy điện Hòa Bình, 
Vĩnh Sơn, Sông Hinh, Trị An, Đa Nhim, Yaly ... 
thực chất chỉ hoạt động đạt khoảng 40-50% tổng 
công suất thiết kế và luôn bị thiếu nguồn nước 
đến. Ngoài ra, các trạm điện gió có thể đặt gần 
nơi tiêu thụ điện, như vậy tránh được chi phí 
cho việc xây dựng đường dây tải điện. 
Song nhược điểm cơ bản của năng lượng 
gió là phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện gió 
và như vậy sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của 
dòng điện. 
 6 
2. Sử dụng năng lượng gió trên thế giới 
Trên thế giới có 20 quốc gia mà dẫn đầu là 
Đức có công suất lắp đặt điện gió cao nhất 
(Bảng 2). Công suất lắp đặt điện gió tập trung 
73% ở châu Âu, 10% châu Á , 10% châu Mỹ và 
còn lại là châu Phi, Úc và đại dương. Nếu so 
sánh theo xu thế từ 1980–2005 thì Đức, Mỹ, 
Tây Ban Nha và Đan Mạch có xu thế gia tăng 
theo hàm mũ (hình 5). Công nghệ của Đức với 
các loại tuabin gió lớn của các hãng như 
VENTIS, DEWIND, SUEDWIND, ENERCON, 
NORDEX, REPOWER,  được sử dụng nhiều.
Hình 5. Sự phát triển năng lượng gió của một số quốc gia chọn (1980 – 2005) [7] 
Bảng 2. Bảng xếp hạng các quốc gia dùng năng lượng gió trên thế giới năm 2005 [14] 
TT Quốc gia 
Công suất 
(MW) 
TT Quốc gia 
Công suất 
(MW) 
1 Đức 16.628 12 Bồ Đào Nha 523 
2 Tây Ban Nha 8.263 13 Hy Lạp 466 
3 Hoa Kỳ 6.752 14 Canada 444 
4 Đan Mạch 3.118 15 Thụy Điển 442 
5 Ấn Độ 2.983 16 Pháp 390 
6 Ý 1.265 17 Úc 380 
7 Hà Lan 1.078 18 Ireland 353 
8 Nhật 940 19 New Zealand 170 
9 Liên hiệp Anh và Bắc Ireland 897 20 Na Uy 160 
10 Trung quốc 764 21 Các nước còn lại 951 
11 Áo 607 Tổng toàn thế giới 47.574 
Hiệp hội năng lượng gió Châu Âu EWEA 
(European Wind Energy Association) đang tiến 
hành một chiến lược phát triển rầm rộ nhất cho 
năng lượng gió với mục tiêu đưa năng lượng gió 
vào nhóm những nguồn năng lượng quan trọng 
nhất. Theo kế hoạch của EWEA thì mục tiêu đến 
năm 2020, sản lượng điện gió sẽ đạt 94,8 GW, 
chiếm 12,1% tổng sản lượng điện của thế giới. 
Theo kế hoạch này đến năm 2020, tổng công suất 
của Châu Âu sẽ là 180 GW trong đó 70 GW 
được xây dựng ngoài thềm lục địa gấp 72 lần 
công suất năm 1995, đủ cung cấp cho 195 triệu 
dân. Các kế hoạch phát triển các trạm điện gió 
ngoài thềm lục địa cũng đang được tiến hành để 
lợi dụng gió biển và ước tính sẽ chiếm trên 40% 
sản lượng điện gió tương lai của Châu Âu. Cũng 
 7 
theo dự đoán này thì năng lượng gió sẽ tăng dần 
và vượt qua nhiều nguồn năng lượng truyền 
thống nhưng tiềm ẩn rủi ro cao như điện hạt nhân 
và thủy điện lớn, và vào năm 2030 năng lượng 
gió sẽ trở thành nguồn năng lượng chiếm tỷ trọng 
lớn thứ hai, chỉ đứng sau nhiệt điện. 
