Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi điều trị tại các khoa nội - Bệnh viện đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh theo bộ câu hỏi groningen, mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng và nhân khẩu học với suy yếu

Mở đầu: Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hội chứng suy yếu người cao tuổi (NCT), tỷ lệ mắc hội

chứng này dao động từ 4% đến 59,1% tùy thuộc vào dân số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá suy yếu. Tỷ lệ

suy yếu trên NCT điều trị nội trú theo bộ câu hỏi GFI (Groningen Frailty Indicator) và mối liên quan giữa một

số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học với tình trạng suy yếu chưa được nghiên cứuở Việt Nam.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu NCT điều trị tại các khoa Nội Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM theo

bộ câu hỏi GFI và mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học với suy yếu.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 303 bệnh nhân nhập viện bệnh viện ĐHYD TP.HCM ≥ 60 tuổi

trong thời gian từ 9/2016 đến 6/2017 được tham gia vào nghiên cứu. Thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang.

Công cụ đánh giá suy yếu là bộ câu hỏi GFI.

Kết quả: Tuổi trung vị của bệnh nhân là 74, khoảng tứ phân vị là 67-80 tuổi. Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị nội

trú ở các khoa nội bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi GFI là 66,34%. Nhóm tuổi, trình độ học vấn, nhóm

BMI có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng suy yếu theo bộ câu hỏi GFI với (p<0,05). sau="" khi="" đưa="">

yếu tố nhóm tuổi, giới, trình độ học vấn, nơi sinh sống, nhóm BMI vào mô hình đa biến để kiểm soát yếu tố gây

nhiễu thì ghi nhận nhóm tuổi, nhóm BMI là yếu tố nguy cơ độc lập với tình trạng suy yếu theo bộ câu hỏi GFI.

Kết luận: Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị nội trú ở các khoa Nội bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi

GFI là 66,34%. Nhóm tuổi, trình độ học vấn, nhóm BMI có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng suy

yếu theo bộ câu hỏi GFI.

pdf 7 trang kimcuc 4500
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi điều trị tại các khoa nội - Bệnh viện đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh theo bộ câu hỏi groningen, mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng và nhân khẩu học với suy yếu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi điều trị tại các khoa nội - Bệnh viện đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh theo bộ câu hỏi groningen, mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng và nhân khẩu học với suy yếu

Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi điều trị tại các khoa nội - Bệnh viện đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh theo bộ câu hỏi groningen, mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng và nhân khẩu học với suy yếu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 296 
TỶ LỆ SUY YẾU Ở NGƯỜI CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI CÁC KHOA NỘI - 
BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP.HCM THEO BỘ CÂU HỎI 
GRONINGEN, MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG 
VÀ NHÂN KHẨU HỌC VỚI SUY YẾU 
Nguyễn Ngọc Mai Phương*, Tăng Thị Thu*, Võ Yến Nhi*, Thân Hà Ngọc Thể**, 
Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên**, Trịnh Thị Bích Hà** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hội chứng suy yếu người cao tuổi (NCT), tỷ lệ mắc hội 
chứng này dao động từ 4% đến 59,1% tùy thuộc vào dân số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh giá suy yếu. Tỷ lệ 
suy yếu trên NCT điều trị nội trú theo bộ câu hỏi GFI (Groningen Frailty Indicator) và mối liên quan giữa một 
số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học với tình trạng suy yếu chưa được nghiên cứuở Việt Nam. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu NCT điều trị tại các khoa Nội Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM theo 
bộ câu hỏi GFI và mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học với suy yếu. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 303 bệnh nhân nhập viện bệnh viện ĐHYD TP.HCM ≥ 60 tuổi 
trong thời gian từ 9/2016 đến 6/2017 được tham gia vào nghiên cứu. Thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang. 
Công cụ đánh giá suy yếu là bộ câu hỏi GFI. 
Kết quả: Tuổi trung vị của bệnh nhân là 74, khoảng tứ phân vị là 67-80 tuổi. Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị nội 
trú ở các khoa nội bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi GFI là 66,34%. Nhóm tuổi, trình độ học vấn, nhóm 
BMI có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng suy yếu theo bộ câu hỏi GFI với (p<0,05). Sau khi đưa các 
yếu tố nhóm tuổi, giới, trình độ học vấn, nơi sinh sống, nhóm BMI vào mô hình đa biến để kiểm soát yếu tố gây 
nhiễu thì ghi nhận nhóm tuổi, nhóm BMI là yếu tố nguy cơ độc lập với tình trạng suy yếu theo bộ câu hỏi GFI. 
Kết luận: Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị nội trú ở các khoa Nội bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi 
GFI là 66,34%. Nhóm tuổi, trình độ học vấn, nhóm BMI có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng suy 
yếu theo bộ câu hỏi GFI. 
Từ khóa: Tỷ lệ suy yếu NCT, bộ câu hỏi GFI 
ABSTRACT 
PREVALANCE OF FRAILTY IN THE HOSPITALIZED ELDERLY PATIENT AT UNIVERSITY 
MEDICAL CENTER HCMC ACCORDING TO THE GRONINGEN FRAILTY INDICATOR 
QUESTIONNAIRE, ASSOCIATION BETWEEN CLINICAL ANDDEMOGRAPHIC CHARACTERISTICS 
AND FRAILTY SYNDROME 
Nguyen Ngoc Mai Phuong, Than Ha Ngoc The, 
Nguyen Ngoc Hoanh My Tien, Tang Thi Thu, Vo Yen Nhi, Trinh Thi Bich Ha 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 296 - 302 
Background: The growing body of evidence on fraity worldwide has shown thatthe prevalence of this 
syndrome ranges from 4% to 59.1% depending on studied population andassessment criteria. However, evidence 
on the prevalance of frailty among elderly inpatientsusing the Groningen Frailty Indicator (GFI) questionnaire 
