Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle - Giá trị và bài học lịch sử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành
tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và
Aristotle
Hàn Phi (280 – 233 tr. CN) là nhà tư
tưởng, nhà chính trị lỗi lạc của Trung Hoa
cổ đại. Ông đã tổng hợp ba quan điểm về
“pháp”, “thế”, “thuật” của Pháp gia thành
một học thuyết có tính hệ thống; trong đó,
tư tưởng Pháp gia là bản thiết kế; tư tưởng
vô vi nhi trị của Đạo gia là kỹ thuật thi
công; tư tưởng Nho gia như là chất liệu
xây dựng. Chính sự kết hợp một cách độc
đáo, tài tình ba học thuyết Nho - Lão -
Pháp, Hàn Phi đã trở thành đại biểu xuất
sắc nhất của Pháp gia và sách Hàn Phi Tử
được coi là bộ “tập đại thành” những tư
tưởng về pháp luật trong thời Xuân Thu -
Chiến quốc.
Đến cuối thời nhà Chu, xã hội rơi vào
rối ren và loạn lạc vì thiên tử nhà Chu chỉ
lo chơi bời ham mê tửu sắc, bóc lột, hà
hiếp nhân dân. Trong nước, lòng dân oán
thán và nổi dậy để lật đổ nhà Chu. Do đó,
mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân trở
nên vô cùng căng thẳng, đã đẩy mâu thuẫn
xã hội lên đến đỉnh điểm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle - Giá trị và bài học lịch sử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016 115 Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle - Giá trị và bài học lịch sử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Han Fei and Aristotle’s rule of law thought – Values and history lessons for the building of the socialist rule of law state of Viet Nam today ThS. Đỗ Thị Thùy Trang Trường Đại học Tài chính - Kế toán TS. Võ Văn Dũng Trường Đại học Khánh H a M.A. Do Thi Thuy Trang University of Finance and Accountancy Ph.D. Vo Van Dung The University of Khanh Hoa Tóm tắt Cùng với sự vận động và biến đổi không ngừng của lịch sử xã hội, nhận thức của con người được nâng cao, tư tưởng pháp quyền đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và ngày càng chiếm ưu thế. Dòng chảy tư tưởng pháp quyền của nhân loại được khơi nguồn bởi các triết gia nổi tiếng như: Hàn Phi và Aristotle. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle; từ đó, rút ra những giá trị và bài học lịch sử đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: pháp quyền, Hàn Phi, Aristotle, giá trị, bài học lịch sử, nhà nước, xã hội chủ nghĩa... Abstract Along with the movement and continuous change of social history, human awareness is enhanced, the rule of law thought has appeared since ancient times and has been increasingly dominant. The currents of human’s rule of law thought have been inspired by the famous philosophers as: Han Fei and Aristotle. In this article, we focus on analyzing the rule of law thought of Han Fei and Aristotle; from which, we draw the values and history lessons on building The Socialist Rule of law State of Vietnam today. Key words: rule of law, Han Fei, Aristotle, values, history lessons, State, Socialist 1. Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle Hàn Phi (280 – 233 tr. CN) là nhà tư tưởng, nhà chính trị lỗi lạc của Trung Hoa cổ đại. Ông đã tổng hợp ba quan điểm về “pháp”, “thế”, “thuật” của Pháp gia thành một học thuyết có tính hệ thống; trong đó, 116 tư tưởng Pháp gia là bản thiết kế; tư tưởng vô vi nhi trị của Đạo gia là kỹ thuật thi công; tư tưởng Nho gia như là chất liệu xây dựng. Chính sự kết hợp một cách độc đáo, tài tình ba học thuyết Nho - Lão - Pháp, Hàn Phi đã trở thành đại biểu xuất sắc nhất của Pháp gia và sách Hàn Phi Tử được coi là bộ “tập đại thành” những tư tưởng về pháp luật trong thời Xuân Thu - Chiến quốc. Đến cuối thời nhà Chu, xã hội rơi vào rối ren và loạn lạc vì thiên tử nhà Chu chỉ lo chơi bời ham mê tửu sắc, bóc lột, hà hiếp nhân dân. Trong nước, lòng dân oán thán và nổi dậy để lật đổ nhà Chu. Do