Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước

phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin,

đã và đang được vận dụng một cách sáng

tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cốt

lõi của toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí

Minh là gắn mục tiêu giải phóng dân tộc

với giải phóng giai cấp và giải phóng con

người. Vấn đề con người, chăm lo, bồi

dưỡng và phát huy nguồn lực con người là

một vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn

bộ tư tưởng, hành động của Người. Hồ Chí

Minh xem con người là “vốn”quý vì vậy

nguồn lực con người là “nguồn vốn” quý

báu cần được bồi đắp và phát huy trong

toàn bộ sự nghiệp cách mạng giải phóng

dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

pdf 8 trang kimcuc 7260
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015 
76 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người 
Ho Chi Minh’s ideology – Human resource promotion 
ThS. Lâm Thị Kho 
Trường Cao đẳng Cần Thơ 
M.A. Lam Thi Kho 
Can Tho College 
Tóm tắt 
Trong toàn bộ tài sản tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc, tuy không có tác phẩm nào 
bàn riêng về nguồn lực con người nhưng tư tưởng về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con 
người lại là một tư tưởng lớn, xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng của Người. Để đẩy mạnh sự nghiệp 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, 
một nhiệm vụ đặt ra chính là nghiên cứu, khai thác giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực 
con người. Bài viết này mong muốn góp phần làm rõ nội dung, giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề 
này. 
Từ khóa: nguồn lực con người, Hồ Chí Minh 
Abstract 
In the spirit of the whole invaluable property that Ho Chi Minh leaves to our nation, there is no 
separating discussion which works on human resource promotion that is considered as a great thought 
throughout his ideology. To promote the cause of industrialization and modernization of the country, 
that makes our country one by 2020, the main task is studying and exploiting the value of his thought on 
the issue. This article contributes to the clarification of the content, and the values of Ho Chi Minh on 
the matter. 
Keywords: human resource, Ho Chi Minh 
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước 
phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, 
đã và đang được vận dụng một cách sáng 
tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cốt 
lõi của toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí 
Minh là gắn mục tiêu giải phóng dân tộc 
với giải phóng giai cấp và giải phóng con 
người. Vấn đề con người, chăm lo, bồi 
dưỡng và phát huy nguồn lực con người là 
một vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn 
bộ tư tưởng, hành động của Người. Hồ Chí 
Minh xem con người là “vốn”quý vì vậy 
nguồn lực con người là “nguồn vốn” quý 
báu cần được bồi đắp và phát huy trong 
toàn bộ sự nghiệp cách mạng giải phóng 
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan 
niệm về con người được xây dựng trên nền 
tảng quan điểm biện chứng duy vật về lịch 
sử. Bản chất Con người là tổng hòa của các 
quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng. Người 
từng khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là 
gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa 
rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả 
77 
loài người” [4]. Hồ Chí Minh không bao 
giờ xem xét con người một cách trừu tượng 
mà luôn luôn xuất phát từ con người hiện 
thực, cụ thể trong các quan hệ xã hội với 
nhiều bình diện, chiều cạnh khác nhau. 
Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, 
trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân cả 
nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng 
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, 
Người luôn tin vào sức mạnh của con 