Hiệp hội năng lượng gió thế giới (World Wind 
Energy Association) cũng đưa ra những dự báo 
hết sức khả quan cho triển vọng phát triển năng 
lượng điện gió. Đến năm 2020 sản lượng điện 
gió sẽ chiếm tới 12% trong tổng sản lượng điện 
năng của thế giới. Để đạt được mục tiêu này, thế 
giới sẽ đầu tư khoảng 100 tỷ USD/năm vào điện 
gió, đồng thời tạo ra 2,3 triệu việc làm và giảm 
được một lượng đáng kể khí CO2 gây hiệu ứng 
nhà kính. Một thị trường về năng lượng gió sẽ 
phát triển mạnh mẽ đẩy giá thành lắp đặt cũng 
như vận hành điện gió xuống mức rẻ nhất, với 
chi phí lắp đặt khoảng 600 USD/kW và giá điện 
thương phẩm dưới 3 cent/kWh. 
3. Tiềm năng về năng lượng gió ở Việt Nam 
và những dự định đầu tiên 
Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa với 
bờ biển dài, Việt Nam có thuận lợi cơ bản để 
phát triển năng lượng gió. So sánh tốc độ gió 
trung bình trong vùng Biển Đông của Việt Nam 
và các vùng biển lân cận cho thấy gió tại Biển 
Đông khá mạnh và biến đổi nhiều theo mùa. 
Trong chương trình đánh giá về năng lượng 
của Châu Á, Ngân hàng Thế giới đã khảo sát chi 
tiết về năng lượng gió khu vực Đông Nam Á mà 
trong đó có Việt Nam. Theo nghiên cứu này, 
trong bốn nước được khảo sát thì Việt Nam có 
tiềm năng gió lớn nhất và hơn hẳn các quốc gia 
lân cận là Thái Lan, Lào và Campuchia. Trong 
khi Việt Nam có tới 8,6% diện tích lãnh thổ được 
đánh giá có tiềm năng từ „tốt“ đến „rất tốt“ để 
xây dựng các trạm điện gió cỡ lớn thì diện tích 
này ở Campuchia là 0,2%, Lào 2,9%, và Thái-lan 
0,2%. Tổng tiềm năng điện gió của Việt Nam 
ước đạt 513.360 MW tức là bằng hơn 200 lần 
công suất của thủy điện Sơn La, và hơn 10 lần 
tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 
2020. Tất nhiên, để chuyển từ tiềm năng lý 
thuyết thành tiềm năng có thể khai thác được, 
đến tiềm năng kỹ thuật, và cuối cùng, thành tiềm 
năng kinh tế là cả một câu chuyện dài. Song điều 
đó không ngăn cản chúng ta xem xét một cách 
thấu đáo tiềm năng to lớn về năng lượng gió ở 
Việt Nam. 
Nếu xét tiêu chuẩn để xây dựng các trạm điện 
gió cỡ nhỏ phục vụ cho phát triển kinh tế ở 
những khu vực khó khăn thì Việt Nam có đến 
41% diện tích nông thôn có thể phát triển năng 
lượng gió. Nếu so sánh con số này với các nước 
láng giềng thì Campuchia có 6%, Lào 13% và 
Thái Lan 9% . 
Từ năm 1997 đến nay Việt Nam đã tiến hành 
nghiên cứu khả thi một số dự án phong điện ở 
trong bảng 3. Nhưng đến nay thì chưa dự án nào 
được triển khai do chưa có một chính sách hợp lý 
để khuyến khích khai thác năng lượng gió. 
