Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích và vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954)
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động của mình đã để lại cho Đảng, nhân dân và quân đội
ta những tư tưởng cách mạng và tư tưởng quân sự vô giá. Trong đó, tư tưởng về xây dựng lực lượng
dân quân du kích là một trong những tư tưởng đã thâm nhập sâu sắc trong quần chúng, trở thành sức
mạnh vật chất to lớn, đưa nhân dân ta đi đến chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Nhận thức đúng đắn
về vai trò của lực lượng dân quân du kích và chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp, Đảng
bộ tỉnh Hải Dương đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra những chủ trương, đường lối xây dựng
lực lượng dân quân du kích phù hợp với thực tiễn, góp phần tạo nên thắng lợi của dân tộc trong kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954. Đây cũng là cơ sở để xây dựng nền quốc
phòng toàn dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ đất nước
hiện nay.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích và vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954)
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 121 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích và vận dụng của Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954) Ho Chi Minh’s congress on the development of the multi personal and military population of the Hai Duong province in the longterm foreign war (1946–1954) Đặng Thị Dung Email: dungdungdhsd@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 13/4/2018 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 22/12/2018 Ngày chấp nhận đăng: 27/12/2018 Tóm tắt Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động của mình đã để lại cho Đảng, nhân dân và quân đội ta những tư tưởng cách mạng và tư tưởng quân sự vô giá. Trong đó, tư tưởng về xây dựng lực lượng dân quân du kích là một trong những tư tưởng đã thâm nhập sâu sắc trong quần chúng, trở thành sức mạnh vật chất to lớn, đưa nhân dân ta đi đến chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Nhận thức đúng đắn về vai trò của lực lượng dân quân du kích và chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra những chủ trương, đường lối xây dựng lực lượng dân quân du kích phù hợp với thực tiễn, góp phần tạo nên thắng lợi của dân tộc trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954. Đây cũng là cơ sở để xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Từ khóa: Xây dựng lực lượng dân quân du kích ở Hải Dương giai đoạn 1946-1954; lực lượng dân quân du kích; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích. Abstract President Ho Chi Minh during his activities left the Party, people and army of revolutionary thoughts and invaluable military ideals. In it, the idea of building a guerrilla militia is one of the thoughts that have penetrated deeply in the masses, becoming great material forces, bringing our people to victory over all invading enemies. The right understanding of the role of guerrilla militia and guerrilla warfare in the resistance war against the French, the Party of Hai Duong province has applied Ho Chi Minh thought to set the guidelines, guidelines for building forces guerrilla militia in line with reality, contributing to the victory of the nation in the national resistance against the French colonial period 1946-1954. This is also the basis for the building of the entire people’s defense in the resistance war against American salvation and in the period of construction and protection of the country today. Keywords: Building guerrilla militias in Hai Duong period; guerrilla militia; Ho Chi Minh’s idea of building militias. Người phản biện: 1. PGS.TS. Đoàn Ngọc Hải 2. TS. Phạm Thị Hồng Hoa 