người, hết lòng thương yêu con người, quý 
trọng con người, quan tâm bồi dưỡng và 
phát huy nguồn lực con người. 
Sinh thời, tuy Hồ Chí Minh không có 
một tác phẩm nào bàn riêng về nguồn lực 
con người nhưng trên thực tế Người đã đề 
cập đến nguồn lực con người một cách 
toàn diện, sâu sắc. Hồ Chí Minh đề cập đến 
nguồn lực con người trên hai phương diện 
là con người cá nhân và con người cộng 
đồng. 
Thứ nhất, quan niệm của Hồ Chí Minh 
về nguồn lực con người xét trên phương 
diện cộng đồng dân tộc đó là nguồn lực 
nhân dân, sức mạnh của nhân dân, sức 
mạnh của cả dân tộc đã được giác ngộ, 
được đoàn kết, được lãnh đạo. Nói đến 
“dân”, “nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh là nói đến toàn thể nhân dân, công 
nhân, nông dân, trí thức, những người lao 
động ở nước ta. Hồ Chí Minh luôn đánh 
giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân, 
xem đó là nguồn sức mạnh vô tận không gì 
có thể thay thế. Người từng nói: “Dân là 
vốn quý nhất, có dân là có tất cả”. Theo 
Người, làm cách mạng giải phóng dân tộc 
hay xây dựng xã hội mới, công việc nào 
cũng khó khăn nhưng có nguồn lực của dân 
thì dù việc khó mấy cũng làm được, qua đó 
Người tổng kết thành kinh nghiệm mang 
tính khái quát cao: “Dễ trăm lần không dân 
cũng chịu; Khó vạn lần dân liệu cũng 
xong”. Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh đó chính là công nhân, nông dân, trí 
thức, những người dân lao động không 
phân biệt dân tộc, đảng phái, giàu, nghèo. 
Trong cách mạng giải phóng dân tộc và 
cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người luôn 
nêu cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc, xem 
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là 
động lực vĩ đại quyết định thành công của 
cách mạng. Từ lý luận và thực tiễn, Người 
khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn 
kết. Thành công, thành công, đại thành 
công”[7]; “đoàn kết là sức mạnh, là then 
chốt của thành công”[8]. Vì vậy, nói đến 
nguồn lực con người với tư cách là cộng 
động dân tộc là nói đến vai trò, sức mạnh 
của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn 
kết dân tộc. 
Thứ hai, nguồn lực con người còn 
được Hồ Chí Minh đề cập đến với tư cách 
là những con người cụ thể. Trong cách 
mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí minh chỉ 
rõ, đó là “con người xã hội chủ nghĩa”. 
Trong lần nói chuyện với Đại hội đảng bộ 
thành phố Hà Nội (20/6/1960), Hồ Chí 
Minh đã nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa 
xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa 
và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”[9]. Con 
người xã hội chủ nghĩa theo quan niệm của 
Hồ Chí Minh đó là con người: Đức – Trí – 
Thể - Mỹ, con người hội tụ trong mình cả 
đức và tài, hồng và chuyên. Tổng hợp lại, 
con người xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh 
nhắc đến là con người phải hội đủ hai yếu 
tố đức và tài. Đức chính là đạo đức cách 
mạng, những phẩm chất tiêu biểu và Người 
thường đề cập đó là: Trung với nước, hiếu 
với dân; là yêu thương con người; là cần 
kiệm liêm chính, chí công vô tư Tài 
trong quan niệm của Hồ Chí Minh là năng 
lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của 
mỗi người. Đức và tài phải thống nhất, hài 
hoà, tác động biện chứng với nhau. Trong 
mối quan hệ giữa đức – tài, Người yêu cầu: 
Tài càng lớn thì đức phải càng cao, vì đức - 
tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách 
mạng đến thắng lợi. Mặt khác, Người quan 
niệm “Đức là gốc” vì trong đức đã có tài, 
có cái đức sẽ đi đến cái trí. 
Ở Hồ Chí Minh nói đến con người với 
78 
tư cách là một nguồn lực, là nói đến những 
con người hiện thực, những con người với 
tư cách là chủ thể tiến hành các hoạt động 
thực tiễn, đang ngày đêm lao động, sản 
xuất, chiến đấu với tinh thần, trách nhiệm 
của người chủ nước nhà. Người chỉ rõ: 
“Ngày nay tất cả những người lao động – 
lao động chân tay và lao động trí óc – đều 