Bảng 3. Các dự án khả thi điện gió ở Việt Nam [11] 
Dự án điện gió Hợp tác với 
Công 
suất 
(MW) 
Tổng vốn 
đầu tư 
(tr. USD) 
Suất vốn 
đầu tư 
(tr.USD/ 
MW) 
Giá bán 
điện 
(Cent/ 
KWh) 
T.gian 
hoàn 
vốn 
(năm) 
Phương Mai (Bình Định) Nhật Bản 30 53,252 1,775 5,8 - 
Tu Bông 1 (Khánh Hòa) Đức 10 17,384 1,738 5 16 
Tu Bông 2 (Khánh Hòa) Đức 20 37,483 1,874 4,8 12 
Cửa Tùng (Quảng Trị) Đức 20 21,160 1,058 4 – 7 7 - 8 
Đảo Bạch Long Vĩ (H.Phòng) Đức 0,8 0,874 1,092 5 7 - 8 
4. Một số so sánh và đánh giá về kinh tế và 
môi trường của dự án điện gió 
4.1. So sánh chi phí và giá thành của điện gió 
Cho đến những năm 1990, người ta vẫn nghĩ 
giá thành, gồm chi phí lắp đặt và vận hành của 
các trạm điện gió khá cao. Nhưng định kiến này 
hiện đang được xem xét lại, đặc biệt khi quan 
niệm giá thành không chỉ bao gồm chi phí kinh 
tế mà còn cả chi phí ngoại (external cost) như 
chi phí xã hội do việc di dân tái định cư, hay chi 
 8 
phí môi trường do mất đất hay ô nhiễm môi 
trường gây ra. Trong khi các nguồn năng lượng 
từ nhiên liệu hóa thạch đang được coi là kém ổn 
định và có xu thế tăng giá, thì cùng với sự phát 
triển nhanh chóng của công nghệ, giá thành của 
các trạm phong điện ngày càng rẻ hơn. Lấy ví 
dụ của nhà máy thủy điện Sơn La với 6 tổ máy, 
tổng công suất thiết kế là 2.400 MW, được dự 
kiến xây dựng trong 7 năm với tổng mức đầu tư 
là 2,4 tỷ USD. Giá thành khi phát điện (chưa 
tính đến chi phí môi trường) là 70 USD/MWh. 
Như vậy để có được 1 KW công suất cần đầu tư 
1.000 USD trong 7 năm. Trong khi đó theo thời 
giá năm 2003 đầu tư cho 1 KW điện gió ở nhiều 
nước Châu Âu cũng vào khoảng 1.000 USD. 
Đáng lưu ý là giá thành này giảm đều hàng năm 
do cải tiến công nghệ. Nếu thời gian sử dụng 
trung bình của mỗi trạm điện gió là 20 năm thì 
chi phí khấu hao cho một KWh điện gió là sẽ 14 
USD. Cộng thêm chi phí thường xuyên thì tổng 
chi phí quản lý và vận hành sẽ nằm trong 
khoảng 48 – 60 USD/MWh, tương đương với 
thủy điện, vốn được coi là nguồn năng lượng rẻ 
và hiệu quả. Theo dự đoán, đến năm 2020 giá 
thành điện gió sẽ giảm đáng kể, chỉ khoảng 600 
USD/KW, khi ấy chi phí quản lý và vận hành 
giảm đáng kể, còn khoảng 30 USD/MWh. 
4.2. Đánh giá dự án đầu tư điện gió 
Trong một dự án điện gió gồm nhiều chi phí 
khác nhau: Chi phí tuabin chiếm khoảng 45%, cột 
chống 25%, lắp đặt 7%, truyền tải điện 8%, quản lý 
dự án 2%, chi khác 13% [7]. Sau đây là một số tính 
toán về kinh tế cho một dự án phong điện (51 MW, 
tổng vốn đầu tư 65 tr. USD, sản lượng điện năm 
150 tr. KWh) theo 3 phương án tính toán của: Đức, 
Việt Nam và Việt Nam + Đức (xem bảng 4). Nhìn 
chung các chỉ tiêu kinh tế như NPV và IRR có thể 
coi là chấp nhận được. 