đó, mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân trở nên vô cùng căng thẳng, đã đẩy mâu thuẫn xã hội lên đến đỉnh điểm. Trước tình hình đó, tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi ra đời thể hiện một bước tiến nhất định trong quá trình hoàn thiện nhà nước, đặc biệt là góp phần củng cố mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân. Aristotle (384 - 322 tr. CN) là triết gia nổi tiếng và là bộ óc bách khoa của nền khoa học và triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là người sáng lập ra khoa học chính trị bởi những cống hiến vĩ đại trong lĩnh vực nhà nước và pháp quyền. Suốt cả cuộc đời, Aristotle đã đi đến rất nhiều nơi, trải nghiệm được rất nhiều điều, tận mắt chứng kiến những diễn biến chính trị tại nhiều thị quốc. Chính sự dày công tìm tòi, bám sát thực tiễn đầy biến động trong đời sống chính trị kết hợp với lượng lớn tri thức được tích lũy từ trước, cùng những suy tư trăn trở của triết gia đã giúp ông vạch ra được những tư tưởng mang ý nghĩa lớn lao mà người đời sau phải kính nể. Xã hội Hy Lạp thời kỳ chiếm hữu nô lệ chứa đựng bên trong những mâu thuẫn gay gắt làm nảy sinh những trường phái, tầng lớp, lực lượng đối lập nhau do lợi ích giai cấp. Cùng với nó là sự khủng hoảng và suy yếu của nền dân chủ Athens – đã từng được ca ngợi là sự thể nghiệm đầu tiên của nhân loại về mô hình nhà nước dân chủ. Người Hy Lạp phát minh ra dân chủ nhưng đồng thời họ cũng biến dân chủ trở thành tr chơi chính trị. Trước một nền dân chủ đang bộc lộ dần những khuyết tật; kéo theo đó là sự khủng hoảng niềm tin và chao đảo trong đời sống tinh thần do mâu thuẫn giữa khát vọng và hiện thực, giữa nhân dân với giới cầm quyền, các nhà tư tưởng thời kỳ này đã đưa ra nhiều phương án khác nhau để cứu vãn hệ thống thành thị đang hấp hối. Trong bối cảnh đó, học thuyết chính trị của Aristotle ra đời như câu trả lời đầy trách nhiệm của triết gia đối với thời cuộc. Ông được xem là người đặt nền móng vững chắc cho tư tưởng pháp quyền của nhân loại. Nhìn lại lịch sử, chúng ta nhận thấy, đây là thời kỳ đặc biệt của nhân loại. Thời kỳ mà theo Karl Jaspers gọi là “Thời trục” [5, tr.178] của lịch sử loài người, tức là thời kỳ có nhiều biến đổi lớn lao trong đời sống xã hội, “đã song song xảy ra những phép lạ phi thường” [5, tr. 179] như một sự gặp gỡ tất yếu, lần đầu tiên ở Hy Lạp, Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại. Hàn Phi và Aristotle là những tên tuổi lớn đã đặt cột mốc cho bước ngoặt lịch sử đó. Họ đã không hẹn mà gặp để giải quyết những vấn đề mà lịch sử - xã hội đặt ra. 2. Nội dung tư tưởng về pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi được thể hiện rõ trong quan niệm về nhà nước (với đại diện là vua), về nhân dân và mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân. 117 Ông cho rằng, dân sẽ vì vua nếu vua tạo cho dân chúng niềm tin bằng hình thức thi hành chính sách thưởng phạt thật nghiêm. Khi dân chúng đã có niềm tin rồi thì họ “nghe nói đến chuyện chiến đấu đã dẫm chân, xắn áo xông vào nơi gươm giáo, giẫm lên lửa đạn, quyết tâm liều chết” [6, tr. 28]. Nếu nhà vua “miệng nói khen thưởng nhưng lại không cho; miệng nói trừng phạt nhưng lại không thi hành. Thưởng phạt đều không chắc như đã nói cho nên dân không liều chết” [6, tr. 28]. Ông nhận thức được nhân dân có vai trò to lớn trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Hàn Phi đề cao vai tr của dân. Ông nói, “nếu không có đất, không có dân, thì Nghiêu Thuấn cũng không thể làm vương” [6, tr. 161]. Sở dĩ nhà vua được yêu và tôn quý là vì; “bậc vua chúa được thiên hạ nhất trí ra sức cùng nâng đỡ cho nên yêu. ọi người cùng đồng l ng lập ông ta lên cho nên ông ta được tôn quý” [6, tr. 257]. Do vậy, người làm vua nếu không biết yêu dân nước mình mà đi yêu dân nước khác, thì dân trong nước