phải nhận thật rõ: mình là người chủ nước 
nhà” [10]. Và đã là người chủ thì phải: 
“làm tròn nghĩa vụ của người chủ”, phải 
“cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng 
chủ nghĩa xã hội, nhằm mục đích là không 
ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn 
hóa của nhân dân, trước hết là nhân dân 
lao động”[10]. Con người chỉ trở thành 
nguồn lực khi họ là những người lao động 
có sức khỏe, trí tuệ, phẩm chất, năng lực. 
Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng chủ nghĩa 
xã hội là khó khăn, gian khổ muốn đạt 
được mục đích thì “nhân dân ta phải ra sức 
thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết 
kiệm, mỗi người phải cố gắng trở thành 
người lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, 
anh hùng lao động”[10]. Người lao động là 
nguồn lực của đất nước khi họ trở thành 
những người lao động tiên tiến, anh hùng 
lao động trên mặt trận sản xuất. Người tin 
tưởng “chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây 
dựng được dưới sự giác ngộ đầy đủ và lao 
động sáng tạo của hàng chục triệu 
người”[8]. 
Xuất phát từ quan điểm cho rằng, sự 
phát triển dựa trên phát huy nguồn lực con 
người là yếu tố đảm bảo phát triển bền 
vững. Người đặc biệt coi trọng công tác bồi 
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau bởi 
“có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những 
thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng 
chủ nghĩa xã hội”[11]. Quan tâm sâu sắc về 
việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời 
sau, trong Di chúc Người viết: “Bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc 
rất quan trọng và cần thiết”[12]. Hồ Chí 
Minh dành niềm tin tưởng đối với thế hệ 
tương lai của đất nước vì thanh niên là 
người chủ tương lai của đất nước, gánh vác 
những trọng trách quan trọng là xây dựng 
xã hội mới. Để phát huy nguồn lực tiềm 
năng này Hồ Chí Minh chỉ rõ: “cho các 
cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề 
để đào tạo thành những cán bộ và công 
nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập 
trường cách mạng vững chắc. Đó là đội 
quân chủ lực trong công cuộc xây dựng 
thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. 
Đối với Hồ Chí Minh, nguồn lực con 
người và việc phát huy nguồn lực con 
người có vai trò quan trọng trong sự nghiệp 
giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. 
Hồ Chí Minh từng nói: “Vì chúng ta quên 
một lẽ rất đơn giản dễ hiểu: tức là vô luận 
việc gì, đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, 
từ gần đến xa, đều thế cả” [4]. “Tất cả của 
cải vật chất trong xã hội đều do công nhân 
và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của 
công nhân và nông dân, xã hội mới sống 
còn phát triển” [5]; quần chúng còn là 
người sáng tác nữa (các giá trị văn hóa - 
tinh thần). Hồ Chí Minh giải thích cơ sở 
khoa học cho vai trò đó xuất phát từ chỗ: 
“lực lượng dân chúng nhiều vô cùng dân 
chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một 
cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà 
những người tài giỏi, những đoàn thể to 
lớn, nghĩ mãi không ra” [4]. Người tổng 
kết: “cán bộ là gốc của công việc”, “muôn 
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ 
tốt hoặc kém” [4]; “Chúng ta phải biết quý 
trọng con người, nhất là công nhân, vì công 
nhân là vốn quý nhất của xã hội”, “Phải 
biết quý trọng sức người vì sức người là 
vốn quý nhất của ta” [7]. Theo Hồ Chí 
Minh, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống 
nhất nước nhà, xây dựng đời sống mới, tiến 
lên xã hội chủ nghĩa đều phải dựa vào 
“vốn” con người, vào việc phát huy nguồn 
lực con người. Nếu khinh dân, coi thường 
việc sử dụng và phát huy nguồn lực con 
người sẽ là một sai lầm rất to, rất có hại, có 
thể dẫn đến thất bại. 
Về phương diện phát huy nguồn lực 
79 
con người, Hồ Chí Minh đã nêu lên một số 
quan điểm như sau: 
- Đảng phải tổ chức và vận động 
dân chúng. 
