Ứng dụng mô hình WRF- CMAQ đánh giá lắng đọng a-xít ở Việt Nam
Lắng đọng a-xít là một trong những vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng không chỉ vì mức độ
ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng tới cuộc sống con người và hệ sinh thái mà còn vì tác động của chúng đã vượt
ra khỏi phạm vi kiểm soát của mỗi quốc gia và các nhà khoa học đang phải xem xét ảnh hưởng của chúng ở quy
mô khu vực và toàn cầu. Lắng đọng a-xít xảy ra dưới hai hình thức khác nhau, đó là quá trình lắng đọng khô và
lắng đọng ướt. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu ứng dụng hệ thống mô hình WRF-CMAQ phục vụ đánh giá
lắng đọng a-xít ướt và khô trên quy mô toàn lãnh thổ Việt Nam. Các kết quả đánh giá mức độ lắng đọng ướt
và khô được thực hiện vào các tháng đại diện là tháng 1, 4, 7, 10 cho cả thời kỳ 2010-2015.
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng mô hình WRF- CMAQ đánh giá lắng đọng a-xít ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng mô hình WRF- CMAQ đánh giá lắng đọng a-xít ở Việt Nam
ỨNG DỤNG MÔ HÌNH WRF-CMAQ ĐÁNH GIÁ LẮNG ĐỌNG A-XÍT Ở VIỆT NAM Lê Văn Quy, Ngô Thị Vân Anh, Lê Văn Linh Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu Ngày nhận bài: 15/10/2018; ngày chuyển phản biện: 17/10/2018; ngày chấp nhận đăng: 24/11/2018 Tóm tắt: Lắng đọng a-xít là một trong những vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng không chỉ vì mức độ ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng tới cuộc sống con người và hệ sinh thái mà còn vì tác động của chúng đã vượt ra khỏi phạm vi kiểm soát của mỗi quốc gia và các nhà khoa học đang phải xem xét ảnh hưởng của chúng ở quy mô khu vực và toàn cầu. Lắng đọng a-xít xảy ra dưới hai hình thức khác nhau, đó là quá trình lắng đọng khô và lắng đọng ướt. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu ứng dụng hệ thống mô hình WRF-CMAQ phục vụ đánh giá lắng đọng a-xít ướt và khô trên quy mô toàn lãnh thổ Việt Nam. Các kết quả đánh giá mức độ lắng đọng ướt và khô được thực hiện vào các tháng đại diện là tháng 1, 4, 7, 10 cho cả thời kỳ 2010-2015. Từ khóa: WRF-CMAQ, lắng đọng a-xít, lắng đọng khô, lắng đọng ướt, Việt Nam. 1. Mở đầu sát lắng đọng ướt - mưa a-xít. Phương pháp Lắng đọng a-xít là một quá trình mà các chất giám sát lắng đọng a-xít chủ yếu là đo đạc, ô nhiễm có tính a-xít trong khí quyển rơi xuống phân tích thành phần hóa nước mưa. Việt Nam bề mặt trái đất. Lắng đọng a-xít được tạo thành là một thành viên của mạng lưới giám sát lắng trong điều kiện khí quyển bị ô nhiễm do sự phát đọng a-xít Đông Á (EANET) và hiện tại có 7 trạm giám sát lắng đọng a-xít (Hà Nội, Hòa Bình, Cúc thải quá mức các khí SO2, NOx, CO [1]. Lắng đọng a-xít xảy ra theo hai hình thức, đó là lắng Phương, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, đọng ướt và lắng đọng khô. Lắng đọng ướt là Yên Bái) [9]. Phương pháp mô hình mô phỏng lan truyền, quá trình a-xít H2SO4 và a-xít HNO3 được ngưng tụ cùng với hơi nước trong những đám mây và lắng đọng ô nhiễm không khí đang ngày càng rơi xuống mặt đất dưới các hình thức như mưa, phát triển trên thế giới, phương pháp này phù tuyết, sương mù. Khi trong nước mưa có chứa hợp với việc đánh giá ở quy mô không gian lớn một lượng a-xít làm cho pH nước mưa nhỏ hơn (quốc gia, khu vực, toàn cầu). 