U xơ đơn độc: Báo cáo hai ca bệnh và vai trò của dấu ấn hoá mô miễn dịch mới stat6 trong chẩn đoán mô bệnh học
U xơ đơn độc (Solitary fibrous tumor -SFT) là một u trung mô hiếm gặp có thể bắt nguồn từ bất kỳ vị trí giải
phẫu nào. Về mặt tiềm năng sinh học, chúng được xếp vào nhóm trung gian ác tính và nguy cơ di căn thấp hoặc
ác tính, theo WHO (2013). Mô bệnh học đa dạng, việc chẩn đoán xác định có thể gặp khó khăn, các dấu ấn hoá mô
miễn dịch thường được dùng để hỗ trợ chẩn đoán như CD34, Bcl2, CD99 là không đủ độ nhạy và đặc hiệu. Cho
tới gần đây, dấu ấn hoá mô miễn dịch mới STAT6 đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán u này. Chúng tôi báo
cáo hai ca bệnh u xơ đơn độc nhằm mô tả một số đặc điểm mô bệnh học của u xơ đơn độc và hồi cứu y văn về vai
trò của STAT6 trong chẩn đoán.
Bạn đang xem tài liệu "U xơ đơn độc: Báo cáo hai ca bệnh và vai trò của dấu ấn hoá mô miễn dịch mới stat6 trong chẩn đoán mô bệnh học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: U xơ đơn độc: Báo cáo hai ca bệnh và vai trò của dấu ấn hoá mô miễn dịch mới stat6 trong chẩn đoán mô bệnh học
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015 210 U XƠ ĐƠN ĐỘC: BÁO CÁO HAI CA BỆNH VÀ VAI TRÒ CỦA DẤU ẤN HOÁ MÔ MIỄN DỊCH MỚI STAT6 TRONG CHẨN ĐOÁN MÔ BỆNH HỌC Nguyễn Cảnh Hiệp*, Nguyễn Văn Hưng** TÓM TẮT U xơ đơn độc (Solitary fibrous tumor -SFT) là một u trung mô hiếm gặp có thể bắt nguồn từ bất kỳ vị trí giải phẫu nào. Về mặt tiềm năng sinh học, chúng được xếp vào nhóm trung gian ác tính và nguy cơ di căn thấp hoặc ác tính, theo WHO (2013). Mô bệnh học đa dạng, việc chẩn đoán xác định có thể gặp khó khăn, các dấu ấn hoá mô miễn dịch thường được dùng để hỗ trợ chẩn đoán như CD34, Bcl2, CD99 là không đủ độ nhạy và đặc hiệu. Cho tới gần đây, dấu ấn hoá mô miễn dịch mới STAT6 đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán u này. Chúng tôi báo cáo hai ca bệnh u xơ đơn độc nhằm mô tả một số đặc điểm mô bệnh học của u xơ đơn độc và hồi cứu y văn về vai trò của STAT6 trong chẩn đoán. Từ khoá: U xơ đơn độc, STAT6. ABSTRACT SOLITARY FIBROUS TUMOR: TWO CASE REPORT AND THE UTILITY OF A NEW IMMUNOHISTOCHEMISTRY MARKER STAT6 IN HISTOPATHOLOGICAL DIAGNOSIS Nguyen Canh Hiep, Nguyen Van Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 5 - 2015: 210 - 215 Solitary fibrous tumor (SFT) is a rare mesenchymal tumour of fibroblastic type, which can originate from any anatomical sites. Biologially, they are classified as tumors with intermediate malignancy and rarely metastatic potential, or malignancy according to WHO classification (2013). Histopathological features are variable and supportive immunohistochemical markers such as CD34, CD9 and BCL2, which are commonly applied in the differential diagnosis of SFTs, although none is sufficiently sensitive or specific enough. Until recently, a new immunohistochemistry marker, STAT6, is shown to play an important role in diagnosis of these tumors. We reported two SFT cases in order to describe some histopathological features of SFT and review the utility of STAT6 as a diagnostic marker. Key words: Solitary fibrous tumor, STAT6. GIỚI THIỆU U xơ đơn độc (Solitary fibrous tumor -SFT) là một u trung mô hiếm gặp có thể bắt nguồn từ bất kỳ vị trí giải phẫu nào, tỷ lệ mắc khoảng 0,2 ca/100.000 dân hàng năm(1), thuộc