Theo Hồ Chí minh cách mạng là việc 
chung của cả dân chúng chứ không phải 
việc của một hay hai người, muốn cách 
mạng thành công trước hết Đảng phải vận 
động, tổ chức dân chúng, làm cho dân 
chúng giác ngộ về cách mạng. Người chỉ 
rõ, để làm cách mạng thắng lợi, điều kiện 
hàng đầu là phải có Đảng của giai cấp công 
nhân, của cả dân tộc lãnh đạo, “để trong thì 
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì 
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai 
cấp mọi nơi”[1]. Vì vậy, “Đảng Lao động 
Việt Nam sẽ kết nạp những công nhân, 
nông dân, lao động trí óc, thật hăng hái, 
thật giác ngộ cách mạng’[5]. Trong chiến 
đấu, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ du kích 
cũng phải biết vận động tổ chức dân chúng. 
Người nói: “Nếu tập kích đánh tan được 
quân giặc, và nếu quân cứu viện của giặc 
không thể đến được thì bộ đội du kích có 
thể lưu lại chỗ tập kích ít lâu để tuyên 
truyền, tổ chức dân chúng”[2]. Nói về nông 
dân, những người tay không rồi, Hồ Chí 
Minh nhìn thấy ở họ có một sức mạnh vô 
cùng to lớn nếu họ được giác ngộ cách 
mạng và được tổ chức lại thành một khối 
thống nhất. Người nói: “Nông dân giác ngộ 
hăng hái thì kháng chiến mới mau thắng 
lợi, kiến quốc mới chóng thành công, nông 
dân mới được giải phóng”[5]. Người luôn 
tin tưởng “ta có hàng triệu chiến sĩ nông 
dân, khi đã giác ngộ thì họ là những chiến 
sĩ quyết chiến quyết thắng”[6]. Trong cách 
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã 
hội chủ nghĩa, mục đích của việc vận động, 
tổ chức dân chúng là làm cho dân chúng 
giác ngộ cách mạng là việc làm trước. 
Người nói: “Tụi tư bản và đế quốc chủ 
nghĩa nó lấy tôn giáo và văn hoá làm cho 
dân ngu, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, 
lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm cho 
dân nghe đến 2 chữ cách mệnh thì sợ rùng 
mình. Vậy cách mệnh trước phải làm cho 
dân giác ngộ”[6]. Bước vào thời kỳ xây 
dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhận 
thức sâu sắc về tính chất phức tạp, khó 
khăn của thời kỳ này. Người yêu cầu Đảng 
phải làm cho dân chúng gác ngộ cao về chủ 
nghĩa xã hội vì “Chủ nghĩa xã hội chỉ có 
thể xây dựng được dưới sự giác ngộ đầy đủ 
và lao động sáng tạo của hàng chục triệu 
người”. Có thể nói muốn phát huy nguồn 
lực trong dân chúng cụ thể là nguồn lực 
nhân dân, đầu tiên và trước hết Đảng phải 
biết vận động và tổ chức dân chúng theo 
mục tiêu chung của dân tộc. 
- Biết dùng người để phát huy nguồn lực 
con người 
Suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ 
Chí Minh đã xác lập những quan điểm cơ 
bản về thuật dùng người nhằm xây dựng và 
phát huy nguồn lực con người với tinh thần 
thực sự cách mạng và khoa học. Từ xưa 
đến nay, các bật vĩ nhân, những người làm 
nên nghiệp lớn đều có chung một tư tưởng: 
“biết mình, biết người”. Biết chính là yếu 
tố quyết định thành công “biết người mới 
dùng đúng người”. Nhưng muốn biết người 
trước hết phải tự biết mình. Hồ Chí Minh 
cho rằng con người ta nếu không tự biết 
mình thì khó biết người khác, muốn biết 
đúng sự phải trái ở người ta thì trước hết 
phải biết đúng sự phải trái ở mình. Người 
nói: “Biết người cố nhiên là khó. Tự biết 
mình cũng không phải là dễ”[5]. Từ nhận 
định sâu sắc đó Người đã chỉ ra một số căn 
bệnh làm cho người lãnh đạo không tự biết 
mình. Đó là tự cao, tự đại, ưa người khác 
nịnh mình, đem một cái khuôn khổ chật 
hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. 
Để sửa chữa những bệnh ấy Người khuyên 
cán bộ phải bỏ “kính có màu” mới có thể 
hiểu đúng cán bộ, hiểu đúng nhân tài nghĩa 
là khi xem xét nhân tài không nên chỉ nhìn 
bề ngoài, không thể chỉ xét một lúc, một 
khía cạnh, một thời điểm, một thời gian 
ngắn hoặc chỉ thấy hiện tại, mà cần có thời 
gian dài, có một quá trình, vì mọi việc đều 
80 
có sự chuyển biến, con người cũng có sự 
thay đổi về nhiều mặt, cho nên nhận xét 
con người không thể cố định, bất biến mà 
phải trong quá trình vận động, biến đổi. 