không ủng hộ ông ta. Từ đó, ông chủ trương, “vua và tôi thân yêu nhau, cha và con giữ gìn cho nhau” [6, tr. 13 ]. Người làm vua phải nghĩ đến dân, phải lấy cái lợi lớn của dân đặt lên hàng đầu, không nên ham cái lợi nh mà hại đến cái lợi lớn. Trong nước, nếu sưu dịch nhiều thì dân khổ, dân khổ thì k có quyền thế nổi lên dẫn đến sưu dịch ngày một tăng. Để làm cho dân bớt khổ thì nhà vua phải giảm sưu dịch. Nhà vua đối với dân thì phải giữ chữ tín. Nếu “điều tín nh giữ được thì điều tín lớn được xác lập, cho nên vị vua sáng chứa chất chữ tín. Việc thưởng phạt không tin chắc thì mệnh lệnh và những điều ngăn cấm không được thi hành” [6, tr. 318]. Để gắn kết mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân trở nên vững chắc hơn thì Hàn Phi chủ trương dùng đạo. “Đạo của bậc vua sáng là làm đúng pháp luật. Pháp luật của ông ta hợp với l ng người. Cho nên khi cai trị thì theo đúng pháp luật, khi rời b thì nghĩ đến đạo” [6, tr. 2 6]. Việc giáo hóa dân cũng như trồng cây. Nếu “trồng cây lê, cây quýt thì lúc ăn được quả ngọt, lúc ngửi, được mùi thơm. Trồng cây chỉ cúc thì khi lớn lên gai đâm người. Cho nên người quân tử cẩn trọng trong việc trồng cây gì” [6, tr. 361]. Theo tư tưởng Hàn Phi, việc trồng người là việc làm vô cùng quan trọng của nhà vua, nó quyết định đến sự thịnh suy của một nước. Do vậy, nhà vua phải đặt ra pháp chế để dân không phạm phải những lỗi lầm. Như vậy, nếu trên dùng hình phạt thì bọn gian đều chấm dứt, bọn gian không c n thì sẽ có lợi cho dân. “Dùng pháp luật làm cho người ta phục theo. Nhờ vậy mà tiếng khen lan rộng và tên tuổi có oai, dân trị mà nước yên, đó là ph p biết dùng dân vậy” [6, tr. 83]. Hàn Phi chủ trương nhà vua phải “phát chẩn cho k ngh o và thương xót tới những người mồ côi và góa bụa, thi hành ân huệ để trợ cấp cho những người không có đủ” [6, tr. 369] như thế dân sẽ theo. Những năm gặp hạn hán thì nhà cai trị phải mở kho thóc để cấp cho dân ngh o, phân phát của cải trong kho cho dân. Để đảm bảo pháp quyền được thực thi một cách có hiệu quả, Hàn Phi chủ trương, thiết lập nên một hệ thống quan lại giúp vua thi hành chính sách và tấu tình hình thực tế. Ông nhấn mạnh, người làm vua tuy gi i nhưng không thể không có bầy tôi, không có bề tôi không phải là không có người mà là không có người trung thành với vua. “Dùng công việc để sử dụng người, đó là cái then chốt c n hay mất, trị 118 hay loạn” [6, tr. 515] của một nước. Người làm quan phải hết sức phụng sự và xây dựng đất nước, phải ở gần những người hiền, tránh xa những người hư h ng, sửa đổi những điều rối loạn. uốn trị dân, nhà vua chỉ cần trị quan lại, vì “chỉ nghe có quan lại làm loạn nhưng dân vẫn cứ tốt, nhưng không nghe có dân làm loạn nhưng quan vẫn cứ trị an một mình. Cho nên bậc vua sáng cai trị quan lại mà không cai trị dân” [6, tr. 39 ]. Hàn Phi cho rằng, chỉ có việc thưởng hậu, phạt nặng thì dân chúng mới tận tâm, tận lực vì nhà vua. Ông cho rằng, “Vua và tôi không có tinh thần của những người trong cốt nhục” [6, tr. 127]. Từ việc phân tích tâm lý của dân, Hàn Phi cho rằng, “hình phạt nghiêm là điều mà dân vẫn sợ. Phạt nặng là điều dân vẫn gh t. Cho nên bậc thánh nhân bày ra cái người ta vẫn sợ để cấm không cho người ta làm bậy; đưa cái người ta vẫn gh t để ph ng điều gian dối của họ” [6, tr. 13 ], chính vì thế mà nhà nước mới trị an. Việc thưởng phạt phải “khiến cho k mạnh không lấn át người yếu, k đông không xúc phạm số ít, người già cả được th a l ng, người tr và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm phạm” [6, tr. 13 ]. Khi thưởng phải x t đến công lao. Nếu nhà vua thưởng những người không có công thì dân oán thán, vì của cải hết. “Dùng thưởng mà sai lầm là b mất dân, dùng hình phạt mà sai lầm thì dân không sợ. Có thưởng nhưng không đủ để khuyến khích, có phạt nhưng không đủ để ngăn cấm thì