nhóm các u nguyên bào xơ(6). U này được đề cập đến lần đầu tiên năm 1931 bởi Klemperer và Rabin, như là một loại của u trung biểu mô màng phổi. Một số SFT, sau đó, được đề cập đến duới thuật ngữ u tế bào quanh mạch (hemangiopericytoma- HPC)(1), tuy nhiên thuật ngữ này đã bị loại bỏ trong phân loại mới nhất của tổ chức y tế thế giới (World Health Organization – WHO) năm 2013(6). Về mặt tiềm năng sinh học, chúng được xếp vào nhóm trung gian ác tính (intermediate malignancy) và nguy cơ di căn thấp hoặc ác tính, theo WHO (2013). Các đặc điểm của khối u ác tính bao gồm: mật độ tế bào cao, tăng tỷ lệ nhân chia (≥ 4 nhân chia/10 vi trường độ phóng đại lớn), nhân đa hình thái, hoại tử u và xâm nhập bờ khối u(6). * Trung tâm Gải Phẫu Bệnh, Bệnh Viện Bạch Mai, ** Bộ môn Giải Phẫu Bệnh, Đại học Y Hà Nội Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Cảnh Hiệp ĐT: Email: dr.nguyenhiep@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học 211 Về mặt mô bệnh học, mặc dù, với các đặc điểm cấu trúc điển hình như: kết hợp giữa vùng giàu tế bào và nghèo tế bào, ngăn cách nhau bởi các dải xơ collagen dày, kính hoá và các mạch máu thành mỏng chia nhánh dạng u tế bào quanh mạch (HPC-like); kèm dương tính tỷ lệ cao (90-95% số ca) với dấu ấn CD34 có thể giúp thiết lập chẩn đoán(6,7,10). Tuy nhiên, chẩn đoán xác định SFT nhiều khi có thể gặp khó khăn, bởi vì các đặc điểm mô bệnh học nêu trên là không đặc hiệu, sự bộc lộ CD34 cũng thường gặp trong các u khác như u vỏ bào thần kinh ngoại vi (perineurinoma), sarcôm xơ bì lồi, u mỡ tế bào hình thoi. SFT cũng phản ứng dương tính với EMA, CD99, Bcl2, Desmin, S100 tuy nhiên các dấu ấn này cũng không đặc hiệu, đặc biệt với các SFT âm tính với CD34 càng gây khó khăn trong việc chẩn đoán. Chỉ đến những năm gần đây, nhờ phân tích gen, người ta đã phát hiện một gen dung hợp mới (fusion gene), NAB2-STAT6 được tìm thấy trong hầu hết các SFT và đặc hiệu cho loại u này. Sau đó, dấu ấn hoá mô miễn dịch (HMMD) STAT6, bộc lộ ở nhân tế bào, được chứng minh là một phương tiện chẩn đoán hiệu quả để phát hiện gen dung hợp này(2,3,6,7,10). Chúng tôi báo cáo hai ca bệnh u xơ đơn độc; trong đó một ca SFT ác tính, âm tính với dấu ấn CD34 nhằm mô tả một số đặc điểm mô bệnh học của SFT và hồi cứu y văn về vai trò của STAT6 trong chẩn đoán loại u này. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Hai ca bệnh u xơ đơn độc Phương pháp Báo cáo loạt ca bệnh KẾT QUẢ Ca bệnh thứ nhất Lâm sàng Bệnh nhân nữ 38 tuổi vào viện với khối u vùng khoeo chân trái, chẩn đoán lâm sàng: u xơ thần kinh khoeo chân trái. Giửi làm xét nghiệm mô bệnh học ngày 29/05/2015. Giải phẫu bệnh Đại thể Khối u kích thước 9x5x4 cm, ranh giới khá rõ, không có vỏ, điện cắt màu vàng nhạt xen lẫn nâu đỏ. Vi thể U xen kẽ các vùng giàu tế bào và nghèo tế bào ngăn cách nhau bởi các bó xơ collagen dày kính hoá và các mạch máu thành mỏng chia nhánh dạng sừng hươu. Tế bào u hình bầu dục hoặc hình thoi, bào tương hẹp, ranh giới tế bào không rõ. Nhân khá đơn dạng, chất nhiễm sắc phân tán, một số có hốc. Mô đệm giàu mạch máu thành mỏng dạng ống hoặc chia nhánh, một số vùng xơ hoá dạng sẹo lồi hoặc xơ hoá, kính hoá quanh mạch (Hình 1). Không thấy nhân chia, hoại tử u. Nhuộm HMMD: CD34 (+++), STAT6 (++), CD99 (+), EMA(+, ổ), S100 (+), CD31 (-), Bcl2(-), yếu tố VIII (-). Kết luận