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ khi đất nước ta bị thực dân Pháp thống trị, một vấn đề trọng đại đặt ra cho dân tộc ta là làm thế nào một nước thuộc địa, nửa phong kiến, đất không rộng, người không đông, kinh tế nghèo nàn, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, không có quân đội và vũ khí hiện đại lại có thể đánh thắng được kẻ thù đế quốc hung bạo, có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn mạnh. Xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, quyết chí giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, tiếp thu và phát triển lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã thấy được sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân, Người đã khẳng định: “Du kích là một cách chiến tranh của dân chúng 122 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang ba thứ quân đã được hình thành trong kháng chiến chống Pháp. Xã nào, thôn nào cũng có dân quân du kích tạo thành một tấm lưới rộng mênh mông, bao trùm cả nước, hễ giặc Pháp và Việt gian bước chân tới đâu là mắc phải lưới đó ngay. Trong kháng chiến họ rất kiên cường, trong sản xuất họ rất hăng say tăng gia sản xuất và bảo vệ lợi ích cho quần chúng. Chính vì thế Bác đã khẳng định: “Du kích là một lực lượng vô cùng to lớn trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Sức du kích thật mạnh thì chiến tranh giải phóng nhất định thắng lợi. Tổ chức chặt chẽ và rộng khắp, trong vùng địch và xung quanh vùng địch, làng nào, huyện nào, tỉnh nào cũng có du kích thì nó trở thành một tấm lưới sắt, một thứ “thiên la, địa võng” mà địch không tài nào thoát ra được. Địch đi đến đâu cũng bị chặn đánh. Địch làm gì cũng bị phá hoại. Du kích làm cho địch có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc, có chân tay cũng như què. Một bộ phận địch thì bị du kích tỉa dần, tỉa mòn. Bộ phận địch còn sống sót thì ăn không yên, ngủ không yên, nghe gió thổi chim kêu cũng hoảng sợ, rồi cũng bị tiêu diệt nốt” [7]. Như vậy, dân quân du kích giữ vai trò chiến lược, quan trọng trong suốt quá trình đấu tranh vũ trang giành thắng lợi cho cách mạng. Là lực lượng xây dựng và bảo vệ hậu phương của ta. Địch luôn phá hoại hậu phương của ta với nhiều thủ đoạn. Nhưng bộ đội chủ lực cần tập trung tác chiến, không thể dàn ra khắp mọi nơi. Vì vậy, dân quân du kích và bộ đội địa phương là lực lượng quan trọng để xây dựng và bảo vệ hậu phương một cách hiệu quả nhằm làm tê liệt bộ máy của quân thù, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta, mở rộng vùng tự do sau lưng địch Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân quân, tự vệ và du kích là một lực lượng của toàn dân tộc, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ động vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã” [5]. 2.2. Xây dựng lực lượng dân quân du kích vững mạnh góp phần sử dụng triệt để chiến thuật du kích, tạo nên thắng lợi của cách mạng Hồ Chí Minh đã khẳng định: Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Mục đích của chiến thuật du kích là đánh vào những yếu điểm của kẻ thù địch. Lối đánh du kích bao gồm các cuộc phục kích, phá hoại, đánh bất ngờ, dùng khí giới ít và kém chống với đế quốc có khí giới tốt và nhiều” [4]. Do vậy, xây dựng lực lượng vũ trang, trong đó có lực lượng dân quân du kích là tất yếu để phát huy sức mạnh toàn dân và thực hiện cách đánh sáng tạo của dân tộc. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích, Đảng bộ tỉnh Hải Dương trong những năm 1946-1954 đã tích cực xây dựng lực lượng dân quân du kích phát triển về mọi mặt, đáp ứng được yêu cầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN DU KÍCH 2.1. Dân quân du kích là lực lượng chiến lược tham gia sự nghiệp đấu tranh cách mạng Dân quân du kích là lực lượng vũ trang quần chúng gồm những công dân tình nguyện tham gia công tác quân sự địa phương, có nhiệm vụ chiến đấu chống giặc, bảo vệ chính quyền, nhân dân, là lực lượng đông đảo nhất được vũ trang và có tổ chức ở cơ sở, không thoát ly sản xuất. Họ vừa bám đất, bám dân, vừa đánh giặc, vừa cày ruộng, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa là quân, vừa là dân. Đây là lực lượng hùng hậu để bổ sung cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Dân quân du kích được tổ chức rất linh hoạt và rộng rãi. Ở thành phố, họ là những người công nhân; ở vùng nông thôn họ là những người nông dân. Họ được tổ chức, trang bị, huấn luyện cách sử dụng vũ khí cũng như hoạt động sáng tạo trên địa bàn Ngoài những đơn vị gồm những người hăng hái còn có các đội du kích như: “bạch đầu quân”, “nữ du kích”, “thiếu niên du kích” Đó là một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là nòng cốt để phát động toàn dân kháng chiến. Trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22-12-1944) Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân và vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện, cho nên cần phải tổ chức du kích khắp nơi, tăng gia sản xuất khắp nơi” [10]. LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 123 chớp nhoáng và rút lui nhanh. Do vậy, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh và quân đội, xuất phát từ thực tiễn dân tộc Việt Nam bị chủ nghĩa thực dân thống trị, ngay khi mới về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng đến việc xây dựng các đội dân quân du kích từ tiểu tổ, tiểu đội, trung đội, đại đội đến chi đội. Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một lực lượng dân quân du kích lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng: Phải phát triển và củng cố dân quân du kích về mọi mặt: tổ chức, trang bị, huấn luyện và tổ chức chiến đấu. Đi đôi với việc xây dựng về chính trị tư tưởng, phải xây dựng tổ chức thích hợp và chú ý đến vấn đề trang bị. Phương hướng chung để giải quyết vấn đề trang bị cho dân quân du kích là phát triển vũ khí thô sơ. Dân quân du kích phải sử dụng mọi loại vũ khí cổ truyền: chông tre, cung nỏ, lao, giáo mác, cuốc và các vũ khí lấy được của kẻ thù. Người đã khẳng định, xây dựng dân quân du kích phải dựa trên cơ sở quần chúng, cần phải có dân chúng tham gia và giúp sức. Du kích như cá, dân chúng như nước, cá không có nước thì cá chết, du kích không có dân thì du kích chết. Cho nên cần phải thu hút đông đảo quần chúng tham gia: Ai là người dân Việt Nam khỏe mạnh, muốn đánh Tây - Nhật, không sợ khó nhọc, nguy hiểm đều có thể thành một đội viên du kích. Do đó phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, phải tổ chức chặt chẽ, tập huấn hẳn hoi, chuẩn bị chu đáo để có giặc là đánh. Đồng thời phải có kỷ luật nghiêm minh. Người khẳng định: Phải đặc biệt chú ý tổ chức thật mạnh và nghiêm ngay trong vùng địch kiểm soát kỷ luật phải nghiêm như sắt, tinh thần vững như đồng, cái chí quật cường tất thắng, cái đạo đức: trí, dũng, liêm, trung của giải phóng quân. Để xây dựng dân quân du kích vững mạnh, trong thư gửi Hội nghị dân quân toàn quốc (4-1948) Hồ Chí Minh đã nêu bảy nguyên tắc tổ chức và hoạt động của dân quân du kích trong chiến tranh cách mạng: Một là, thiết thực tổ chức và thiết thực huấn luyện dân quân du kích từng làng, lấy dân quân du kích làng làm nền tảng; đồng thời phải kiện toàn các đội du kích thoát ly. Hai là, làm cho mỗi đội viên hiểu rõ và tin tưởng vào lực lượng của ta, tin tưởng vào vũ khí thô sơ của ta. Ba là, phối hợp thật chặt chẽ với Vệ quốc quân. Bốn là, làm cho mỗi đội viên hiểu rõ nhiệm vụ vẻ vang của họ. Năm là, làm cho họ hiểu rõ chiến thuật du kích là: Phải luôn giữ quyền chủ động, phải tìm địch mà đánh, phải luôn khuấy rối phá hoại địch, phải cộng những thắng lợi nhỏ thành thắng lợi to. Sáu là, phải thực hành tự cấp, tự túc, bằng cách thiết thực, bằng