and the association among clinical &demographiccharacteristics and frailty syndrome remains in scarcity. 
* Cao học Lão khoa 2015-2017 ** Bộ môn Lão khoa – Đại học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Ngọc Mai Phương ĐT: 01262943180 Email: nguyenngocmaiphuong.jackie@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 297
Objectives: To identify the prevalence of frailty among hospitalized elderly patients from medical wards at 
University Medical Center (UMC) HCMC using the GFI questionnaire and to identify the association between 
clinical &demographiccharacteristics and frailty syndrome. 
Methods: 303 patients aged ≥ 60 years old who had admitted to UMC HCMC from 9/2016 to 6/2017 were 
recruited into the research. The study design was a descriptive cross-sectional study. The assessment tool for 
frailty was the GFI questionnaire. 
Results: The median age of the sample was 74 and the interquatile range was (67; 80). The prevalence of 
frailty in the hospitalized elderly patient at UCM HCMC assessed by the GFI questionnaire was 66.34%. There 
were significant associations between age group, educational background, BMI group and frailty syndrome 
assessed by GFI questionnaire (p<0.05). After entering the factors of age, gender, educational background, living 
location, BMI groups into the mulvariable model for controlling biases and confounders, age group and BMI 
group were proven to be independent risk factors of frailty syndrome assessed by GFI. 
Conclusions: The prevalence of frailty in the hospitalized elderly patient at UMC HCMC assessed by the 
GFI questionnaire was 66.34%. There were significant associations between age group, educationalbackground, 
BMI group and frailty syndrome assessed by the GFI questionnaire. 
Keywords: prevalence of frailty in the hospitalized elderly patient, Groningen Frailty Indicator 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Suy yếu là tình trạng rất thường gặp ở NCT. 
NCT suy yếu sẽ đối mặt với nguy cơ giảm chất 
lượng sống,vì suy yếu góp phần làm nặng thêm 
bệnh nền, tăng tỷ lệ nhập viện, tăng chi phí 
chăm sóc y tế cho gia đình và xã hội. Ngày nay 
có rất nhiều công cụ, thang điểm được dùng để 
đánh giá tình trạng suy yếu ở NCT. Tỷ lệ mắc 
hội chứng này dao động từ 4% đến 59,1% tùy 
thuộc vào dân số nghiên cứu và tiêu chuẩn đánh 
giá suy yếu(2). Ở Việt Nam hiện có nghiên cứu 
của tác giả Nguyễn Xuân Thanh ghi nhận tỷ lệ 
suy yếu ở NCT điều trị tại Bệnh viện Lão Khoa 
Trung Ương theo tiêu chuẩn Fried là 35,4%(10). 
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Minh Hải 
năm 2015 thực hiện trên 357 bệnh nhân đái tháo 
đường típ 2 điều trị tại Bệnh viện Lão Khoa 
Trung Ương báo cáo tỷ lệ suy yếu theo tiêu 
chuẩn Fried là 49,98%(3). Tỷ lệ suy yếu trên NCT 
điều trị nội trú theo bộ câu hỏi GFI và mối liên 
quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu 
học với tình trạng suy yếu chưa được nghiên 
cứu nhiều. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
303 bệnh nhân nhập bệnh viện Đại Học Y 
Dược TP.HCM có khả năng giao tiếp, biết đọc và 
biết viết tiếng Việt trong thời gian từ 9/2016 đến 
6/2017 được tham gia vào nghiên cứu. 
Thiết kế nghiên cứu là cắt ngang mô tả 
Những bệnh nhân không đủ năng lực trả lời 
câu hỏi nghiên cứu (bệnh tâm thần, sa sút trí tuệ 
nặng, bệnh cấp tính đang diễn tiến nặng, mù 
chữ), được chẩn đoán bất kỳ loại ung thư nào 