dù nước có lớn cũng nguy” [6, tr. 162]. Hình phạt và khen thưởng không được x t rõ thì dân không có công mà lại cầu được thưởng, có tội mà mong được tha. Việc thưởng phạt của nhà vua là tùy theo chỗ làm đúng hay sai. Nếu người làm vua “miệng nói khen thưởng nhưng lại không cho; miệng nói trừng phạt nhưng lại không thi hành. Thưởng và phạt không chắc chắn” [6, tr. 28] thì dân không tin. uốn dân tin trước hết vua biết b điều riêng tư, cong quẹo, mà theo ph p công thì dân sẽ được yên mà nước sẽ được trị. Từ sự phân tích trên cho thấy những yếu tố pháp quyền trong tư tưởng của Hàn Phi. Ông đã đánh giá rất cao vai tr của dân, ông khẳng định “làm vua mà không có bầy tôi thì làm sao mà có nước được” [6, tr. 73]. Tư tưởng của ông đã có những tiến bộ nhất định trong mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân. Tư tưởng pháp quyền của Aristotle Tư tưởng pháp quyền của Aristotle được thể hiện xuyên suốt trong những luận giải chính trị của ông. Để chỉ ra nguồn gốc ra đời của nhà nước, Aristotle cho rằng, sở dĩ con người sống quần tụ với nhau, tập hợp lại trở thành gia đình, làng xã, rồi đến quốc gia vì cùng hướng đến chung một lợi ích là đạt đến đời sống tốt đẹp cho cả cá nhân và cộng đồng. Aristotle cho rằng, “mỗi quốc gia là một loại cộng đồng, và mỗi cộng đồng được thành lập hướng đến với một số điều tốt đẹp; vì con người luôn luôn hành động để đạt được những gì mà họ cho là tốt. Tuy nhiên, nếu tất cả các cộng đồng đều hướng đến một số mục tiêu tốt đẹp nào đó thì nhà nước hoặc cao nhất là cộng đồng chính trị, là bộ phận cao nhất, và bao gồm tất cả phần còn lại, hướng đến điều tốt đẹp ở mức độ cao hơn và nhắm đến mức độ cao nhất” [1, p. 3] và lý do để nhà nước tồn tại là để giúp cho công dân sống một đời sống tốt. Điều đó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và công dân. Ở đây, nhà nước như là phương tiện để giúp công dân đạt được những mục đích của cuộc sống; nhưng đồng thời, chính những ước vọng cao đẹp 119 đó sẽ là điều kiện để duy trì sự tồn tại của nhà nước đó. Con người “tự bản chất là một động vật chính trị” [1, p. 5], tồn tại với tư cách là một bộ phận gắn bó, không thể tách rời của nhà nước. Chỉ có thể sống trong một cộng đồng nhà nước, tạo nên một liên hợp bao gồm nhiều cá nhân với nhau, con người mới có thể th a mãn được những nhu cầu và được hưởng đầy đủ những quyền công dân của mình. Quyền công dân được thể hiện rõ trong vai tr mà nhà nước mang lại. Trước hết, mục đích tối cao của việc hình thành và duy trì sự tồn tại của nhà nước là mang lại cuộc sống tốt cho con người. Aristotle đã lấy tiêu chuẩn để xác định các hình thức nhà nước kiểu mẫu là khả năng phụng sự lợi ích chung. Thể chế nhà nước nào lấy lợi ích xã hội làm cứu cánh, thì được liệt vào hình thức kiểu mẫu; ngược lại, thể chế nhà nước nào tuyệt đối hóa quyền lực của cá nhân hay của một nhóm thiểu số thì bị quy về hình thức lệch lạc. Tiếp đến, nhà nước phải có vai tr đào tạo công dân về mặt đức hạnh. Nhiệm vụ chính của nhà nước là giáo dục công dân đi đến hoạt động một cách ngay thẳng, dạy cho họ biết nhắm đến mục tiêu cao thượng của cuộc sống và vững bước trong cuộc sống đó. Do đó, công dân sẽ là những người can đảm, điềm tĩnh, tự do, cao thượng, thực hiện công bằng, cư xử như những người bạn hoàn hảo, tóm lại là những con người “đẹp và tốt”. Với tư cách là thành viên của cộng đồng chính trị, công dân là người có quyền tham gia chính sự và giữ những chức vụ trong chính quyền, tức là được ph p tham gia vào những công việc của thành bang; bởi theo ông, mọi công dân có đức hạnh đều có quyền cai trị. Như vậy, quyền công dân được thể hiện rõ trong vai tr mà nhà nước mang lại cho người dân, khi cá nhân đó được sống với tư cách là thành viên của xã hội; đó quyền được hưởng một cuộc sống tốt đẹp mà nhà nước – một cộng đồng