Hồ Chí Minh nói “trong thế giới cái gì 
cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng 
biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ 
quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải 
biến hóa Quá khứ, hiện tại và tương lai 
của mỗi người không phải luôn giống 
nhau”[2]. 
Mặt khác, Hồ Chí Minh cho rằng 
trong tất cả các yêu tố thì “nhân hoà” là 
quan trọng nhất nên mục tiêu của dùng 
người là đạt tới “Nhân hòa”. Dùng người 
thực chất là phát huy mọi tiềm năng của 
con người nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp 
cho khối đại đoàn kết dân tộc giải quyết 
những nhiệm vụ cách mạng. Hồ Chí Minh 
chủ trương, phát huy nguồn lực con người 
trên nền tảng dùng những người tài. Người 
tài hay nhân tài, theo Hồ Chí Minh, được 
hiểu theo nghĩa rộng rãi nhất: “tài to, tài 
nhỏ”, “người có công tâm, trung thành, sốt 
sắng với quyền lợi của Tổ quốc, nhân dân”, 
“người hiền tài”, “hiền năng”, “người hay, 
người giỏi” nhưng có chung mục đích 
“vì quyền lợi của Tổ quốc, lợi ích của đồng 
bào”. Người yêu cầu, dùng người phải 
dùng cho đúng và dùng cho khéo. Dùng 
đúng mà không khéo thì kết quả sẽ bị hạn 
chế ngược lại khéo mà không đúng thì nhất 
định sẽ hỏng việc, có khi còn hỏng cả 
“người”. Đúng là yêu cầu cơ bản đầu tiên, 
vì có đúng thì sẽ thể hiện khéo, chọn đúng 
người là thực chất của việc dùng người, là 
một khoa học. Khéo phải đảm bảo dẫn đến 
cái đúng, cái khách quan, khéo là một nghệ 
thuật. Trong cái đúng không thể không có 
cái khéo và khéo dùng người phải hướng 
tới đúng, lấy đúng làm tiền đề, làm nguyên 
tắc. Đây là biện chứng của thuật dùng 
người. 
Vậy làm thế nào để dùng đúng người 
và khéo dùng người? Theo Hồ Chí Minh, 
muốn dùng người cho đúng, cho khéo 
trước hết phải hiểu đúng, đánh giá đúng 
con người. Muốn hiểu đúng, đánh giá đúng 
thì phải thực hành thường xuyên xem xét 
cán bộ. Phải xem một cách toàn diện: 
Không chỉ ngoài mặt mà còn phải xem tính 
chất của họ. Không thể xem một việc, một 
lúc mà phải xem toàn cảnh lịch sử, toàn cả 
công việc của họ, hoặc chẳng những xem 
xét công tác của họ, mà còn phải xem xét 
cách sinh hoạt của họ. Phải biết ưu điểm 
của họ mà cũng phải biết khuyết điểm của 
họ. Muốn hiểu đúng, đánh giá đúng con 
người, cán bộlãnh đạo còn phải mạnh dạn 
giao việc cho họ, tin tưởng, yêu mến họ. 
Quá trình đánh giá đòi hỏi chúng ta cần 
phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật 
rõ ràng rồi kết luận Có như thế mới thấy 
được tài, tài mới được sử dụng. Người cất 
nhắc: “phải tùy tài mà dùng người”, “phải 
biết sử dụng đúng người đúng việc”, “phải 
biết dụng nhân như dụng mộc”, dùng 
người không nên làm như “giã gạo”, khi họ 
sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá 
lại nhắc lên vì một cán bộ bị nhắc lên thả 
xuống ba bốn lần như thế là hỏng cả đời. 
Dùng người là quan trọng, vì thế Hồ Chí 
Minh nêu ra các yêu cầu đối với tổ chức 
Đảng và người lãnh đạo trong khi đánh giá 
cán bộ: “phải tỉnh táo, sáng suốt, để phân 
biệt được đúng sai, thật giả, người tốt, kẻ 
xấu”. Lãnh đạo phải lam sao để cán bộ” có 
gan nói, có gan đề xuất ý kiến, có gan phụ 
trách, có gan làm”, để cho các cấp cơ sở 
“có quyền tự do quyết định” và quần chúng 
có “ý kiến dân chủ từ dưới lên”. Trên cơ sở 
hiểu đúng, đánh giá đúng và khéo dùng thì 
khâu lựa chọn, bố trí, cất nhắc, phân phối, 
là khâu chủ yếu nhất của việc dùng người, 
dùng cán bộ. 
- Cán bộ lãnh đạo phải biết trọng dụng, 
đãi ngộ nhân tài 
Trong những năm đầu vô cùng khó 
khăn của chính quyền cách mạng, Hồ Chí 
Minh viết một loạt bài “Về việc tiếp 
chuyện các đại biểu”; “Thư gửi các đồng 
chí tỉnh nhà”; “Thiếu óc tổ chức - một 
81 
khuyết điểm lớn trong các Ủy ban nhân 
dân”; “Nhân tài và kiến quốc” đặc biệt là 
bài “Tìm người tài đức” với những lời lẽ 
rất chân thành, kính trọng để chiêu hiền đãi 
sĩ: “Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong 
số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu 