5,6 thì được gọi là mưa a-xít. Lắng đọng khô xảy 2. Hiện trạng lắng đọng a-xít ra trong những ngày không mưa, không khí có Lượng lắng đọng ướt tại các trạm phụ thuộc chứa các a-xít H2SO4 và a-xít HNO3 dạng khí hoặc vào mức độ ô nhiễm không khí và điều kiện thời sol khí được gió vận chuyển đi rồi lắng xuống tiết (đặc biệt là lượng mưa) tại khu vực đó. Kết mặt đất, cây cối, nhà cửa, công trình và có thể quả quan trắc tại các trạm EANET Việt Nam cho xâm nhập vào cơ thể con người qua đường hô 2- - thấy lượng lắng đọng ướt nss-SO4 , NO3 tại Hà hấp [8]. Quá trình lắng đọng khô phụ thuộc vào Nội có xu hướng tăng vào mùa mưa (từ tháng 4 kích thước hạt chất ô nhiễm (khí, sol khí), điều đến tháng 10) và giảm vào mùa khô (từ tháng 11 kiện khí tượng và điều kiện mặt đệm (bề mặt đến tháng 3 năm sau) (Hình 1, Hình 2). hứng chịu lắng đọng a-xít). 2- Tại Đà Nẵng, lượng lắng đọng ướt nss-SO4 , Hiện tại, ở Việt Nam số lượng trạm giám sát - NO3 tăng từ tháng 9 đến tháng 12, đỉnh điểm lắng đọng a-xít còn hạn chế và chủ yếu là giám vào tháng 12 năm 2011 do có lượng mưa cao đột biến (3.500mm) dẫn đến lượng lắng đọng Liên hệ tác giả: Ngô Thị Vân Anh - 2 của các ion cũng rất cao: NO3 (28,32mmol/m ), Email: vananhmd@gmail.com 2- 2 nss-SO4 (25,25mmol/m ) (Hình 3, Hình 4). Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu 31 Số 8 - Tháng 12/2018 Hình 1. Sự biến đổi lượng lắng đọng Hình 2. Sự biến đổi lượng lắng đọng 2- - nss-SO4 theo mùa tại trạm Hà Nội NO3 theo mùa tại trạm Hà Nội Hình 3. Sự biến đổi lượng lắng đọng Hình 4. Sự biến đổi lượng lắng đọng 2- - nss-SO4 theo mùa tại trạm Đà Nẵng NO3 theo mùa tại trạm Đà Nẵng 3. Phương pháp nghiên cứu và số liệu đầu vào về mô hình chất lượng không khí, bao gồm khí 3.1. Mô hình WRF ôzôn trên tầng đối lưu, độc tố, bụi mịn, lắng đọng a-xít, suy giảm tầm nhìn. CMAQ cũng được Mô hình nghiên cứu và dự báo thời tiết WRF thiết kế đa quy mô để khỏi phải tạo ra các mô là mô hình được phát triển từ những đặc tính hình riêng biệt cho vùng đô thị hay nông thôn. ưu việt nhất của mô hình MM5 với sự cộng tác Độ phân giải và kích thước miền tính có thể của nhiều cơ quan tổ chức lớn trên thế giới [5]. khác nhau một vài bậc đại lượng theo không WRF là một hệ thống bao gồm nhiều mô đun gian và thời gian. Tính mềm dẻo theo thời gian khác nhau, linh hoạt và tối ưu cho cả mục đích cho phép thực hiện các mô phỏng nhằm đánh nghiên cứu cũng như chạy nghiệp vụ, cho phép sử dụng các tùy chọn khác nhau đối với tham số giá dài hạn của các chất ô nhiễm (trung bình hóa các quá trình vật lý và thường xuyên được khí hậu) hay lan truyền hạn ngắn mang tính địa cập nhật các phiên bản mới. Hiện tại, WRF có phương. Tính mềm dẻo theo không gian cho hai