chính trị hoàn hảo nhất – mang lại, quyền được giáo dục, quyền được tham gia vào chính sựĐây là những quyền hết sức cơ bản và chính đáng của con người, được Aristotle đưa ra ngay từ thời cổ đại. Quyền công dân chính là một trong những biểu hiện cơ bản của tư tưởng pháp quyền Aristotle cho rằng, vì con người có khả năng nhận thức điều tốt và điều xấu, công bằng và bất công, nên sự xuất hiện của nhà nước được bắt nguồn trực tiếp từ nhu cầu quản lý cộng đồng, quản lý xã hội, vì nếu không có sự quản lý thì con người không thể sống và sống tốt được, không có sự an toàn cho mọi người. Sự ra đời của nhà nước như là nhu cầu tất yếu để th a mãn khát vọng sống và sống tốt đẹp hơn trong trật tự và văn minh. “Bởi vì con người, khi đã hoàn thi ... hức về bản thân và trách nhiệm đối với xã hội. Nhiệm vụ của công dân là giữ cho sự an toàn của chế độ. Aristotle xem đó là phẩm chất, là đức hạnh chung của mọi công dân. Như vậy, người công dân trong quan điểm của Aristotle không chỉ có những quyền nhất định mà c n phải có nghĩa vụ đối với nhà nước. Nhà nước phải đảm bảo lợi ích chung và mang lại cuộc sống tốt đẹp cho những công dân của mình; và ngược lại, công dân phải có những nhiệm vụ nhất định đối với nhà nước (trong đó nhiệm vụ cao nhất là tránh làm những việc ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ). Như vậy, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là sự tương quan hai chiều, quyền lợi luôn đi đôi với nghĩa vụ. Mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ chủ đạo trong xã hội, vừa thể hiện vai trò của một nhà nước là phục vụ, vừa thể hiện trách nhiệm của công dân trước nhà nước. Điều này đã toát lên tư tưởng pháp quyền khá tiến bộ của ông. 3. Giá trị tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle Giá trị thứ nhất, tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle hướng đến một xã hội thịnh trị Hàn Phi và Aristotle là những nhà tư tưởng nổi tiếng của thời kỳ cổ đại. Cả hai ông đều chứng kiến một xã hội đang bị đổ vỡ những giá trị và niềm tin. Xã hội mà Hàn Phi đang sống rơi vào tình trạng bạo loạn và phân tranh. Vì thế, tư tưởng về pháp quyền của ông ra đời nhằm mục đích đưa nước từ loạn thành trị. Cũng tương tự như thế, ở phương Tây, các thành bang của Hy Lạp cũng lâm vào bế tắc và đang rất cần có những phương án đưa xã hội để thoát ra kh i sự khủng hoảng do những khuyết tật của nền dân chủ mang lại. Do vậy, tư tưởng về pháp quyền cùng với những vấn đề khác trong chính trị học của Aristotle đều nhằm giải quyết những yêu 121 cầu cấp bách mà thời đại ông đặt ra. Bối cảnh lịch sử và dấu ấn đẳng cấp được in đậm trong tư tưởng, tư tưởng pháp quyền của cả hai ông đều thể hiện khát vọng hướng đến một xã hội thịnh trị, một nhà nước tốt đẹp nhất dành cho con người. Tư tưởng pháp quyền là đ i h i vô cùng bách cấp trong bối cảnh xã hội rơi vào loạn lạc. Vì thế, nó góp phần tạo ra hiệu quả to lớn cho học thuyết chính trị của Hàn Phi và Aristotle. Tư tưởng của cả hai ông đều được trọng dụng và được ứng dụng vào mô hình nhà nước cụ thể (tuy nó còn mang tính sơ khai). Trên thực tế, tư tưởng chính trị của Hàn Phi đã giúp cho Tần Thủy Hoàng thống nhất được Trung Hoa, thành lập nên nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, chấm dứt một thời kỳ dài phân quyền loạn lạc; c n tư tưởng chính trị Aristotle đã góp phần giúp cho học trò của ông – Alexander Đại đế trở thành vị tướng thành công nhất trong lịch sử nhân loại, người đã chinh phục gần như toàn bộ thế giới mà ông biết đến trước khi qua đời. Thế mới biết được cái tài hoa và những đóng góp to lớn của nhà tư tưởng đối với lịch sử. Giá trị thứ hai, tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle đề cao mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân. Hai ông đã đại diện cho hai quan điểm - phương Đông và phương