cách tăng gia sản xuất. Bảy là, phải thực hành những điều đó bằng cách thi đua. Đồng thời, Người cũng đưa ra bốn mưu mẹo khi đánh du kích: Thứ nhất: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, náo phía Đông đánh phía TâyThứ hai: Tránh trận gay go, không sống chết giữ đấtThứ ba: Hóa chỉnh vi linh (nghĩa là phân tán), hóa linh vi chỉnh (nghĩa là tập trung)Thứ tư: Mình yên đánh quân thù động, mình khỏe đánh quân thù mệt [6]. Những mưu mẹo này là cơ sở để dân quân du kích đánh bất ngờ, linh hoạt, đánh nhanh di chuyển nhanh, khi phân tán, lúc tập trung, đánh địch mọi lúc, mọi nơi, đánh địch bằng mọi vũ khí và bằng mọi hình thức. Trong quá trình kháng chiến được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện, dân quân du kích đã trở thành nguồn nhân lực dồi dào bổ sung và dự trữ cho việc mở rộng, phát triển bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Lực lượng dân quân du kích đã phát triển rộng khắp. Tháng 4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương. Tháng 8-1949, Đại đoàn bộ binh 308 - Đại đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội ta được thành lập. Tiếp đó, trong những năm 1950- 1952, các đại đội bộ binh 304, 312, 320, 316, 325 lần lượt được thành lập. Nhiều chiến sĩ và cán bộ du kích có phẩm chất chính trị và kinh nghiệm đã được bổ sung vào các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Dân quân du kích trong kháng chiến chống Pháp đã phát triển cả về số lượng và khả năng tác chiến, trở thành nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc. Phối hợp cùng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đánh bại nhiều cuộc càn quét của địch, mở rộng khu căn cứ, bảo vệ vùng tự do của ta. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch, dân quân du kích đã phối hợp cùng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, nổi bật là trong chiến dịch Hòa Bình 124 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 và chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Như vậy, xây dựng lực lượng dân quân du kích và phát triển chiến tranh du kích góp phần tạo lực, lập thế, đánh địch bằng mưu mẹo, lấy ít đánh nhiều của dân tộc ta. Chiến tranh du kích phải tiến lên chiến tranh chính quy và kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, thực hiện quan điểm chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc một cách toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích là một trong những nội dung quan trọng, khoa học và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới. 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG TRONG KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946–1954) Hải Dương - một vùng đất thuộc châu thổ sông Hồng, là một địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng nối liền thủ đô Hà Nội với Hải Phòng và Quảng Ninh. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích rộng khắp trong đó có lực lượng dân quân du kích tỉnh Hải Dương. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã chú trọng lãnh đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích từ không đến có, từ yếu đến ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cùng cả nước đánh đuổi quân thù. Căn cứ vào: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống dựng nước, giữ nước của nhân dân cũng như nhiệm vụ quân sự của địa phương, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã có những chủ trương, biện pháp đúng đắn, sáng tạo trong việc xây dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích địa phương, làm nên những chiến công oanh liệt, góp sức vào thắng lợi chung của dân tộc và làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng bất khuất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của một vùng đất “giàu của, giàu người, giàu chiến công” [2]. 