phiên bản là phiên bản nghiên cứu nâng cao phép sử dụng CMAQ để mô phỏng quy mô đô ARW (Advanced Research WRF) cho phép người thị hay khu vực [6]. sử dụng có thể đưa hệ thống đồng hóa số liệu 3.3. Thuật toán tính lắng đọng a-xít 3DVAR vào mô hình và phiên bản mô hình qui Lắng đọng khô mô vừa phi thủy tĩnh NMM (Nonhydrostatic Lắng đọng khô tượng trưng cho việc loại bỏ Meso Model). các chất ô nhiễm từ khí quyển xuống bề mặt trái 3.2. Mô hình CMAQ đất [4]. Sự phức tạp của các yếu tố ảnh hưởng CMAQ là hệ thống mô hình có khả năng mô đến mức độ vận chuyển, vận tốc lắng đọng, phỏng các quá trình khí quyển phức tạp ảnh làm cho quá trình khái quát hóa gặp khó khăn. hưởng tới biến đổi, lan truyền và lắng đọng có CMAQ thông qua phương pháp ước lượng lắng giao diện thân thiện với người sử dụng. CMAQ đọng khô từ Wesley [5] và Walcek [6]. Dòng lắng tiếp cận chất lượng không khí một cách tổng đọng khô của chất khí và các hạt vật chất được quát với các kỹ thuật hiện đại trong các vấn đề tính bằng tích của nồng độ chất ô nhiễm trong 32 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu Số 8 - Tháng 12/2018 không khí và tốc độ lắng đọng: Trong đó: i Dw 2 F = Vd X C : Lượng lắng đọng ướt (mmol/m /tháng) i i P: Tổng lượng mưa tháng (mm) Trong đó: Fi là lượng lắng đọng; Vd là tốc độ ∧ C : Nồng độ ion trung bình tháng (µmol/L) lắng đọng; Ci là nồng độ ion trung bình ngày. Theo Walcek (1987) ước lượng tốc độ lắng Ci: Nồng độ ion trung bình ngày (µmol/L) đọng cần xem xét các yếu tố khí tượng, sử dụng Pi : Tổng lượng mưa ngày i (mm) đất - bề mặt đệm. Mô hình CMAQ đánh giá 3.4. Số liệu đầu vào sự ổn định và bất ổn định bằng cách sử dụng Miền lưới tính: Bài báo thực hiện mô phương pháp trở kháng khí động học: phỏng WRF phục vụ xây dựng dữ liệu khí tượng đầu vào cho CMAQ. Do đó, miền tính của WRF bao phủ toàn bộ miền tính của CMAQ và được xác định trong khoảng 5-28 Trong đó: Vd là tốc độ lắng đọng; ra là trở vĩ độ Bắc và từ 95-130 kinh độ Đông bao phủ kháng khí động học (aerodynamic resistance), rb toàn bộ Biển Đông, một phần Tây Bắc Thái là trở kháng đoạn tầng; rc là trở kháng bề mặt. Lắng đọng ướt Bình Dương, vịnh Bengan, vịnh Thái Lan, Nam Lượng lắng đọng ướt (Dw) được tính như Trung Quốc. Miền tính có độ phân giải 13km, sau [9]: ^ với kích thước lưới 300x196 mô phỏng được Dw= C × P /100 các quá trình quy mô vừa như gió mùa Đông ^ Bắc vào mùa đông và gió mùa Tây Nam vào C=∑∑( CPii) / P i mùa hè (Hình 5). Hình 5. Miền lưới tính trong mô hình Số liệu khí tượng: Trong nghiên cứu này sẽ giải 1km. sử dụng mô hình WRF mô phỏng lại các trường Số liệu phát thải: Số liệu phát thải được cập khí tượng cho khu vực Biển Đông và đất liền Việt nhật bổ sung trong nghiên cứu này được cung Nam với số liệu tái phân tích từ NCAR. Dữ liệu cấp từ nguồn số liệu kiểm kê phát thải cho khu khí tượng tái phân tích từ toàn cầu với độ phân vực Châu Á (REAS) được thực hiện bởi Trung giải 1ox1o được tải về tại website: rda.ucar.edu/ Tâm Nghiên cứu Biến đổi Toàn cầu (FRCGC) và