trước đây sẽ được loại khỏi nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Tất cả đối tượng thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu 
được phỏng vấn bộ câu hỏi GFI. Các đặc điểm 
nhân khẩu học, dịch tễ học, bệnh đi kèm được 
ghi nhận. 
Các biến số nghiên cứu 
Đặc điểm nhân khẩu học, dịch tễ học 
Tuổi: biến định lượng được mã hoá thành 
biến định tính, tính tuổi từ năm sinh đến lúc ghi 
nhận trong nghiên cứuđược phân thành 3 nhóm: 
60t – 69 tuổi; 70t – 79 tuổi; ≥ 80 tuổi 
Giới: biến nhị giá gồm giá trị là nam hoặc nữ. 
Khoa điều trị: biến thứ tự gồm các giá trị: 
Tiêu hóa, Nội Tổng Hợp, Hô Hấp, Tim mạch, 
Nội thần kinh, Lão – chăm sóc giảm nhẹ. 
Trình độ học vấn: biến thứ tự gồm các giá trị: 
Cấp 1; Cấp 2; Cấp 3; Cao đẳng, đại học; Sau đại học. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 298 
Nơi sinh sống: biến nhị giá, gồm có giá trị: 
Thành thị; Nông thôn. 
BMI: là biến định lượng được tính bằng công 
thức: cân nặng/ (chiều cao)2. 
Sau đó được mã hoá thành biến định tính, phân 
thành 3 nhóm: Gầy: BMI < 18,5; Bình thường: BMI 
thuộc (18,5 – 22,9); Thừa cân: BMI ≥ 23. 
Hoàn cảnh gia đình: biến nhị giá gồm giá trị: 
Sống chung gia đình; Sống một mình. 
Điểm số bộ câu hỏi GFI lần 1 
Bộ câu hỏi GFI gồm 15 câu hỏi về các lĩnh vực: 
khả năng vận động, thị lực, thính lực, dinh dưỡng, 
các bệnh đồng mắc, nhận thức, tâm lý xã hội, sức 
mạnh thể chất. Nếu tổng điểm trả lời ≥ 4 điểm xem 
như có suy yếu. Biến định lượng, mã hóa thành 
biến định tính. Gồm hai giá trị: Có; Không. 
Phân tích thống kê 
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1; xử lý 
số liệu bằng Stata 13. 
Các biến số định lượng phân phối chuẩn được 
trình bày dưới dạng trung bình độ lệch chuẩn. 
Các biến số định lượng không phân phối chuẩn 
được trình bày dưới dạng trung vị, khoảng tứ phân 
vị. Các biến số định tính và phân loại sẽ được trình 
bày dưới dạng tần suất, tỷ lệ phần trăm. Dùng phép 
kiểm chi bình phương hoặc Fisher để xác định mối 
liên quan với biến kết cuộc là biến nhị giá. Để lượng 
giá mối liên quan dùng chỉ số PR - Prevalence ratio 
(Tỷ suất tỷ lệ hiện mắc). Sự khác biệt được xem là có 
ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. Đây là nghiên cứu 
quan sát, không can thiệp vào quá trình điều trị nên 
không vi phạm về mặt y đức. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong thời gian từ 9/2016 đến 6/2017, nghiên 
cứu của chúng tôi đã ghi nhận được 303 bệnh nhân 
thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu. Kết quả như sau: 
Đặc điểm chung 
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu (n=303) 
 Tần số Tỷ lệ (%) 
Khoa điều trị Tiêu hóa 79 26,07 
Nội Tổng Hợp 86 28,38 
Hô hấp 24 7,92 
Lão - Chăm sóc giảm nhẹ 18 5,94 
Tim mạch 88 29,04 
Nội thần kinh 8 2,64 
Tuổi 74 (67:80) 
Nhóm tuổi 60-69 tuổi 114 37,75 
70-79 tuổi 101 33,44 
≥ 80 tuổi 87 28,81 
Giới Nữ 192 63,37 
Nam 111 36,63 
Trình độ học 
vấn 
Cấp 1 196 64,69 
Cấp 2 41 13,53 
Cấp 3, Trung cấp 52 17,16 
Cao đẳng, Đại học 12 3,96 
Sau đại học 2 0,66 
Nơi sinh sống Thành thị 105 34,65 
Nông thôn 198 65,35 
Hoàn cảnh gia 
đình 
Sống một mình 5 1,65 
Sống chung gia đình 298 98,35 
Điểm số BMI(TB ĐLC) 22,09 4,01 
Nhóm BMI Gầy 43 14,19 
Bình thường 148 48,84 
Thừa cân 112 36,96 
Bảng 2. Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị tại các khoa Nội 
bệnh viện ĐHYD theobộ câu hỏi GFI 
 Tần số Tỷ lệ (%) 
Suy yếu theo GFI Không 102 33,66 
Có 201 66,34 