3.1. Đảng bộ tỉnh Hải Dương xác định dân quân du kích là lực lượng chiến lược của cách mạng, tích cực chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích giai đoạn 1946-1950 Xây dựng và phát triển lực lượng Tháng 4 năm 1947, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ II họp tại Triều Dương xã Hòa ... huyện xuống cơ sở huấn luyện tại chỗ cho dân quân, du kích xã. Tháng 12 năm 1949, Tỉnh ủy Hải Dương quyết định cử LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 125 1/3 số đảng viên vào dân quân du kích. Bí thư chi bộ hoặc thường vụ chi ủy trực tiếp làm công tác chính trị viên xã đội. Qua đó tăng thêm sức mạnh cho dân quân du kích vừa rèn luyện đảng viên trong thực tế đấu tranh, nâng cao vai trò của Đảng đối với lực lượng dân quân du kích. Đồng thời, đã khơi sâu lòng căm thù cũng như khơi dậy lòng yêu nước, hiểu rõ nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng của mỗi một người dân. Về tổ chức Trong tỉnh đã thành lập các tổ đội chuyên môn để hướng dẫn dân quân du kích làm vũ khí tự tạo và hướng dẫn cách đánh, cách dùng vũ khí. Tổ chức huấn luyện cho công binh, du kích và tự vệ chiến đấu làm nòng cốt. Các đơn vị ở vùng tự do đã lần lượt đưa các đơn vị lên vùng có chiến sự để tập dượt, dưới hình thức “nghe súng”, vây đồn, quấy rối phá hoại; một bộ phận được tổ chức đi sản xuất nông nghiệp, các “trại dân quân thành lập để du kích thoát ly, thay phiên nhau lao động sản xuất”. Bên cạnh đó, các loại chông bẫy, mìn, tre, nứa, gỗ, sành sứ, sắt vụn cũng là những dụng cụ để phục vụ cho đời sống và sinh hoạt đều có thể làm ra vũ khí để giết giặc. Nguyên liệu sản xuất ra vũ khí không chỉ một vài nơi có, mà từ đồng bằng đến miền núi, từ nông thôn đến thành thị đều có và không bao giờ hết. Nhân dân tự nghĩ, tự làm phù hợp với sở trường mỗi người, mọi địa phương, phù hợp với lối đánh giặc độc đáo của dân tộc ta từ bao đời nay. Quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng dân quân du kích, Tỉnh ủy đã lãnh đạo nhân dân sản xuất vũ khí, xây dựng làng chiến đấu. Tính đến cuối năm 1949, xưởng quân khí sản xuất được 36.800 quả lựu đạn, 19.600 quả mìn. Xây dựng được 200 làng chiến đấu, trong đó có các làng rất kiên cố như làng chiến đấu thôn Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng (Bình Giang). Trong kháng chiến chống Pháp, du kích đường 5 dùng mìn đánh đổ một tàu chở quân, diệt và làm bị thương 100 tên lính Pháp. Ngoài ra còn làm tiêu hao lực lượng địch khi dân quân du kích sử dụng vũ khí tự làm khiến cho quân thù ở trong cứ điểm thì bị phóng bắn, ra ngoài cổng thì sa vào chông mìn, cạm bẫy, đi hành quân càn quét cũng bị chông mìn, cạm bẫy, tên phóng, ong đốt, trâu húc từ đó buộc phải bỏ ý đồ tấn công hoặc càn quét, ta thực hiện được ý định ngăn chặn và giam chân địch, bảo vệ được tài sản của nhân dân đồng thời giành thế chủ động. Như vậy, trong giai đoạn 1946-1950 Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng dân quân du kích trong kháng chiến chống Pháp từ không đến có, từ ít đến ngày càng đông đảo, từ số lượng đến đảm bảo về chất lượng. Với vũ khí tự tạo kết hợp với lối đánh linh hoạt với từng địa hình, lực lượng dân quân du kích đã phối hợp với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương làm nên những thắng lợi to lớn trên địa bàn tỉnh, góp phần vào thắng lợi chung của đất nước. 3.2. Đảng bộ tỉnh Hải Dương chỉ đạo tăng cường xây dựng lực lượng dân quân du kích trong giai đoạn tiến công chiến lược của cuộc kháng chiến (1951-1954) Bước sang giai đoạn 1951-1954, cách mạng chuyển sang tình hình mới. Trên địa bàn tỉnh Hải Dương, ở vùng địch chiếm đóng chúng sử dụng lực lượng tại chỗ, tăng cường củng cố bộ máy tề ngụy, tăng cường mở các cuộc càn quét xung quanh vị trí chiếm đóng và trục đường giao thông để ngăn cản hoạt động của du kích nhất là trên trục đường 186, 188. Sau 1 