datasets/ds083.2/. Cục Khoa học Kỹ thuật Biển - Địa cầu Nhật Bản. Số liệu sử dụng đất: Dữ liệu về 25 loại đất Số liệu kiểm kê được cập nhật đến năm 2008 với sử dụng trong nghiên cứu được cung cấp bởi độ phân giải 0,25o x 0,25o (phiên bản 2.1) bao Trung Tâm nghiên cứu Địa chất Hoa Kỳ (USGS). gồm các chất như: SO2, NOx, NH3, CO, NMVOC, Dữ liệu đất sử dụng từ USGS là cơ sở dữ liệu BC (các-bon đen) từ các nguồn đốt và NOx, NH3, đặc trưng cho đất bao phủ toàn cầu độ phân N2O, CH4 từ nguồn sinh học. Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu 33 Số 8 - Tháng 12/2018 4. Kết quả và thảo luận độ của các trạm này. Biến trình nồng độ SO mô phỏng từ hệ 4.1. Kết quả kiểm định mô hình 2 thống mô hình WRF-CMAQ khá phù hợp với Để đánh giá mức độ tin cậy của mô hình, các số liệu quan trắc tự động trung bình giờ số liệu thực đo từ ngày 1-15 tháng 1 năm 2014 tại các trạm: Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội, Phú tại trạm Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội. Mức tương Thọ, Huế và Khánh Hòa trong tháng 1, tháng quan giữa 2 chuỗi giá trị quan trắc và mô hình 7 và tháng 8 năm 2014 (Nguồn: Tổng cục Môi đạt r=0,46. Biến trình nồng độ SO2 mô phỏng từ trường) sẽ được so sánh với các nồng độ mô mô hình trong khoảng từ 15-30µg/m3 vào tháng phỏng từ hệ thống mô hình WRF-CMAQ ở tọa 1/2014 (Hình 6). Hình 6. Nồng độ SO2 trung bình giờ tháng 1/2014 thực đo và mô hình tại trạm Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội Trong Hình 7 thể hiện biến trình nồng độ thường thấp hơn giá trị quan trắc. Hệ số tương NO2 giữa tính toán và thực đo. Biến trình và giá quan giữa 2 chuỗi quan trắc và mô hình r = 0,50 trị nồng độ NO2 mô phỏng từ mô hình khá phù (tháng 1) và r = 0,47 (tháng 7). Biến trình nồng hợp với chuỗi số liệu quan trắc tại trạm Nguyễn độ NO2 mô phỏng từ mô hình trong khoảng từ Văn Cừ. Tuy nhiên, có thể nhận thấy trong cả 5-80µg/m3 vào tháng 1 và từ 15-35µg/m3 vào thời đoạn tính toán, giá trị nồng độ từ mô hình tháng 7/2014. Hình 7. Nồng độ NO2 trung bình giờ thực đo và mô hình tại trạm Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội: tháng 1/2014 (trên), tháng 7/2014 (dưới) 34 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu Số 8 - Tháng 12/2018 Hình 8 thể hiện biến trình nồng độ SO2 giữa mô trong khoảng giá trị nồng độ quan trắc tại trạm. hình và quan trắc tại trạm Huế. Nhìn chung, chuỗi Biến trình nồng độ SO2 mô phỏng từ mô hình trong 3 giá trị nồng độ SO2 mô phỏng từ mô hình nằm khoảng từ 5-20µg/m vào tháng 7/2014. Hình 8. Nồng độ SO2 trung bình giờ thực đo và mô hình tại trạm Huế tháng 7/2014 Hình 9 thể hiện biến trình nồng độ NO2 giữa hình nằm trong khoảng giá trị nồng độ quan trắc tại mô hình và quan trắc tại trạm Thừa Thiên Huế. Hệ trạm. Biến trình nồng độ NO2 mô phỏng từ mô hình thống mô hình WRF-CMAQ mô phỏng khá tốt, với trong khoảng từ 5-35µg/m3 vào tháng 01/2014; từ 3 kết quả chuỗi giá trị nồng độ NO2 mô phỏng từ mô 5-20µg/m vào tháng 7/2014. Hình 9. Nồng độ NO2 trung bình giờ thực