chẩn đoán mô bệnh học: U xơ đơn độc, biến thể thông thường (Solitary fibrous tumor, conventional variant, ICDICD-O code: 8815/1). Ca bệnh thứ hai Lâm sàng Bệnh nhân nữ 58 tuổi, vào viện với khối u vùng gáy tái phát, chẩn đoán lâm sàng: U vùng gáy, nghi ngờ ác tính. Sinh thiết u giửi làm xét nghiệm mô bệnh học ngày 14/05/2015. Giải phẫu bệnh Đại thể Mảnh sinh thiết đường kính 0,8 cm từ u vùng gáy. Vi thể Hình ảnh nội trội là mẫu cấu trúc mô học dạng u tế bào quanh mạch (hemangiopericytoma-like histological pattern). Tế bào u với viền bào tương không rõ, nhân hình Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015 212 tròn, bầu dục hoặc hình thoi, đa hình thái mức độ vừa, chất nhiễm sắc phân tán. Mật độ tế bào cao, nhiều nhân chia (hơn 10 nhân chia/10 vi trường độ phóng đại lớn). Mô đệm một số vùng xơ hoá hoặc thoái hoá nhầy, không thấy xơ hoá quanh mạch. Kết quả nhuộm HMMD: Vimentin (++), STAT6 (++), CD99 (+), Bcl2 (+), EMA (+, ổ), S100 (+), Desmin (-), CD34 (-), CD31(-), SMA(-), Actin (-), Myogenin (-). (Hình 2) Hình 1: U xơ đơn độc biến thể thông thường. A, Vùng giàu tế bào và nghèo tế bào; B, các tế bào u hình bầu dục hoặc hình thoi, sắp xếp trên nền mô đệm giàu xơ, bao quanh mạch máu thành mỏng, chia nhánh dạng sừng hươu; C, mô đệm xơ hoá, kính hoá; D, mạch máu thành dày kính hoá và xơ hoá, kính hoá quanh mạch; E, Nhuộm HMMD dương tính (+++) với dấu ấn CD34; F, nhuộm HMMD, nhân tế bào dương tính (++) với STAT6. (Mã số tiêu bản: SI 9792, A nhuộm HE x 100; B, C, D nhuộm HE x 200; E, F nhuộm HMMD x 200) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học 213 Hình 2: U xơ đơn độc ác tính. A, cấu trúc dạng u tế bào quanh mạch, mật độ tế bào cao; B, mô u thoái hoá nhầy; C, mô đệm xơ hoá; D, nhân chia (mũi tên); E, nhuộm HMMD âm tính với CD34, các mạch máu thành mỏng chia nhánh dạng sừng hươu được bộc lộ rõ; F, HMMD dương tính nhân (++) với STAT6; G, nhuộm HMMD dương tính với CD99 (+); H, nhuộm HMMD dương tính với Bcl2 (+). (Mã số: SI 8727; A, nhuộm HE x 100; B, C nhuộm HE x 200; D nhuộm HE x 400; E, F, G, H nhuộm HMMD x 200) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015 214 Chẩn đoán mô bệnh học: U xơ đơn độc ác tính (Malignant solitary fibrous tumor, ICD-O code: 8815/3). BÀN LUẬN U xơ đơn độc là một u tạo xơ, hầu hết các khối u được xem là lành tính về mặt lâm sàng, nhưng khoảng 10% có thể tái phát tại chỗ hoặc di căn xa; một số đặc điểm như kích thước u> 15 cm, tuổi>55, chỉ số nhân chia>4 nhân chia/10 vi trường độ phóng đại lớn được chứng minh là tăng nguy cơ di căn và tử vong. Cho đến nay, phương pháp điều trị hiệu quả nhất là cắt bỏ toàn bộ tổn thương bởi vì các tế bào u kháng lại với hoá trị và xạ trị(7, 8). Trước đây SFT và HPC được xem là hai u riêng biệt và u xơ đơn độc được xem là u đặc hiệu của màng phổi. Tuy nhiên theo thời gian người ta nhận thấy có sự chồng lẫn giữa các u được gọi tên với hai thuật ngữ này về lâm sàng, mô bệnh học và có sự tương đồng giữa các u ở màng phổi và vị trí khác. Hơn nữa đặc điểm nổi trội nhất của HPC cũng có thể gặp trong nhiều loại u khác nhau(2). Do đó theo phân loại WHO mới nhất, năm 2013 hai u này được nhập làm một, thống nhất tên gọi là u xơ đơn độc(6). Những u trước đây được gọi là “u tế bào quanh mạch”, ngày nay được xem là một biến thể giàu tế bào của SFT(4); mẫu mô học dạng u tế bào