Khảo sát đơn biến mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học, dịch tễ học với tỷ lệ suy yếu NCT 
theo bộ câu hỏi GFI 
Bảng 3. Mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học, dịch tễ học với tỷ lệ suy yếu NCT theo bộ câu hỏi GFI 
Đặc điểm 
Suy yếu theo GFI 
P 
PR 
(KTC 95%) Không(%) Có(%) 
Nhóm tuổi 60-69 tuổi 74 (72,55) 41 (20,4) 
<0,001** 
1 
70-79 tuổi 25 (24,51) 76 (37,81) 1,6 (1,44-1,76) 
≥ 80 tuổi 3 (2,94) 84 (41,79) 2,55 (2,08-3,11) 
Giới Nữ 59 (57,84) 133 (66,17) 
0,155 0,82 (0,6-1,08) 
Nam 43 (42,16) 68 (33,83) 
Trình độ học Cấp 1 50 (49,02) 146(72,6) 0,002** 1 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 299
Đặc điểm 
Suy yếu theo GFI 
P 
PR 
(KTC 95%) Không(%) Có(%) 
vấn Cấp 2 20 (19,61) 21(10,45) 0,83 (0,74-0,93) 
Cấp 3 24 (23,53) 28 (13,93) 0,69 (0,55-0,87) 
Cao đẳng, Đại học 7 (6,86) 5 (2,49) 0,58 (0,41-0,81) 
Sau đại học 1 (0,98) 1(0,5) 0,48 (0,31-0,76) 
Nơi sinh sống Thành thị 34 (33,33) 71 (35,32) 
0,731 0,97 (0,822-1,14) 
Nông thôn 68 (66,67) 130 (64,68) 
Hoàn cảnh gia 
đình 
Sống một mình 2 (1,96) 3 (1,49) 
0,547* 1,11 (0,54-2,28) 
Sống chung 100 (98,04) 198 (98,51) 
Nhóm BMI Gầy 3 (2,94) 40 (19,9) 
<0,001** 
1 
Bình thường 46 (45,1) 102 (50,75) 0,75 (0,68-0,84) 
Thừa cân 53 (51,96) 59 (29,35) 0,57 (0,46-0,7) 
**Có tính khuynh hướng, *Kiểm định fisher 
 Khảo sát tương quan giữa tuổi, BMI với suy yếu theo bộ câu hỏi GFI 
Bảng 4. Hệ số tương quan 
 Suy yếu theo bộ câu hỏi GFI 
Hệ số r P 
Tuổi 0,47 <0,001 
Chỉ số BMI -0,2 <0,001 
0
5
1
0
1
5
60 70 80 90 100
tuoi
tong diem Groningen 1 Fitted values
0
5
1
0
1
5
10.00 20.00 30.00 40.00 50.00
chi so BMI
tong diem Groningen 1 Fitted values
Biểu đồ 1. Tương quan giữa điểm số GFI với tuổi của 
bệnh nhân 
Biểu đồ 2. Tương quan giữa điểm số GFI với BMI của 
bệnh nhân 
Khảo sát đa biến mối liên quan giữa suy yếu 
với các yếu tố nhân khẩu học 
Bảng 5. Mô hình đa biến giữa suy yếu với các yếu tố 
nhân khẩu học 
 P PR(KTC 95%) 
Nhóm tuổi 60-69 tuổi 1 
70-79 tuổi <0,001 4,8 (2,6-8,8) 
≥ 80 tuổi <0,001 44,5 (12,7-155,7) 
Nhóm BMI Gầy 1 
Bình thường 0,003 0,14 (0,04-0,51) 
Béo phì 0,001 0,11 (0,03-0,4) 
Trình độ học vấn 0,58 0,9 (0,68-1,24) 
Giới 0,31 0,73 (0,39-1,35) 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Tuổi trung vị của đối tượng nghiên cứu là 
74, với khoảng tứ phân vị 67-80 tuổi. Kết quả 
này thấp hơn so với độ tuổi trung bình trong 
nghiên cứu của tác giả Ineke HGJ Smets và cộng 
sự (2010-2012) là 76 tuổi. Nghiên cứu được tiến 
hành tại trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu ở 
Hà Lan và Bỉ, trên 290 đối tượng ≥ 70 tuổi. Sở dĩ 
có sự khác biệt này có thể vì nghiên cứu của tác 
giả tiến hành trên nhóm dân số cao tuổi hơn 
trong nghiên cứu của chúng tôi(5). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 300 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nữ giới 
chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới, cũng tương đồng 
với nghiên cứu của tác giả Ineke HGJ Smets. Kết 
quả tương tự nhau có thể được lý giải do tuổi 
thọ của bệnh nhân nữ thường cao hơn bệnh 
nhân nam, dẫn đến gia tăng các bệnh liên quan 
đến tuổi 
Tỷ lệ NCT suy yếu điều trị tại các khoa Nội 
Bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi 
GFI 
Trong số 303 đối tượng tham gia nghiên cứu 
có: số bệnh nhân suy yếu theo bộ câu hỏi GFI là 
201 bệnh nhân (66,34%), 102 bệnh nhân không 
suy yếu (33,66%). Tỷ lệ suy yếu theo bộ câu hỏi 