đo và mô hình tại trạm Huế: tháng 1/2014 (trên), tháng 7/2014 (dưới) Hình 10 thể hiện biến trình nồng độ NO2 giữa quan trắc tại trạm. Biến trình nồng độ NO2 mô mô hình và quan trắc tại trạm Khánh Hòa. Mô phỏng từ mô hình trong khoảng từ 5-25µg/m3 hình mô phỏng khá tốt khoảng giá trị nồng độ vào tháng 7 năm 2014. Hình 10. Nồng độ NO2 trung bình giờ thực đo và mô hình tại trạm Khánh Hòa tháng 7/2014 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu 35 Số 8 - Tháng 12/2018 Sau khi kiểm nghiệm hệ thống mô hình WRF- các tháng thời kỳ 2010-2015 có xu hướng cao CMAQ, nghiên cứu thực hiện mô phỏng đánh vào các tháng mùa mưa (tháng 7 và tháng 10); giá phân bố lắng đọng a-xít cho Việt Nam vào và thấp vào các tháng mùa khô (tháng 1 và trong thời kỳ 2010-2015. tháng 4). Tổng lượng lắng đọng tháng 10 cao 4.2. Kết quả đáng giá lắng đọng a-xít hơn hẳn tháng 1 (cao hơn 4 lần tại khu vực Quận 1). Tuy nhiên, một số khu vực như Hòa Bình, a) Lắng đọng ướt SO 2- 4 Cúc Phương, Ninh Kiều không thấy rõ xu thế này 2- Tổng lượng lắng đọng ướt SO4 trung bình (Hình 11). 2- Hình 11. Tổng lượng lắng đọng ướt SO4 trung bình các tháng thời kỳ 2010-2015 2- 2- Tổng lượng lắng đọng ướt SO4 theo các năm SO4 xảy ra ở Hòa Bình và Cúc Phương. Tổng thời kỳ 2010-2015 có xu thế giảm ở hầu hết các lượng lắng đọng cao nhất vào năm 2010 (tổng 4 vị trí đánh giá trên cả nước. Trong giai đoạn này, tháng) tại khu vực Quận 1 - TP. Hồ Chí Minh, với xu thế tăng đáng kể tổng lượng lắng đọng ướt tổng lượng lắng đọng 34kg/ha (Hình 12). 2- Hình 12. Tổng lượng lắng đọng ướt SO4 theo các năm thời kỳ 2010-2015 - b) Lắng đọng ướt NO3 và thấp vào các tháng mùa khô (tháng 1 và tháng - 4). Tổng lượng lắng đọng tháng 10 cao hơn hẳn Tổng lượng lắng đọng ướt NO3 trung bình các tháng thời kỳ 2010-2015 có xu hướng cao tháng 01 (cao hơn 5 lần tại khu vực Quận 1 - TP. vào các tháng mùa mưa (tháng 7 và tháng 10); Hồ Chí Minh) (Hình 13). - Hình 13. Tổng lượng lắng đọng ướt NO3 theo các năm thời kỳ 2010-2015 36 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu Số 8 - Tháng 12/2018 - - Tổng lượng lắng đọng ướt NO3 theo các năm NO3 xảy ra ở Cúc Phương. Tổng lượng lắng đọng thời kỳ 2010-2015 có xu thế giảm ở hầu hết các cao nhất vào năm 2010 (tổng 4 tháng) tại khu vị trí đánh giá trên cả nước. Trong giai đoạn này, vực Hóc Môn - TP. Hồ Chí Minh, với tổng lượng xu thế tăng đáng kể tổng lượng lắng đọng ướt lắng đọng 11,8kg/ha (Hình 14). - Hình 14. Tổng lượng lắng đọng ướt NO3 theo các năm thời kỳ 2010-2015 Hình 15. Tổng lượng lắng đọng khô SO2 trung bình các tháng thời kỳ 2010-2015 c) Lắng đọng khô SO2 nhiên, trong thời kỳ này, tại khu vực Quận 1 và Hóc Môn có tổng lượng lắng đọng khô cao vào Tổng lượng lắng đọng khô SO2 trung bình các tháng thời kỳ 2010-2015 có xu hướng thấp vào tháng 7 và tháng 10. Đặc biệt, tổng lượng lắng các tháng mùa mưa (tháng 7 và tháng 10) và cao đọng tháng 10 cao hơn hẳn tháng 1 (cao hơn vào các tháng mùa khô (tháng 1 và tháng 4). Tuy 1,75 lần tại khu vực Quận 1) (Hình 