quanh mạch (hemangiopricytoma-like histological pattern) trở thành một đặc điểm không đặc hiệu và gặp trong nhiều loại u khác nhau(1). Về mô bệnh học, SFT gồm một phổ đa dạng về hình thái học và được chia làm bốn biến thể chính(2, 6): - Biến thể thông thường hay cổ điển (classic SFT): U được đặc trưng bởi sự kết hợp giữa các vùng nghèo tế bào và giàu tế bào được ngăn cách bởi các bó collagen dày, kính hoá và các mạch máu thành mỏng chia nhánh dạng u tế bào quanh mạch (HPC-like). Tế bào u hình bầu dục hoặc hình thoi bào tương hẹp, nhạt màu, viền tế bào không rõ, nhân có hốc, chất nhiễm sắc phân tán. Hyaline hoá quanh mạch có thể thấy. - Biến thể u xơ mạch tế bào khổng lồ (giant cell angiofibroma): chứa các tế bào khổng lồ nhiều nhân trong mô đệm và các khoảng trống giả mạch. - Biến thể giàu tế bào (Cellular variant) ; Mẫu cấu trúc dạng HPC nổi trội với các tế bào u hình tròn, bầu dục hoặc hình thoi sắp xếp thành đám bao quanh các mạch máu thành mỏng, có thể giãn rộng, chia nhánh dạng sừng hươu. Xơ hoá quanh mạch thường không thấy ở biến thể này. - Biến thể tạo mỡ (Fat-forming SFT): U có đặc điểm gần giống biến thể giàu tế bào, tuy nhiên kèm theo thành phần tế bào mỡ với tỷ lệ khác nhau. Các đặc điểm của SFT ác tính như đã đề cập bao gồm: mật độ tế bào cao, tăng tỷ lệ nhân chia (≥ 4 nhân chia/10 vi trường độ phóng đại lớn), nhân đa hình thái, hoại tử u và xâm nhập bờ khối u. Bên cạnh hình thái học tiêu chuẩn trên nhuộm HE, các dấu ấn miễn dịch như CD34, CD99, Bcl2 thường được dùng để hỗ trợ chẩn đoán nhưng độ đặc hiệu thấp. Hơn nữa sự bộc lộ không thường xuyên các dấu ấn S100, EMA, Desmin có thể gây khó khăn cho chẩn đoán(7). Chẩn đoán phân biệt SFT bao gồm rất nhiều các u tế bào hình thoi nguyên phát thuộc nhóm nguyên bào xơ cơ hoặc thuộc dòng vỏ dây thần kinh ngoại vi. SFT tạo mỡ có thể nhầm với u mỡ tế bào hình thoi. Với SFT ác tính có thể nhầm lẫn với sarcoma màng hoạt dịch đơn pha, sarcoma xơ bì lồi, sarcoma sụn trung mô(10) Gần dây với việc phát hiện một gen dung hợp mới, NAB2-STAT6 đặc hiệu cho SFT và dấu ấn hoá mô miễn dịch STAT6 được sử dụng để phát hiện gen dung hợp này đã giúp ích rất nhiều trong chẩn đoán SFT. Hai trường hợp chúng tôi báo cáo dương tính mức độ khác nhau với các dấu ấn: S100, CD99, EMA, Bcl2, đặc biệt một trường hợp âm tính với CD34 nhưng cả hai Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học 215 ca đều dương tính nhân với STAT6 đã giúp chẩn đoán xác định. NAB2 và STAT6 là hai gen cạnh nhau trên 12q13 sự dung hợp gen xảy ra do đột biến đảo đoạn. Gen dung hợp NAB2-STAT6 là đặc trưng về mặt phân tử cho SFT bởi vì cho tới nay nó chưa được tìm thấy trên các loại u khác, với tần suất gặp 55% đến 100%(8). Bên cạnh đó, theo Doyle và cộng sự, sự bộc lộ nhân của STAT6 trong một loạt các ca SFT chỉ ra rằng có sự hiện diện của protein dung hợp NAB2-STAT6 trong nhân tế bào, do đó STAT6 được xem là dấu ấn miễn dịch có độ nhạy và đặc hiệu cao cho SFT(5,8). Theo Vogels và cộng sự, 100% số ca dương tính mạnh và lan toả với STAT6 (n=28), trong khi đó ở nhóm chứng 100% số ca âm tính với dấu ấn này(8). Demicco và cộng sự nghiên cứu trên 2000 u khác nhau của mô mềm cho thấy STAT6 có độ nhạy 97% đối với SFT, ngoài ra dấu ấn này cũng bộc lộ trong sarcoma mỡ mất biệt hoá nhưng dương tính cả nhân và bào tương và dương tính yếu, trong