người có tài đức”. Trong bài “Toàn dân 
kháng chiến”đăng trên báo cứu quốc ngày 
11/5/1945, Người cũng nói: “Các thanh 
niên nên cố gắng học tập các kỹ thuật để 
trở thành những tay chuyên môn nhân tài 
ứng dụng”. “Nhân tài nước ta dù chưa có 
nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa 
chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân 
tài càng ngày càng phát triển càng thêm 
nhiều”[3]. Đảng phải nuôi dạy cán bộ, 
“như người làm vườn vun trồng những cây 
cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán 
bộ, trọng mỗi một người có ích cho công 
việc chung của chúng ta”. Trọng dụng 
nhân tài cho đất nước, Hồ Chí Minh không 
chỉ trọng dung nhân tài trong Đảng mà còn 
trọng dụng những nhân tài ngoài Đảng. Hồ 
Chí Minh nói: “Chúng ta không được bỏ 
rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà 
đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết 
với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ 
giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu 
nước”[4]. Với tinh thần đoàn kết chân 
thành, không thiên kiến, không phân biệt 
phái, Hồ Chí Minh đã quy tụ nhiều tài đức, 
nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước có tên tuổi 
như: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, 
Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Phan 
Anh, Phạm Quang Lễ, Trần Hữu Tước 
cùng chung vai gánh vác việc chung. Để 
kêu gọi người tài giỏi ngoài Đảng phục vụ 
cho cách mạng, theo Người trước hết, phải 
có lòng vị tha, độ lượng vĩ đại thì mới có 
thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, 
không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi 
bị bỏ rơi; phải có thái độ vui vẻ thân mật; 
phải thương yêu cán bộ. Đối với những cán 
bộ có sai lầm thì phải phê bình cho đúng, 
cho khéo. 
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh trọng 
dụng nhân tài đi liền với đãi ngộ vì đãi ngộ 
đúng người, đúng việc là mắt khâu quan 
trọng để phát huy tài năng của họ. Từ 
những ngày đầu của cách mạng, trong 
“Mười chính sách của Việt Minh”, Người 
nói nhiều đến chính sách đãi ngộ đối với 
nông dân, công nhân, viên chức. Chính 
sách đối với nông dân thì: “Bao nhiêu thuế 
ruộng, thuế thân, Đều đem bỏ hết cho dân 
khỏi phiền”; đối với công nhân: “Công 
nhân làm lụng gian nan, Tiền lương phải 
đủ, mỗi ban tám giờ”; đối với viên chức: 
“Nào là những kẻ chức viên, Cải lương đãi 
ngộ cho yên tấm lòng”[2]. Đãi ngộ đối với 
nông dân, công nhân, viên chức là việc cần 
thiết nhưng phải hợp lí, tránh tình trạng suy 
bì đãi ngộ. Trong khi thực hiện chính sách 
đãi ngộ có hiện tượng suy bì, đòi đãi ngộ 
thêm, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nguyên 
nhân là “Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra 
đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai 
cũng muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng muốn 
phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh”[7]. 
Người yêu cầu: “Phải chống chủ nghĩa cá 
nhân so bì đãi ngộ: lương thấp, cao”, 
phải cần kiệm xây dựng đất nước[9]. Tóm 
lại, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài theo quan 
niệm của Hồ Chí Minh là biện pháp cơ bản 
nhằm phát huy tài năng, trí tuệ con người 
phục vu cho kháng chiến và kiến quốc 
thắng lợi. 
- Phải kết hợp giữa các thế hệ cán bộ 
già và cán bộ trẻ, phải có sự kế thừa giữa 
các thế hệ. 
Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi tất yếu 
phải bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng những 
người kế tục xứng đáng những người đi 
trước. Đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến 
lược. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: 
Đảng cần phải chăm lo giáo đục đạo đức 
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những 
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội 
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó không chỉ là 
lòng yêu quý mà còn giao trách nhiệm cho 