15). Hình 16. Tổng lượng lắng đọng khô SO2 theo các năm thời kỳ 2010-2015 Tổng lượng lắng đọng khô SO2 (tổng 4 tháng d) Lắng đọng khô NO2 1, 4, 7, 10) theo các năm thời kỳ 2010-2015 có xu Tổng lượng lắng đọng khô NO trung bình thế giảm tất cả các vị trí lựa chọn đánh giá trên cả 2 các tháng thời kỳ 2010-2015 có xu hướng thấp nước. Trong giai đoạn này, một số khu vực có tổng lượng lắng đọng lớn bao gồm quận 1, Hóc Môn, vào các tháng 4 và 7; cao vào tháng 1 và tháng Gia Lâm và Thanh Xuân. Tổng lượng lắng đọng cao 10. Tổng lượng lắng đọng trung bình tháng 1 nhất vào năm 2013 tại khu vực Quận 1 - TP. Hồ Chí cao nhất tại khu vực Quận 1 - TP. Hồ Chí Minh, Minh, với tổng lượng lắng đọng 24kg/ha (Hình 16). với tổng lượng lắng đọng 1,45kg/ha/tháng Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu 37 Số 8 - Tháng 12/2018 (Hình 17). Trong giai đoạn này, một số khu vực có tổng Tổng lượng lắng đọng khô NO2 (tổng 4 tháng lượng lắng đọng lớn gồm: Quận 1 - TP. Hồ Chí 1, 4, 7, 10) theo các năm thời kỳ 2010-2015 có Minh, Gia Lâm và Thanh Xuân - Hà Nội. Tổng xu thế giảm hầu hết các vị trí lựa chọn đánh giá lượng lắng đọng cao nhất vào năm 2013 tại khu trên cả nước. Một số khu vực có tổng lượng lắng vực Quận 1 - TP. Hồ Chí Minh, với tổng lượng đọng tăng nhẹ gồm: Liên Chiểu và Nha Trang. lắng đọng 3,9kg/ha (Hình 18). Hình 17. Tổng lượng lắng đọng khô NO2 trung bình các tháng thời kỳ 2010-2015 Hình 18. Tổng lượng lắng đọng khô NO2 theo các năm thời kỳ 2010-2015 e) Phân bố tổng lượng lắng đọng nitơ lượng lắng đọng ướt S chiếm khoảng 40-50% Bản đồ phân bố tổng lượng lắng đọng a-xít tổng lượng lắng đọng (Hình 20). năm thể hiện theo tổng lượng lắng đọng lưu 4. Kết luận huỳnh (S) được tính từ tổng lượng lắng đọng Nghiên cứu ứng dụng thành công hệ thống 2- ướt của SO4 và tổng lượng lắng đọng khô của mô hình WRF-CMAQ phục vụ mô phỏng lắng SO2 ; tổng lượng lắng đọng nitơ (N) được tính đọng a-xít tại Việt Nam. Kết quả mô phỏng cho từ tổng lượng lắng đọng ướt của NO - và tổng 3 thấy, tổng lượng lắng đọng khô SO2, NO2 theo lượng lắng đọng khô của NO2 trong 12 tháng của các năm thời kỳ 2010-2015 có xu thế giảm tất cả năm 2015. các vị trí lựa chọn đánh giá trên cả nước. Trong Phân bố lắng đọng nitơ (N) tập trung chủ yếu giai đoạn này, một số khu vực có tổng lượng tại khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng lắng đọng lớn gồm: Quận 1 - TP. Hồ Chí Minh, sông Cửa Long. Lượng lắng đọng N lớn nhất tại Hóc Môn, Gia Lâm và Thanh Xuân - Hà Nội. Tổng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, với mức giá trị trong lượng lắng đọng (tổng 4 tháng 1, 4, 7, 10) cao khoảng 7-8kg/ha/năm. Trong đó, tổng lượng nhất vào năm 2013 tại khu vực Quận 1 - TP. Hồ lắng đọng ướt N chiếm khoảng 50-60% tổng Chí Minh, với tổng lượng lắng đọng 24kg/ha đối lượng lắng đọng (Hình 19). với SO2 và 3,9kg/ha đối với NO2. 