Tây, và đã nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ này. Họ khẳng định vai trò không thể thiếu của nhà nước; bên cạnh đó, cũng không thể hạ thấp, xem thường vai trò của dân. Nếu Hàn Phi cho rằng, nước một ngày cũng không thể thiếu vua và người làm vua, nếu không có dân thì cũng không có nước; sở dĩ, xuất hiện vua ở đây là vì trong ý thức hệ phong kiến, vua là đại diện cho nhà nước, nhà nước là nhà nước của vua; thì Aristotle lại đưa ra quan điểm, nhà nước phải biết chăm lo cho dân và xem việc phụng sự cho lợi ích chung là mục đích, là điều kiện để duy trì sự tồn tại của mình; đồng thời, người dân chỉ có thể đạt đến cuộc sống đức hạnh khi được sống trong cộng đồng nhà nước và phải có nghĩa vụ bảo vệ nhà nước đó. Như vậy, ngay từ thời cổ đại, cả hai ông đều khẳng định mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời giữa nhà nước với nhân dân. Trong mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân của Hàn Phi và Aristotle là họ không chỉ dừng việc ở việc đề cao mối quan hệ này mà còn ra sức củng cố, giữ gìn và bảo vệ để nó càng trở nên chặt chẽ. Cả hai người đều là những nhà pháp trị nổi tiếng nên đã chủ trương sử dụng pháp luật làm công cụ để gắn kết mối liên hệ giữa nhà nước với nhân dân. Nhà nước quản lý các hoạt động xã hội và kiểm soát những hành vi của dân chúng bằng hệ thống pháp luật; đồng thời cũng thông qua pháp luật, nhân dân được đảm bảo sự bình đẳng và các quyền cơ bản của mình, ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với nhà nước. Giá trị thứ ba, tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle hướng đến việc củng cố bộ máy nhà nước vững mạnh Để đảm bảo cho những giá trị của pháp quyền được thực thi, Hàn Phi và Aristotle đều đưa ra những biện pháp cụ thể hết sức hữu hiệu. Nếu như Hàn Phi chủ trương sử dụng hệ thống quan lại để giúp vua quản lý xã hội, thực thi chính sách và báo cáo tình hình thực tế; thì Aristotle lại nêu lên sự cần thiết để thiết lập nên các cơ quan chính quyền để theo dõi và giám sát các hoạt động của nhà nước. Tư tưởng quan lại phải hết lòng phụng sự và xây dựng nước; đồng thời quan lại còn là phụ 122 mẫu của dân, chăm lo cho dân và đối xử công bằng đối với mọi người của Hàn Phi; hay tư tưởng “không có một thị quốc nào có thể tồn tại mà không có những cơ quan cần thiết và không một thị quốc nào có thể được quản lý tốt nếu không có những cơ quan hướng tới duy trì sự hài h a cân đối và trật tự” [1, p. 1 9], xác định rõ bản chất và chức năng của những cơ quan này của Aristotle; tất cả chứng t cả hai ông đều chủ trương, tổ chức bộ máy nhà nước chặt chẽ từ trên xuống dưới để công việc của nhà nước hoạt động có hiệu quả, quản lý tốt các hoạt động của nhân dân và của toàn xã hội. Ở đây, hệ thống quan lại và các cơ quan chính quyền được xem như những “cây cầu nối” để gắn kết giữa nhà nước với nhân dân, là những người thực thi giá trị pháp quyền một cách hiệu quả nhất. 4. Bài học lịch sử rút ra từ tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Từ những giá trị được rút ra, tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle đã để lại những bài học lịch sử quý giá cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Bài học lịch sử thứ nhất, phải xây dựng một bộ máy nhà nước vững mạnh với một hệ thống pháp luật chặt chẽ và thống nhất Tuy là một vấn đề được đặt ra từ thời cổ đại, song tư tưởng pháp quyền, trong đó việc đề cao tính nghiêm minh của pháp luật không hề bị mất đi giá trị trong thời đại của chúng ta. Trái lại, trong một xã hội văn minh, nó càng thể hiện vai trò quyết định đến việc tồn vong của chế độ nói riêng và sự sống còn của quốc gia, dân tộc nói chung. Nhìn vào hệ thống chính trị của nước ta hôm nay, có thể thấy rõ điểm tương đồng giữa chúng ta với cách tiếp cận của Hàn Phi và Aristotle về vai trò của pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với tất cả tính ưu việt của mình, nhấn mạnh vai trò của pháp luật. Chấp hành pháp luật cũng là cách thể hiện dân chủ. Pháp luật là tối cao, việc tuân theo pháp luật sẽ làm người dân trở nên bình đẳng, được bảo vệ những quyền lợi chính đáng; từ đó là cơ sở để tạo nên sự đồng thuận xã hội. Do đó, chúng ta không coi pháp luật như một công cụ cai trị, mà là công cụ bảo vệ quyền lợi của người lao động, của toàn thể nhân dân. Trong thời đại ngày nay để giữ vững ph p nước đ i h i nhà nước phải nhanh chóng kiện toàn hệ thống pháp luật, phải thống nhất pháp luật từ trung ương đến địa phương, tránh tình trạng ở trung ương chỉ thị xuống thì đúng nhưng ở cấp cơ sở thì lại thi hành sai chỉ thị. Để khắc phục những tình trạng đó thì cần phải nhờ đến tính nghiêm minh của pháp luật. Pháp luật là công cụ để ổn định chính trị - xã hội của đất nước chính vì thế Đảng cộng sản Việt Nam đã không ngừng quyết tâm hoàn thiện hệ thống chính trị theo hướng lấy chủ nghĩa ác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nòng cốt đồng thời tiếp thu những tinh hoa của nhân loại nhằm xây dựng một đất nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Như vậy, với tư tưởng pháp quyền, Hàn Phi và Aristotle đã đề cao pháp luật tạo nên sự ổn định và kỷ cương, tổ chức đời sống xã hội chặt chẽ là điều kiện quan trọng để tiến đến nhà nước lý tưởng, là biện pháp hữu hiệu để đưa xã hội đang khủng hoảng từ tình trạng phân rã, xung đột chính trị trở lại với quỹ đạo phát triển. Ngày này, chúng ta cũng đang gắng sức hoàn thiện hệ thống pháp luật để ổn định 123 chính trị nhằm đạt đến sự phát triển bền vững. Do đó, chúng ta càng cảm nhận sâu sắc thông điệp mà Hàn Phi và Aristotle đã truyền lại cho thời đại sau. Bài học lịch sử thứ hai, phải đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân Một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng pháp quyền là khẳng định quyền của con người. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền của con người trước hết được khẳng định qua quyền làm chủ của nhân dân. Đây là một trong những nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quyền làm chủ nhà nước của nhân dân cần phải được đảm bảo bằng những quy định của Hiến pháp, pháp luật; đồng thời, phải đảm bảo được tôn trọng và thực hiện trên thực tế. Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất đã thừa nhận quyền làm chủ của nhân dân, nó tiếp tục được khẳng định qua nhiều lần sửa đổi Hiến pháp khác nhau và trải qua những kì Đại hội Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân”. Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: tham gia bầu cử các đại biểu của mình vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; tham gia các công việc quản lý nhà nước ở địa phương và cơ sở; tham gia xây dựng, đánh giá các chủ trương chính sách và góp ý kiến điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi để các chủ trương chính sách phù hợp với thực tiễn; có quyền giám sát, chất vấn và đ i h i sự công khai minh bạch trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước; có quyền được cung cấp thông tin kịp thời và chính xác để tiến hành cơ chế “nhà nước và nhân dân cùng làm”, “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”; có quyền khiếu nại, tố cáo, phát hiện và đề nghị thanh tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức của cán bộ, công chức. Vai trò quản lý của Nhà nước phải đảm bảo thực hiện đúng và đủ các nội dung trên để thể hiện bản chất của nhà nước là “của dân, do dân và vì dân”. Hiện nay, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ được đảm bảo bằng Hiến pháp và pháp luật; mà còn bằng hệ thống truyền thông, các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc vận động, thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thông