GFI trong nghiên cứu của chúng tôi (66,34%) cao 
hơn so với nghiên cứu của Ineke và cộng sự 
(51%) là do chúng tôi tiến hành trên bệnh nhân 
đang nằm điều trị tại các khoa Nội với nhiều 
bệnh đồng mắc(5). Tỷ lệ suy yếu giữa các nghiên 
cứu rất khác nhau, dao động từ 4% đến 59,1% 
tùy thuộc vào cộng đồng dân số nghiên cứu và 
tiêu chuẩn định nghĩa suy yếu được sử dụng. 
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Thanh và 
cộng sự (2015) trên bệnh nhân cao tuổi điều trị 
tại Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương bằng tiêu 
chuẩn Fried cải biên, báo cáo tỷ lệ suy yếu là 
35,4%(10). Trong kết quả nghiên cứu của tác giả 
Lilian L.Peters và cộng sự tiến hành tại miền Bắc 
Hà Lan, 2010, phân tích dữ liệu trên 713 đối 
tượng ≥ 65 tuổi, ghi nhận tỷ lệ suy yếu theo bộ 
câu hỏi GFI tại điểm cắt 4, là 51%(7). 
Tỷ lệ suy yếu theo bộ câu hỏi GFI tại điểm 
cắt 4 trong nghiên cứu của tác giả Lilian L. Peters 
MSc và cộng sự tại Hà Lan (2008-2010) ghi nhận 
là 59,78%, thấp hơn so với nghiên cứu của chúng 
tôi. Nghiên cứu tiến hành trên đối tượng ≥ 65 
tuổi, sống trong cộng đồng ở Hà Lan, hình thức 
phỏng vấn là đối tượng tự điền bộ câu hỏi rồi 
nộp lại(11). 
Trong nghiên cứu đoàn hệ của tác giả 
Ramon Daniels và cộng sự (2008-2009) tiến hành 
ở Limburg và Utrecht, Hà Lan, trên 532 đối 
tượng sống trong cộng đồng ≥ 70 tuổi, ghi nhận 
tỷ lệ suy yếu theo GFI tại điểm cắt 4 là 46,3%. 
Sau một năm theo dõi, cỡ mẫu còn lại 430 đối 
tượng, với tỷ lệ suy yếu là 46%(12). 
Trong nghiên cứu của tác giả L.L.Peters và 
cộng sự ở Đông Bắc Hà Lan, trên 5712 đối tượng 
≥ 65 tuổi sống trong cộng đồng, báo cáo tỷ lệ suy 
yếu theo bộ câu hỏi GFI đại điểm cắt 4 điểm là 
9,24%. Tỷ lệ suy yếu khá thấp một phần vì những 
đối tượng người cao tuổi suy giảm nhận thức đã 
bị loại trước khi tham gia nghiên cứu, đồng thời 
phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu này 
thuộc tầng lớp có chất lượng cuộc sống cao, ít 
chịu những stress tác động trong cuộc sống(6). 
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của tác giả 
Marinela Olaroiu và cộng sự (2013) tiến hành ở 
Romania báo cáo tỷ lệ suy yếu theo bộ câu hỏi 
GFI tại điểm cắt 4 điểm khá cao, 75%. Sự chênh 
lệch này cũng một phần phản ánh sự hỗ trợ 
chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi phụ thuộc 
ở Romania còn hạn chế(8). 
Mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng, 
nhân khẩu học với suy yếu 
Nhóm tuổi và suy yếu 
Về nhóm tuổi, trong nghiên cứu của chúng 
tôi, suy yếu có mối liên quan có ý nghĩa thống kê 
với tuổi (p<0,05). Tuổi càng gia tăng thì nguy cơ 
suy yếu sẽ tăng theo. Kết quả này cũng tương 
đồng với phần lớn các nghiên cứu trên thế giới 
và nghiên cứu tại Việt Nam. Nhóm bệnh nhân ≥ 
80 tuổi có nguy cơ cao suy yếu tăng hơn so với 
các nhóm tuổi 60-69 và 70-79 trong nghiên cứu 
của Reis và cộng sự(13). Nghiên cứu của Peters LL 
và cộng sự tiến hành trên 5712 người cao tuổi, 
ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
các nhóm tuổi khác nhau, tỷ lệ suy yếu tăng dần 
theo độ tuổi tăng dần ở các nhóm 65-69 tuổi, 70-
74 tuổi, 75-79 tuổi, và ≥ 80 tuổi, với p ≤ 0,001(6). 
Trong nghiên cứu tại Brazil của Castell M.V 
và cộng sự (2013) ghi nhận tuổi cao có mối liên 
quan rõ rệt với suy yếu(1). Nghiên cứu tổng quan 
có hệ thống của Mello và cộng sự cũng cho thấy 
mối liên quan giữa suy yếu và tuổi cao(9). 
Nghiên cứu “Hội chứng dễ bị tổn thương 