những trường hợp này nhuộm HMMD với dấu ấn MDM2 và DK4 sẽ hữu ích cho chẩn đoán phân biệt(10). Nghiên cứu của Yoshida và cộng sự cho kết quả tương tự với 100% số ca SFT (n=49) dương tính mạnh và lan toả với nhân tế bào, bên cạnh đó chỉ có 20% số ca thuộc các u khác nhau (n=159) dương tính với STAT6 nhưng thường dương tính yếu với cả nhân và bào tương. Các kết quả nghiên cứu của Ouladan và cộng sự trên 454 u mô mềm cũng cho thấy, 100% SFT (n=80) dương tính nhân mạnh, lan toả với STAT6(7). Như vậy từ các nghiên cứu, các tác giả đều khẳng định rằng, dương tính nhân mạnh với dấu ấn STAT6 có độ nhạy và độ đặc hiệu cao cho u xơ đơn độc và rất hữu ích trong chẩn đoán. KẾT LUẬN U xơ đơn độc là một u thuộc nhóm các u nguyên bào xơ, có đặc điểm mô bệnh học đa dạng. Với các dấu ấn HMMD thường được sử dụng hỗ trợ chẩn đoán trước đây như CD34, CD99, Bcl2 là không đặc hiệu và trong nhiều trường hợp có thể gặp khó khăn trong chẩn đoán xác định. Dấu ấn HMMD mới STAT6, dương tính mạnh với nhân, có độ nhạy và độ đặc hiệu cao cho u xơ đơn độc và rất hữu ích trong chẩn đoán các u này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Baldi GG, Stacchiotti S, Mauro V, et al. (2013) Solitary fibrous tumor of all sites: outcome of late recurrences in 14 patients. Clin Sarcoma Res 3: 4. 2. Barthelmess S, Geddert H, Boltze C, et al. (2014) Solitary fibrous tumors/hemangiopericytomas with different variants of the NAB2-STAT6 gene fusion are characterized by specific histomorphology and distinct clinicopathological features. Am J Pathol 184: 1209-1218. 3. Demicco EG, Harms PW, Patel RM, et al. (2015) Extensive survey of STAT6 expression in a large series of mesenchymal tumors. Am J Clin Pathol 143: 672-682. 4. Demicco EG, Park MS, Araujo DM, et al. (2012) Solitary fibrous tumor: a clinicopathological study of 110 cases and proposed risk assessment model. Mod Pathol 25: 1298-1306. 5. Doyle LA, Vivero M, Fletcher CD, et al. (2014) Nuclear expression of STAT6 distinguishes solitary fibrous tumor from histologic mimics. Mod Pathol 27: 390-395. 6. Fletcher CDM, Bridge JA and Lee JC. (2013) Extrapleural solitary fibrous tumour. In: C.D.M F, J.A B, P H, et al. (eds) Pathology and genetics of tumours of soft tissue and bone. 4th ed. Lyon: IARC Press, 80-82. 7. Ouladan S, Trautmann M, Orouji E, et al. (2015) Differential diagnosis of solitary fibrous tumors: A study of 454 soft tissue tumors indicating the diagnostic value of nuclear STAT6 relocation and ALDH1 expression combined with in situ proximity ligation assay. Int J Oncol 46: 2595-2605. 8. Vogels RJ, Vlenterie M, Versleijen-Jonkers YM, et al. (2014) Solitary fibrous tumor - clinicopathologic, immunohistochemical and molecular analysis of 28 cases. Diagn Pathol 9: 224. 9. Yamada Y, Kohashi K, Bekki H, et al. (2015) Malignant solitary fibrous tumor with high-grade nuclear atypia: an alternate entity for the undetermined tumor group. Pathol Res Pract 211: 117-124. 10. Yoshida A, Tsuta K, Ohno M, et al. (2014) STAT6 immunohistochemistry is helpful in the diagnosis of solitary fibrous tumors. Am J Surg Pathol 38: 552-559. Ngày nhận bài báo: 20/06/15 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/07/2015 Ngày bài báo được đăng: 05/09/2015
File đính kèm:
- u_xo_don_doc_bao_cao_hai_ca_benh_va_vai_tro_cua_dau_an_hoa_m.pdf