thế hệ trẻ: Từ nhi đồng, thiếu niên đến 
đoàn viên. Vì vậy, Hồ Chí Minh rất quan 
82 
tâm và yêu cầu các tổ chức Đảng, chính 
quyền phải chú ý giải quyết tốt việc chọn 
người vì “chọn người, thay người cũng là 
một vấn đề quan trọng trong việc lãnh đạo” 
[4]. Hồ Chí Minh đánh giá cán bộ già là 
vốn quý của Đảng, có nhiều công lao, kinh 
nghiệm, nhưng có một số biểu hiện dừng 
lại, công thần, “sống lâu lên lão làng”, “tị 
nạnh” Đối với lớp trẻ, hăng hái, có kiến 
thức, tiến bộ nhanh, nhưng thường thiếu 
kinh nghiệm, ít được rèn luyện, thử 
thách Vì vậy, Đảng phải khéo kết hợp 
cán bộ trẻ với cán bộ già. Hồ Chí Minh phê 
phán lớp cán bộ già “coi thường cán bộ 
trẻ”, sợ “măng mọc quá tre”, “trứng khôn 
hơn vịt”. Nếu có chọn lớp kế cận lại thích 
đưa con cháu mình vào. Trong “Bài nói 
chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt 
động lâu năm”ngày 19 - 12 - 1961, hay 
“Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ 
lãnh đạo cấp huyện”ngày 18 - 1 - 1967, Hồ 
Chí Minh nói nhiều về vấn đề này. Người 
lưu ý rằng: Tất cả cán bộ, đảng viên của 
Đảng phải vì Đảng, vì dân mà hăng hái 
phấn đấu. Nếu thế hệ trẻ không hơn thế hệ 
già thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ 
mới là tốt. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu 
cán bộ già, các tổ chức Đảng phải quan tâm 
dìu dắt thế hệ trẻ, bất kỳ ai, có khả năng, 
đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu cách mạng 
là phải dùng, phải đào tạo thanh niên cho 
họ làm việc hơn mình, không nên đố kị, 
đồng chí già phải có thái độ độ lượng coi 
đó không chỉ là yêu cầu, trách nhiệm, 
nhiệm vụ, mà đó cũng là một tiêu chuẩn 
đạo đức cộng sản chủ nghĩa. 
3. Với tầm nhìn vượt thời gian, Hồ 
Chí Minh sớm xem nguồn lực con người là 
nguồn của mọi nguồn lực. Trong mọi suy 
nghĩ và hành động, Người luôn hướng đến 
con người, quan tâm, chăm lo cho con 
người, tìm cách để phát huy mọi tiềm năng 
của con người nhất là tiềm năng trí tuệ của 
con người ở mức cao nhất để làm lợi cho 
con người. Trong suốt cuộc đời, Người chỉ 
có một ham muốn, ham muốn tột bật là 
“làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc 
lập, đông bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,ai 
cũng được học hành”. Trong những điều 
mong muốn cuối cùng của Người cũng 
không gì khác hơn là mong muốn những 
điều tốt đẹp cho nhân dân. Trong Di chúc 
Người đã viết “Điều mong muốn cuối cùng 
của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết 
phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam 
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và 
giàu mạnh”[12]. Nói đến nguồn lực con 
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nói 
đến nguồn lực trong nhân dân, sức mạnh 
của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn 
kết dân tộc, sức mạnh thể lực, trí lực, lòng 
yêu nước của những con người cụ thể đang 
ngày đêm chiến đấu bảo vệ và xây dựng tổ 
quốc. Nguồn lực đó là sức mạnh vô đối, 
nơi khơi nguồn cho mọi nguồn lực. Bước 
vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng 
ta cũng xác định: “Phát triển, nâng cao chất 
lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực 
chất lượng cao là một trong những yếu tố 
quyết định sự phát triển nhanh và bền vững 
đất nước”. Hiện nay, để đảm bảo sự phát 
triển nhanh và bền vững, những quan niệm 
của Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực 
con người là tài sản quý báu Đảng ta cần 
được vận dụng nhằm tìm kiếm biện pháp, 
cách làm phù hợp trong việc đào tạo và 
phát huy nguồn lực con người. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
83 
7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
11. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
12. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, 
Nxb CTQG, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 23/11/2014 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_ho_chi_minh_ve_phat_huy_nguon_luc_con_nguoi.pdf