Bảng 4. So sánh kết quả đánh giá dự án điện gió với các phương pháp và dữ kiện tính 
PA Dữ kiện cơ bản chung của ví dụ tính toán 
 Điện gió có công suất (MW) 51 
 Sản lượng điện năm (tr. KWh/năm) 150 
 Vốn đầu tư (tr. USD) 65 
 Tuổi thọ của dự án (năm) 20 
 Lãi suất chiết khấu (%) 7 
A Tính toán theo phương pháp của Đức 
 Chi phí quản lý vận hành trong 10 năm đầu (%) 4,8 
 Chi phí quản lý vận hành cho 10 năm tiếp theo (%) 6,6 
 Chi phí sửa chữa lớn trong 10 năm đầu (phân bổ đều các năm) (%) 18 
 Chi phí sửa chữa lớn trong 10 năm tiếp theo (phân bổ đều các năm) (%) 36 
 Giá bán điện thi trường Đức(Cents/KWh) 7,5 
 NPV (USD) 354.697 
 IRR (%) 7,1 
B Tính toán theo phương pháp của Việt Nam 
 Chi phí quản lý vận hành (%) 1,5 
 Giá bán điện thi trường Việt Nam (Cents/KWh) 5 
 NPV (USD) 3.808.123 
 IRR (%) 8 
C Tính toán theo phương pháp của Việt Nam và Đức kết hợp 
 Chi phí quản lý vận hành (%) 1,5 
 Chi phí sửa chữa lớn trong 10 năm đầu (phân bổ đều các năm) (%) 18 
 Chi phí sửa chữa lớn trong 10 năm tiếp theo (phân bổ đều các năm) (%) 36 
 Giá bán điện theo giả thiết(Cents/KWh) 6 
 NPV (USD) 2.849.793 
 IRR (%) 8 
4.3. Một số so sánh về tác động ảnh hưởng 
đến môi trường và xã hội 
Xây dựng thủy điện có nhiều tác động ảnh 
hưởng đến môi trường và xã hội như rủi ro do 
vỡ đập, di dân tái định cư, mất đất trồng trọt và 
canh tác truyền thống, mất đất rừng, các tài 
nguyên khoáng sản, các di tích văn hoá,  Còn 
các nhà máy điện hạt nhân thì có nguy cơ rò rỉ 
hạt nhân. Các nhà máy điện chạy nhiên liệu hóa 
thạch thì luôn là những nguyên nhân gây ra ô 
 9 
nhiễm nặng nề do phát thải các chất gây hiệu 
ứng nhà kính. Hơn thế các nguồn nhiên liệu này 
kém ổn định và giá có xu thế tăng cao. Còn 
năng lượng gió được đánh giá là thân thiện nhất 
với môi trường và có ít ảnh hưởng xấu về xã 
hội. Có một số nghiên cứu cho là các trang trại 
gió làm phá vỡ hay làm nát cảnh quan thiên 
nhiên, ảnh hưởng đến việc di chuyển của các 
loài chim,  Nhưng những tác động ảnh hưởng 
này không đáng kể và nếu cần thì có thể di 
chuyển một cách dễ dàng. 
Khi tính đầy đủ cả các chi phí ngoại (chi phí 
phát sinh bên cạnh những chi phí sản xuất 
truyền thống), thì lợi ích của việc sử dụng năng 
lượng gió càng trở nên rõ rệt. Khi sử dụng năng 
lượng gió, người dân không phải chịu thiệt hại 
do thất thu hoa mầu hay tái định cư và cũng 
không phải chịu thêm khoản chi phí y tế và 
chăm sóc sức khỏe do ô nhiễm gây ra. Ngoài ra 
với đặc trưng phân tán và nằm sát khu dân cư, 
năng lượng gió giúp tiết kiệm chi phí truyền tải. 