2- - Phân bố lắng đọng lưu huỳnh (S) tập trung Tổng lượng lắng đọng ướt SO4 và NO3 theo chủ yếu tại khu vực đồng bằng sông Hồng và các năm thời kỳ 2010-2015 có xu thế giảm ở hầu đồng bằng sông Cửa Long. Lượng lắng đọng lưu hết các vị trí đánh giá trên cả nước. Trong giai huỳnh lớn nhất tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đoạn này, xu thế tăng đáng kể tổng lượng lắng 2- trong khoảng 30-50kg/ha/năm. Trong đó, tổng đọng ướt SO4 xảy ra ở Hòa Bình và Cúc Phương. 38 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu Số 8 - Tháng 12/2018 Hình 19. Phân bố tổng lượng lắng đọng Hình 20. Phân bố tổng lượng lắng đọng nitơ (N) năm 2015 ở Việt Nam lưu huỳnh (S) năm 2015 ở Việt Nam Tổng lượng lắng đọng (tổng 4 tháng 1, 4, 7, 10) Hồ Chí Minh, với tổng lượng lắng đọng 34kg/ha 2- - cao nhất vào năm 2010 tại khu vực Quận 1 - TP. đối với SO4 và 11,8kg/ha đối với NO3 . Bài báo là sản phẩm của đề tài Nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ "Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và lập bản đồ phân bố lắng đọng a-xít ở Việt Nam”. Tài liệu tham khảo 1. Dương Hồng Sơn, Trần Thị Diệu Hằng (2012), Mưa a-xít trên thế giới và Việt Nam, NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Báo cáo môi trường quốc gia 2013 - Môi trường không khí. 3. Phạm Thị Thu Hà (2014), Nghiên cứu đánh giá lắng đọng a-xít ở vùng đồng bằng sông Hồng Việt Nam, Luận án tiến sỹ. 4. Trần Thị Diệu Hằng (2005), “Bước đầu đánh giá tình hình lắng đọng a-xít ở Việt Nam”, Tuyển tập báo cáo hội thảo khoa học lần thứ 9, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, tr. 395-399. 5. www.wrf-model.org - Weather research and forecasting model. 6. CMAQ User’s Mannual. 7. Wesley, (1989), Parameterizations of surface resistances to gaseous dry deposition in regional scale numerical models, Atmospheric Environment, 23, 1293-1304. 8. Viện Khí tượng Thủy văn (2002), Hỏi đáp về lắng đọng a-xít, NXB Nông nghiệp. 9. www.eanet.asia. Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu 39 Số 8 - Tháng 12/2018 APPLICATION OF THE WRF-CMAQ MODEL SYSTEM FOR ACID DEPOSITION ASSESSMENT IN VIET NAM Le Van Quy, Ngo Thi Van Anh, Le Van Linh Viet Nam Institute of Meteorology Hydrology and Climate change Received: 15/10/2018; Accepted: 24/11/2018 Abstract: Acid deposition is one of the serious environmental pollution issues because of not only its impact severity on human life and ecosystems, but also its impact scale. The impact of acid deposition extends beyond the control of an single country, thus scientists are considering its impact in regional and global scale. Acid deposition occurs in two different forms: Dry deposition and wet deposition. This article presents results on application of WRF-CMAQ model system for assessing wet and dry acid deposition in Viet Nam. Assessment of wet and dry deposition levels are conducted in January, April, July, October for the period of 2010-2015. Keywords: WRF-CMAQ model, acid deposition, dry depostion, wet deposition, Viet Nam. 40 Tạp chí khoa học biến đổi khí hậu Số 8 - Tháng 12/2018
File đính kèm:
- ung_dung_mo_hinh_wrf_cmaq_danh_gia_lang_dong_a_xit_o_viet_na.pdf