(fraity syndrome) và các yếu tố liên quan trên 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 301
NCT điều trị tại bệnh viện Lão khoa Trung Ương 
của tác giả Nguyễn Xuân Thanh năm 2015 thực 
hiện trên 461 bệnh nhân cao tuổi ghi nhận có mối 
liên quan rõ rệt giữa suy yếu và tuổi (p<0,001). 
Tuổi càng tăng thì tỷ lệ suy yếu càng cao(10). Suy 
giảm chức năng liên quan đến tuổi xảy ra trong 
tất cả các cơ quan và hệ thống cơ quan.Các yếu tố 
bên ngoài và bệnh tật liên quan đến tuổi đóng vai 
trò khác nhau trong hệ thống cơ quan và giữa các 
cá thể.Những thay đổi lão hóa sinh lý học của các 
cơ quan và hệ thống cơ quan làm tổn thương các 
chức năng của cơ thể và làm giảm khả năng sống 
còn khi tuổi cao.Suy yếu cũng là một biểu hiện 
của quá trình lão hóa, dễ bị tổn thương với các 
yếu tố căng thẳng, giảm dự trữ sinh lý dẫn đến 
giảm duy trì cân bằng nội môi. 
Do vậy, trong nhiều nghiên cứu đã chỉ ra 
mối liên quan giữa suy yếu và tuổi. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi cũng không nằm ngoài 
quy luật này. 
Trình độ học vấn và suy yếu 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trình độ 
học vấn được chia làm 5 nhóm, trong đó nhóm 
trình độ học vấn cấp 1 chiếm tỷ lệ cao nhất. Đây 
cũng chính là nhóm có tỷ lệ suy yếu cao nhất, 
với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
Các nghiên cứu trên thế giới phần lớn chỉ ra mối 
liên quan giữa trình độ học vấn thấp và suy yếu. 
Người cao tuổi trình độ học vấn thấp có nguy 
cơ xuất hiện suy yếu cao gấp ba lần những người 
có trình độ học vấn cao trong nghiên cứu của tác 
giả Hoogendijk. Nghiên cứu của tác giả kéo dài 
13 năm nhằm đánh giá mối liên quan giữa trình 
độ học vấn và suy yếu theo thời gian (2014)(4). 
Nghiên cứu của Peters LL và cộng sự tiến 
hành trên 5712 người cao tuổi, ghi nhận sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi khác 
nhau theo thang đo GFI. Các đối tượng được 
phân nhóm về trình độ học vấn như sau: nhóm 
tiểu học, trung học và trình độ trên trung học. Kết 
quả nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ suy yếu giảm dần 
khi trình độ học vấn tăng dần và sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê với p ≤0,001(6). Nghiên cứu “Hội 
chứng dễ bị tổn thương (fraity syndrome) và các 
yếu tố liên quan trên NCT điều trị tại bệnh viện 
Lão khoa Trung Ương” của tác giả Nguyễn Xuân 
Thanh năm 2015 thực hiện trên 461 bệnh nhân ≥ 
60 tuổi, ghi nhận có mối liên quan rõ rệt giữa suy 
yếu và trình độ học vấn (p<0,05)(10). 
Chỉ số khối cơ thể BMI và suy yếu 
Về chỉ số khối cơ thể, trong nghiên cứu của 
chúng tôi, nhóm bệnh nhân có BMI gầy có tỷ lệ 
suy yếu cao nhất. Và mối liên quan này có ý 
nghĩa thống kê với p<0,05. Nghiên cứu của Reis 
và cộng sự ghi nhận mối liên quan giữa nhóm 
bệnh nhân thiếu cân và suy yếu(13). 
Nghiên cứu của tác giả Peters LL và cộng sự 
tiến hành trên trên 5712 NCT cộng đồng, ≥ 65 
tuổi, tại Hà Lan, từ tháng 7 năm 2008 đến tháng 
12 năm 2012 ghi nhận có mối liên quan giữa chỉ 
số khối cơ thể và suy yếu ( p≤0,001)(6). Trong 
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Thanh ghi 
nhận mối liên quan giữa chỉ số khối cơ thể và 
suy yếu không có ý nghĩa thống kê, dù nhóm 
bệnh nhân thiếu cân có tỷ lệ suy yếu cao nhất. 
Qua đó cho thấy chế độ dinh dưỡng là một 
trong những yếu tố góp phần dẫn đến sự xuất 
hiện suy yếu. Nâng cao nhận thức, hướng dẫn 
người cao tuổi quan tâm dinh dưỡng, bổ sung 