Hơn nữa, việc phát triển năng lượng gió cần một 
lực lượng lao động có chuyên môn cao như kỹ 
sư hay kỹ thuật 
viên vận hành và 
giám sát. Như vậy 
đã tạo thêm nhiều 
việc làm với kỹ 
năng cao. 
Tại các nước 
Châu Âu, các nhà 
máy điện gió 
không cần đầu tư 
vào đất đai để xây 
dựng các trạm mà 
thuê ngay đất của 
nông dân. Giá thuê 
đất khoảng 20% 
giá thành vận hành 
thường xuyên, đã 
giúp mang lại một 
nguồn thu nhập ổn định cho nông dân, trong khi 
diện tích canh tác bị ảnh hưởng không nhiều. 
Cuối cùng, năng lượng gió giúp đa dạng hóa các 
nguồn năng lượng, là một điều kiện quan trọng để 
tránh phụ thuộc vào một hay một số ít nguồn năng 
lượng chủ yếu; và chính điều này giúp phân tán rủi 
ro và tăng cường an ninh năng lượng. 
5. Kết luận và kiến nghị 
Xu thế chung trên thế giới là sử dụng nhiều 
hơn năng lượng gió trong tương lai khi công 
nghệ đã “chín” và chi phí xây dựng lắp đặt 
không còn “đắt”. Để giải quyết phần nào sự 
thiếu hụt năng lượng do quá trình phát triển kinh 
tế bên cạnh việc tiếp tục khai thác các nguồn 
năng lượng truyền thống Việt Nam nên từng 
bước khai thác năng lượng gió. Để đẩy nhanh 
quá trình khai thác năng lượng tái tạo như năng 
lượng gió, sinh khối, mặt trời thì về tầm vĩ mô 
chúng ta cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau: 
- Nhà nước đề ra Chương trình quốc gia về sử 
dụng năng lượng sạch, trong đó cần có chính 
sách ưu tiên về các mặt công nghệ, thiết bị, tài 
chính, vay vốn, giá mua bán ... cũng như từng 
bước rỡ bỏ độc quyền và cho phép tư nhân tham 
gia kinh doanh điện. 
- Ngành điện Việt Nam cần có chính sách 
thoả đáng về hợp đồng mua bán điện của các 
nhà máy điện gió với giá từ 4,5–5,0 cents/kWh 
phù hợp với giá điện hiện nay của Việt Nam và 
tạo điều kiện cho các nhà máy điện gió tham gia 
hoà mạng quốc gia. 
Giải quyết được các điều cơ bản trên đây, sẽ 
làm tăng nhanh số lượng các nhà máy điện gió ở 
Việt Nam. Trong tương lai không xa, các nhà 
máy điện gió ở Việt Nam hoàn toàn có khả năng 
góp phần vào việc cân bằng năng lượng điện 
của Việt Nam và trước hết góp phần đảm bảo tỉ 
lệ 10-15% sử dụng năng lượng sạch trong tổng 
năng lượng điện của Việt Nam, mà ngành điện 
Việt Nam đã nhất trí ký kết trong hội nghị toàn 
ngành điện của các nước ASEAN năm 2005. 
Về dài hạn, Việt Nam cần xây dựng chiến lược 
và lộ trình phát triển các nguồn năng lượng mới. 
Trong chiến lược này, chi phí kinh tế (gồm cả 
chi chí nội và ngoại về môi trường, xã hội) cần 
Hình 6. Lộ trình phát triển thị trường điện của Việt Nam [8] 
 10 
phải được phân tích một cách kỹ lưỡng, có tính 
đến những phát triển mới về mặt công nghệ, 
cũng như trữ lượng và biến động giá của các 
nguồn năng lượng thay thế. Trong các nguồn 
năng lượng mới này, năng lượng gió nổi lên như 
một lựa chọn xứng đáng, và vì vậy cần được 
đánh giá một cách đầy đủ. Việt Nam có nhiều 
thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Việc 
không đầu tư nghiên cứu và phát triển điện gió 
là một lãng phí lớn trong khi nguy cơ thiếu điện 
luôn thường trực, ảnh hưởng đến tốc độ tăng 
trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia. 