năm địch bắn phá, bình định đã trở thành “vùng tạm chiếm”, “vùng sau lưng địch”. Ở các huyện Đông Bắc của tỉnh (Chí - Nam - Kinh) địch hoàn toàn bình định. Chúng chiếm đóng 191 vị trí, tổng số quân lên tới 10.987 tên. Chiếm giữ 402 làng trong tổng số 755 làng trong tỉnh. Bộ đội địa phương ở các huyện rút vào căn cứ tránh giặc, không dìu dắt được dân quân du kích. Trước tình hình trên, nhiệm vụ quân sự của tỉnh là phải đối phó với âm mưu của địch, đồng thời tích cực xây dựng lực lượng để chuyển sang tổng tiến công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Củng cố và gia cường bộ đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích. Riêng liên khu III, phải đặc biệt chú trọng phát triển chiến tranh du kích đến cao độ.Thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh đã họp và tiếp tục khẳng định: Xây dựng lực lượng vũ trang (bộ đội huyện, du kích xã) đủ mạnh để đánh địch; Đẩy mạnh chiến tranh du kích lên cao độ, bộ đội địa phương và dân quân du kích của xã phải chủ động đánh địch ở địa phương của mình; dân quân du kích các xã tích cực rèn luyện phối hợp với bộ đội đánh địch mọi lúc. Hội nghị ở Rồi Son (8/1950) thuộc xã Thanh Cường thuộc khu du kích Hà Đông (Thanh Hà) và hội nghị ở Đèo Voi (Quảng Yên) đánh dấu 126 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 bước trưởng thành của Tỉnh ủy, chuyển hướng chỉ đạo kịp thời với tình hình những vấn đề then chốt: Xây dựng ngay những căn cứ du kích với mật danh A, B, C, D, E, H gọi là kế hoạch “mở đất”, vừa tác chiến vừa xây dựng: A: Khu Hà Đông (Thanh Hà) là du kích mạnh nhất B: Khu tây nam Ninh Giang và nam Thanh Miện C: Khu bắc Thanh Miện và nam Bình Giang C’: Khu bắc Bình Giang, Gừng, Đọ (đường 20) D: Khu nam Tứ Kỳ D’: Khu cầu Ràm E: Khu đông đường 17 H: Khu bắc Ninh Giang, nam Gia Lộc Các chủ trương của Tỉnh ủy là cơ sở để chỉ đạo thực tiễn xây dựng lực lượng dân quân du kích đáp ứng nhu cầu mới của cuộc kháng chiến. Về phát triển lực lượng và củng cố tổ chức Tỉnh đã xây dựng được 1 trung đội của đại đội 75 đóng quân ở xã Trường Thành, với trang bị bao gồm: 1 bazoka, 2 trung liên, 4 tiểu liên và một số súng trường. Bộ đội huyện Thanh Hà ở khu Hà Đông cũng có 1 trung đội đóng quân ở xã Tân Hưng, trang bị có: 1 trung liên, 2 tiểu liên và một số súng trường, du kích có 170 đồng chí Trong vòng 3 tháng thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, dân quân du kích đã phát triển mạnh. Phong trào thanh niên xung phong vào du kích khá sôi nổi nhất là ở Thanh Hà và Kinh Môn. Được trang bị thêm vũ khí, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích đã tổ chức nhiều trận đánh gây cho địch nhiều thiệt hại. Tỉnh đã mở được 117 lớp huấn luyện với 4.190 học viên được học tập các thao tác cơ bản trong sử dụng súng, lựu đạn, mìn và các chiến thuật chiến đấu cơ bản. Cuối năm 1953 toàn tỉnh có 7.812 du kích, 16.041 dân quân [9]. Đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng chính trị, trang bị huấn luyện. Lực lượng dân quân du kích được tổ chức từ thôn đến xã, có hệ thống theo dõi chặt chẽ từ tỉnh xuống huyện. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh ủy, nhân dân nêu cao tinh thần đoàn kết, đội ngũ cán bộ, đảng viên nhân dân không sợ nguy hiểm, lăn lộn với phong trào. Nhiều đơn vị bộ đội huyện, dân quân du kích các xã ven đường quốc lộ như xã Ái Quốc (Nam Sách), Quyết Thắng (Thanh Hà), Thạch Khôi, Nghĩa Hưng (Gia Lộc), Dân Chủ (Tứ Kỳ) để bảo vệ việc đưa đón, giao nhận tài liệu trong mọi tình huống. Tiêu biểu cho tinh thần của dân quân du kích đó là tấm gương của chị Mạc Thị Bưởi (người làng Mộc Lĩnh xã Nam Tân – Nam Sách). Ngày 18 tháng 4 năm 1951 địch bắt và tra tấn chị, biết không khuất phục được chị, chiều ngày 23 tháng 4 năm 1951, chúng dùng dao cắt vú chị, và sau đó ném xác xuống ao khi chị tròn 24 tuổi đời. Địch tưởng sẽ khủng bố được tinh thần nhân dân, nhưng ngược lại tấm gương dũng cảm của chị Bưởi đã cổ vũ nhân dân anh dũng kháng chiến. Một trung đội nữ du kích xã được thành lập, mang tên Mạc Thị Bưởi. Ngày 02-9-1955, Mạc Thị Bưởi được hội đồng Chính phủ truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Nhằm tiếp tục đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh và học tập gương hy sinh anh dũng của nữ anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi, Tỉnh ủy Hải Dương đã phát động phong trào “Nữ du kích thành Đông”. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, huyện Thanh Miện chỉ đạo tập trung 24 nữ du kích của một xã lên thành lập đơn vị nữ du kích tập trung, lấy tên là “Du kích Hoàng Ngân”. Ngày 01-3-1953, đội du kích Hoàng Ngân đã hóa trang tập kích tại chợ Chương diệt nhiều tên địch. Chiến công của du kích Hoàng Ngân đã cổ vũ phong trào nữ du kích trong tỉnh phát triển mạnh mẽ và trở thành cao trào, góp phần đưa phong trào du kích toàn tỉnh phát triển rầm rộ. Với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, quân và dân Hải Dương trên dưới một lòng rầm rộ khí thế giết giặc lập công. Hàng nghìn tấn lương thực được gửi ra tiền tuyến, ngoài gạo, thóc còn có hàng trăm kilogam đậu, lạc, vừng, hàng nghìn bánh thuốc, hàng chục tấn đường góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Trong giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1954, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã quán triệt đường lối của Đảng, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích để đề ra đường lối kháng chiến chống Pháp phù hợp với tình hình và phát huy được tinh thần yêu nước của nhân dân trong tỉnh. Dân quân du kích với khẩu hiệu: chiến đấu khi giặc đến, sản xuất khi giặc đi, đã đạt được những thắng lợi to lớn trong xây dựng lực lượng dân quân du kích cả về số lượng và chất LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 127 lượng, trình độ tác chiến được nâng lên so với giai đoạn 1946-1950. Nhân dân Hải Dương đã kiên cường vượt lên khó khăn, gian khổ, dũng cảm đấu tranh cách mạng, chiến đấu liên tục ròng rã suốt 2.777 ngày đêm trên địa bàn mang tính chiến lược, một cuộc chiến tranh du kích với đầy đủ tính chất toàn dân, toàn diện, chiến thắng cuộc chiến tranh tổng lực của thực dân Pháp và tay sai phản động. Quân và dân Hải Dương đã chủ động tích cực xây dựng lực lượng dân quân du kích dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, kết hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực đánh địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, lấy vũ khí địch tiêu diệt địch, hoàn thành nhiệm vụ mà Tỉnh ủy và Tỉnh đội giao phó. 4. VẬN DỤNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN DU KÍCH Ở HẢI DƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Trong giai đoạn cách mạng mới, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, sự chống phá của các thế lực bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu cao hơn. Quán triệt quan điểm của Đảng về đường lối quân sự, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã tích cực xây dựng lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích với phương châm “vững mạnh, rộng khắp và vững chắc”. Dân quân du kích tỉnh đã được quán triệt sâu sắc về đường lối, quan điểm quốc phòng, quân sự của Đảng trong tình hình mới, là lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc ở cơ sở khi có chiến tranh, góp phần tích cực vào công cuộc lao động sản xuất, xây dựng hòa bình, ổn định đất nước, tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh của Tổ quốc. Dân quân du kích tỉnh cũng quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân du kích, tự vệ rộng khắp, chủ động chuẩn bị lực lượng và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, đủ khả năng bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trong mọi tình huống” [3]; Luật dân quân du kích và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo khác. Thực hiện quan điển chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, số lượng dân quân du kích được xây dựng hợp lý, chất lượng ngày càng cao, lấy xây dựng chất lượng chính trị là chính, tổ chức biên chế, tinh gọn chặt chẽ, trang bị vũ khí phù hợp. Quy mô tổ chức cân đối giữa các thành phần lực lượng, giữa số lượng và chất lượng phù hợp với yêu cầu của tỉnh. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng, tập huấn cũng được đổi mới về nội dung, phương pháp nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các tình huống ở cơ sở. Làm nòng cốt của tỉnh trong phong trào chống lụt bão, tìm kiếm, cứu nạn, chữa cháy, khắc phục hậu quả thiên tai, tăng gia sản xuất, tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong toàn tỉnh. Thực tiễn xây dựng lực lượng dân quân du kích ở Hải Dương trong kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp giai đoạn 1946-1954 đã rút ra những kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng dân quân, du kích giai đoạn hiện nay như sau: Thứ nhất, nhận thức đúng vị trí, vai trò lực lượng dân quân du kích để xác định chủ trương phù hợp. Thứ hai, muốn xây dựng lực lượng dân quân du kích có số lượng và chất lượng cao, quá trình chỉ đạo phải linh hoạt, thích hợp với hoàn cảnh từng địa phương. Thứ ba, cần kết hợp đúng đắn giữa xây dựng lực lượng dân quân du kích với lực lượng vũ trang khác. Gắn xây dựng lực lượng dân quân du kích với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Thứ tư, dựa vào dân, thông qua phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân để xây dựng lực lượng dân quân, du kích. 5. KẾT LUẬN Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích là cơ sở để Đảng bộ và nhân dân các địa phương cả nước, trong đó có Đảng bộ tỉnh Hải Dương quán triệt, vận dụng, đề ra chủ trương, biện pháp chỉ đạo phù hợp với yêu cầu thực tiễn của Hải Dương. Trên cơ sở nắm chắc điều kiện địa lý tự nhiên, văn hóa – xã hội, truyền thống lịch sử của địa bàn tỉnh, Đảng bộ tỉnh Hải Dương đã đề ra chủ trương, biện pháp chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích rộng khắp tạo ra sức mạnh thắng lợi thực dân Pháp xâm lược, đồng thời những bài học kinh nghiệm của tỉnh Hải Dương về xây dựng lực lượng dân quân du kích cũng là cơ sở để cả nước xây dựng lực lượng dân quân du kích vững mạnh trong giai đoạn hiện nay. 128 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương (2008). Các kỳ Đại hội Đảng bộ. Nhà in Hải Dương, tr. 58. [2] Ban Thông sự tỉnh Hải Dương (4/1988). Báo cáo kinh nghiệm chiến tranh du kích của Tỉnh Hải Dương từ 19/12/1946 đến 1950. Lưu tại Thư viện tỉnh Hải Dương. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 147. [4] Sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh (1990). NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 43 [5] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, t5. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 136. [6] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, t3. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 327. [7] Hồ Chí Minh (1980). Chiến tranh nhân dân Việt Nam. NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.67. [8] Hải Dương, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ 1945-1975 (2001). NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. [9] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hải Dương (2008). NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 166, tr. 172, tr. 185. [10] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 – 2006). NXB Lao động, Hà Nội.
File đính kèm:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_xay_dung_luc_luong_dan_quan_du_kich.pdf