chế độ ăn đầy đủ chất là một trong những biện 
pháp hữu ích góp phần dự phòng cũng như đảo 
ngược tình trạng suy yếu. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ suy yếu NCT điều trị nội trú ở các khoa 
Nội bệnh viện ĐHYD TP.HCM theo bộ câu hỏi 
GFI là 66,34%. Nhóm tuổi, trình độ học vấn, 
nhóm BMI có mối liên quan có ý nghĩa thống kê 
với tình trạng suy yếu theo bộ câu hỏi GFI. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Castell MV, et al (2013), "Frailty prevalence and slow walking 
speed in person age 65 and older: implications for primary 
care", BMC Fam Pract, 14, pp. 86. 
2. Collard R, et al (2012), "Prevalance of Frailty in Community-
Dwelling Older Persons: A Systemic Review", Journal of the 
American Geriatrics Society, 60(8), pp. 1487-1492. 
3. Hồ Thị Kim Thanh, Nguyễn Thị Minh Hải (2015), Đánh giá hội 
chứng dễ bị tổn thương ở người cao tuổi mắc đái tháo đường típ 2, 
Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Hà Nội. 
4. Hoogendijk OE, et al (2014), "Explaining the association 
between educational level and frailty in older adults: results 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Nội Khoa 302 
from a 13-year longitudinal study in the Netherlands", Ann 
Epidemiol, 24 (7), pp. 538-544.e532. 
5. Ineke HGJS, Gertrudis IJMK, Maryska LGJ, Laura D, Frank 
JVMB, Marjan VDA (2014), "Four screening instruments for 
frailty in older patients with and without cancer: a diagnostic 
study", BMC Geriatrics, 14(26). 
6. Lilian LP, Han B, Erik B, Joris PJS (2012), "Measurement 
Properties of the Groningen Fraity Indicator in Home-Dwelling 
and Institutionalized Elderly People", Jamda, (13), pp. 546-551. 
7. Lilian LP, Johannes GMB, Han B, Beate W, Erik B, Joris PJS 
(2015), "Predictive validity of a fraity measure GFI and a case 
complexity measure IM-E-SA on healthcare costs in an elderly 
population", Journal of Psychosomatic Research, (79), pp. 404-411. 
8. Marinela O, Minerva G, Viorica N, Brinza I, Wim vdH (2014), 
"The psychometric qualities of the Groningen Frailty Indicator 
in Romanian community-dwelling old citizens", Family Practice, 
31 (4), pp. 490-495. 
9. Mello CA, Engstrom ME, Alves CL (2014), "Health-related and 
sociodemographic factors associated with frailty in the elderly: a 
systematic literature review", Cadernos de Saude Publica, 30, pp. 
1143-1168. 
10. Nguyễn Xuân Thanh (2015), Hội chứng dễ bị tổn thương 
(frailty) và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi điều trị 
tại bệnh viện Lão Khoa Trung Ương, Luận văn thạc sĩ y học, Đại 
học Y Hà Nội. 
11. Peters LL, Boter H, Burgerhof JGM, Slaets JPJ, Buskens E (2015), 
"Construct validity of the Groningen Frailty Indicator 
established in a large sample of home-dwelling elderly persons: 
Evidence of stability across age and gender", Experimental 
Gerontology, (69), pp. 129-141. 
12. Ramon D, Erik VR, Anna B, Wim VDH, Luc DW (2012), "The 
predictive validity of three self-report screening instruments for 
identifying frail older people in the community", BMC Public 
Health, 12, pp. 69. 
13. Reis WM, et al (2014), "Pre-frailty and frailty of elderly residents 
in a municipality with a low Human Development Index", 
Revista Latino Americana de Enfermagem, 22 (4), pp. 654-661. 
Ngày nhận bài báo: 22/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 15/3/2018 

File đính kèm:

  • pdfty_le_suy_yeu_o_nguoi_cao_tuoi_dieu_tri_tai_cac_khoa_noi_ben.pdf