Trong khi đó, hiện nay chiến lược quốc gia về 
điện dường như mới chỉ quan tâm tới nhiệt điện 
và thủy điện lớn. Liệu Việt Nam có thể „đi tắt, 
đón đầu“ trong phát triển năng lượng gió hay 
không phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách 
của nhà nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Danielle Hardie, Wind Energy to the Rescue (presentation), 2007 
[2] Đàm Quang Minh, Vũ Thành Tự Anh, Năng lượng gío Việt Nam, tiềm năng và triển vọng, Bài từ tủ 
sách VLOS 
[3] Geitmann, S.: Erneuerbare Energien und alternative Kraftstoffe (Năng lượng tái tạo và nhiên liệu thay 
thế), Hydrogeit Verlag, 2. Aufl., Jan. 2005 
[4] Mark Z. Jacobson, Solving the Energy, Climate and Air-Quality-Health Crises With Wind, 2006 
[5] Margolick, M., Wind energy – Technology trends and applications in East Asia, 2003 
[6] Mike Kane, Jagmeet S.Kahlon, Peter Spaulding, Dora Yen Nakauji, Wind performance report 
summary, 2006 
[7] M. Chandra Sekhar, M. Ganesh Kumar, L. Pradeep Reddy, R. R. L. V. K. Prasad, Wind energy, 2006 
[8] Ngân hàng thế giới, Chiến lược phát triển ngành Điện - Quản lý tăng trưởng và cải cách, Ngân hàng 
thế giới tại Việt Nam, 2006 
[9] Roger Rivera, Wind power, 2006 
[10] Ton van der Wekken and Fred wien, leonardo ENERGY Webinar: Win Energy (presentation), 2007 
[11] Vũ Mạnh Hà, V ì sao các nhà máy điện gió ở Việt Nam lại chưa được triển khai, 2007 
[12] Vũ Thành Tự Anh , Đàm Quang Minh, Năng l uợng gió kinh nghiệm phát triển của một số nước, 
Tạp chí tia sáng, 2007 
[13] -, Điện bằng sức gió - kho báu đang chờ, Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng tiết kiệm năng 
lượng và hiệu quả.html, www.eec.moi.gov.vn 
[14] -, WINDPOWER MONTHLY 04/2005,  
[15] Nguyễn Tuấn Anh, Năng lượng gió - Hướng đi và chính sách thích hợp để áp dụng ở Việt Nam dưới 
giác độ kinh tế và môi trường, Báo cáo NCKH sinh viên lần thứ IXX, Đại học thuỷ lợi, 05.2007 
Summary 
APPLICATION OF WIND ENERGY – THE GENERAL TREND 
AND ECONOMIC AND ENVIRONMENTAL ASSESSMENT 
Associate Prof. Dr. habil NGUYEN TRUNG DUNG 
NGUYEN TUAN ANH, 45K - Water Resources University 
Abstract: Today the wind energy, one of the important renewable energies, is widely used as the 
equipments are producing in mass, the installing technologies are completing and today the cost for 
construction of 1 wind energy station is only ¼ in comparison with 1986. The industrialized countries have 
developed strategies for using intensively the wind energy in the future and step by step substituting the 
traditional energy sources such as coal, hydropower, nuclear,  In this paper the application of wind 
energy, the general trend in the world and the economic and environmental assessment are considered as 
well as some proposals for development of wind energy in Vietnam. 
Ng­êi ph¶n biÖn: TS. Bïi V¨n Høc 

File đính kèm:

  • pdfung_dung_nang_luong_gio_xu_the_chung_va_danh_gia_duoi_goc_do.pdf