qua vai tr của các Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực và có nhiều nơi đã thực hiện dân chủ nhưng chỉ mới là dân chủ hình thức; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Do đó, cần phải nghiêm trị những hành vi nói trên để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lịch sử thứ ba, củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle hàm chứa mối quan hệ giữa hai lực lượng cơ bản của đời sống chính trị - xã hội; đó là nhà nước và nhân dân. Tư tưởng đó để lại cho chúng ta bài học lịch sử to lớn; bởi ngày nay, Đảng – Nhà nước cùng với nhân dân song hành trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, cùng nhau thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa 124 đất nước; và chính nhân dân đã trở thành những người chủ thực sự của quá trình đó. Dân có giàu thì nước mới mạnh; bởi không thể nói một đất nước giàu khi người dân chưa đủ no, một đất nước dân chủ khi người dân mất đi quyền tự chủ được. Trình độ dân trí và chất lượng cuộc sống của nhân dân đã trở thành thước đo chuẩn xác nhất về trình độ văn minh của xã hội. Do đó, để tăng cường sự gắn bó giữa nhà nước với nhân dân thì nhà nước phải thực sự lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cao cả. Nhà nước chăm lo mọi mặt, tạo điều kiện để phát triển toàn diện về trí tuệ, thể chất và tinh thần; nguyên tắc công bằng được khẳng định thông qua chính sách xã hội phục vụ người lao động. Tất cả mọi hoạt động của nhà nước đều hướng đến vì lợi ích của nhân dân, ngoài lợi ích của nhân dân thì không còn một lợi ích nào khác. Một khi mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân được củng cố và trở nên tốt đẹp thì sẽ thực thi giá trị của pháp quyền một cách hiệu quả nhất. 5. Thay lời kết Hàn Phi và Aristotle là những đại diện tiêu biểu của phương Đông và phương Tây. Là nhà pháp trị, hai ông đã đưa ra những tư tưởng pháp quyền đầu tiên cho nhân loại. Tuy có sự khác biệt về điều kiện lịch sử và lập trường giai cấp nhưng tư tưởng pháp quyền của hai ông chứa đựng những giá trị to lớn như: đều hướng đến một xã hội thịnh trị, đề cao mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân, hướng đến việc củng cố bộ máy nhà nước vững mạnh. Từ những giá trị đó, tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle để lại nhiều bài học bổ ích cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Đó là phải xây dựng một bộ máy nhà nước vững mạnh với một hệ thống pháp luật chặt chẽ và thống nhất, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aristotle (1999), The Politics, Translated in to English by Benjamin Jowett, Batoche Books, Kitchener. 2. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Thanh Niên, thành phố Hồ Chí Minh. 3. Doãn Chính (chủ biên) (2003), Đại cương lịch sử triết học Phương Đông cổ đại, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội. 4. Doãn Chính (2005), Triết lý phương Đông giá trị và bài học lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Karl Jaspers (2004), Triết học nhập môn, Lê Tôn Nghiêm dịch và giới thiệu, Nxb. Thuận hóa, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2004. 6. Hàn Phi (2005), Hàn Phi Tử, Nxb. Văn học, Hà Nội, (bản dịch của Phan Ngọc). 7. Marcel Prelot, Georges Lescuyer, Lịch sử các tư tưởng chính trị, Chương trình khoa học – công nghệ KX. 5, đề tài KX 05 – 02 (Bùi Ngọc Chương dịch). 8. Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái dịch (1993), Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Nguyễn Văn Vĩnh (chủ biên) (2007), Aristotle và Hàn Phi Tử - con người chính trị và thể chế chính trị, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. Ngày nhận bài: 22/02/2016 Biên tập xong: 15/03/2016 Duyệt đăng: 20/03/2016
File đính kèm:
- tu_tuong_phap_quyen_cua_han_phi_va_aristotle_gia_tri_va_bai.pdf