Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước
phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đã và đang được vận dụng một cách sáng
tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cốt
lõi của toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh là gắn mục tiêu giải phóng dân tộc
với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Vấn đề con người, chăm lo, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực con người là
một vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn
bộ tư tưởng, hành động của Người. Hồ Chí
Minh xem con người là “vốn”quý vì vậy
nguồn lực con người là “nguồn vốn” quý
báu cần được bồi đắp và phát huy trong
toàn bộ sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015 76 Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người Ho Chi Minh’s ideology – Human resource promotion ThS. Lâm Thị Kho Trường Cao đẳng Cần Thơ M.A. Lam Thi Kho Can Tho College Tóm tắt Trong toàn bộ tài sản tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc, tuy không có tác phẩm nào bàn riêng về nguồn lực con người nhưng tư tưởng về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người lại là một tư tưởng lớn, xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng của Người. Để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, một nhiệm vụ đặt ra chính là nghiên cứu, khai thác giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người. Bài viết này mong muốn góp phần làm rõ nội dung, giá tri tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này. Từ khóa: nguồn lực con người, Hồ Chí Minh Abstract In the spirit of the whole invaluable property that Ho Chi Minh leaves to our nation, there is no separating discussion which works on human resource promotion that is considered as a great thought throughout his ideology. To promote the cause of industrialization and modernization of the country, that makes our country one by 2020, the main task is studying and exploiting the value of his thought on the issue. This article contributes to the clarification of the content, and the values of Ho Chi Minh on the matter. Keywords: human resource, Ho Chi Minh 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã và đang được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cốt lõi của toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh là gắn mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Vấn đề con người, chăm lo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người là một vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ tư tưởng, hành động của Người. Hồ Chí Minh xem con người là “vốn”quý vì vậy nguồn lực con người là “nguồn vốn” quý báu cần được bồi đắp và phát huy trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan niệm về con người được xây dựng trên nền tảng quan điểm biện chứng duy vật về lịch sử. Bản chất Con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng. Người từng khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả 77 loài người” [4]. Hồ Chí Minh không bao giờ xem xét con người một cách trừu tượng mà luôn luôn xuất phát từ con người hiện thực, cụ thể trong các quan hệ xã hội với nhiều bình diện, chiều cạnh khác nhau. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người luôn tin vào sức mạnh của con người, hết lòng thương yêu con người, quý trọng con người, quan tâm bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người. Sinh thời, tuy Hồ Chí Minh không có một tác phẩm nào bàn riêng về nguồn lực con người nhưng trên thực tế Người đã đề cập đến nguồn lực con người một cách toàn diện, sâu sắc. Hồ Chí Minh đề cập đến nguồn lực con người trên hai phương diện là con người cá nhân và con người cộng đồng. Thứ nhất, quan niệm của Hồ Chí Minh về nguồn lực con người xét trên phương diện cộng đồng dân tộc đó là nguồn lực nhân dân, sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của cả dân tộc đã được giác ngộ, được đoàn kết, được lãnh đạo. Nói đến “dân”, “nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nói đến toàn thể nhân dân, công nhân, nông dân, trí thức, những người lao động ở nước ta. Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân, xem đó là nguồn sức mạnh vô tận không gì có thể thay thế. Người từng nói: “Dân là vốn quý nhất, có dân là có tất cả”. Theo Người, làm cách mạng giải phóng dân tộc hay xây dựng xã hội mới, công việc nào cũng khó khăn nhưng có nguồn lực của dân thì dù việc khó mấy cũng làm được, qua đó Người tổng kết thành kinh nghiệm mang tính khái quát cao: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó chính là công nhân, nông dân, trí thức, những người dân lao động không phân biệt dân tộc, đảng phái, giàu, nghèo. Trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người luôn nêu cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc, xem phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là động lực vĩ đại quyết định thành công của cách mạng. Từ lý luận và thực tiễn, Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”[7]; “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”[8]. Vì vậy, nói đến nguồn lực con người với tư cách là cộng động dân tộc là nói đến vai trò, sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Thứ hai, nguồn lực con người còn được Hồ Chí Minh đề cập đến với tư cách là những con người cụ thể. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí minh chỉ rõ, đó là “con người xã hội chủ nghĩa”. Trong lần nói chuyện với Đại hội đảng bộ thành phố Hà Nội (20/6/1960), Hồ Chí Minh đã nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”[9]. Con người xã hội chủ nghĩa theo quan niệm của Hồ Chí Minh đó là con người: Đức – Trí – Thể - Mỹ, con người hội tụ trong mình cả đức và tài, hồng và chuyên. Tổng hợp lại, con người xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh nhắc đến là con người phải hội đủ hai yếu tố đức và tài. Đức chính là đạo đức cách mạng, những phẩm chất tiêu biểu và Người thường đề cập đó là: Trung với nước, hiếu với dân; là yêu thương con người; là cần kiệm liêm chính, chí công vô tư Tài trong quan niệm của Hồ Chí Minh là năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mỗi người. Đức và tài phải thống nhất, hài hoà, tác động biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ giữa đức – tài, Người yêu cầu: Tài càng lớn thì đức phải càng cao, vì đức - tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa cách mạng đến thắng lợi. Mặt khác, Người quan niệm “Đức là gốc” vì trong đức đã có tài, có cái đức sẽ đi đến cái trí. Ở Hồ Chí Minh nói đến con người với 78 tư cách là một nguồn lực, là nói đến những con người hiện thực, những con người với tư cách là chủ thể tiến hành các hoạt động thực tiễn, đang ngày đêm lao động, sản xuất, chiến đấu với tinh thần, trách nhiệm của người chủ nước nhà. Người chỉ rõ: “Ngày nay tất cả những người lao động – lao động chân tay và lao động trí óc – đều phải nhận thật rõ: mình là người chủ nước nhà” [10]. Và đã là người chủ thì phải: “làm tròn nghĩa vụ của người chủ”, phải “cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm mục đích là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”[10]. Con người chỉ trở thành nguồn lực khi họ là những người lao động có sức khỏe, trí tuệ, phẩm chất, năng lực. Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội là khó khăn, gian khổ muốn đạt được mục đích thì “nhân dân ta phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, mỗi người phải cố gắng trở thành người lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, anh hùng lao động”[10]. Người lao động là nguồn lực của đất nước khi họ trở thành những người lao động tiên tiến, anh hùng lao động trên mặt trận sản xuất. Người tin tưởng “chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được dưới sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”[8]. Xuất phát từ quan điểm cho rằng, sự phát triển dựa trên phát huy nguồn lực con người là yếu tố đảm bảo phát triển bền vững. Người đặc biệt coi trọng công tác bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau bởi “có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”[11]. Quan tâm sâu sắc về việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, trong Di chúc Người viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”[12]. Hồ Chí Minh dành niềm tin tưởng đối với thế hệ tương lai của đất nước vì thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, gánh vác những trọng trách quan trọng là xây dựng xã hội mới. Để phát huy nguồn lực tiềm năng này Hồ Chí Minh chỉ rõ: “cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Đối với Hồ Chí Minh, nguồn lực con người và việc phát huy nguồn lực con người có vai trò quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh từng nói: “Vì chúng ta quên một lẽ rất đơn giản dễ hiểu: tức là vô luận việc gì, đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” [4]. “Tất cả của cải vật chất trong xã hội đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn phát triển” [5]; quần chúng còn là người sáng tác nữa (các giá trị văn hóa - tinh thần). Hồ Chí Minh giải thích cơ sở khoa học cho vai trò đó xuất phát từ chỗ: “lực lượng dân chúng nhiều vô cùng dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” [4]. Người tổng kết: “cán bộ là gốc của công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [4]; “Chúng ta phải biết quý trọng con người, nhất là công nhân, vì công nhân là vốn quý nhất của xã hội”, “Phải biết quý trọng sức người vì sức người là vốn quý nhất của ta” [7]. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng đời sống mới, tiến lên xã hội chủ nghĩa đều phải dựa vào “vốn” con người, vào việc phát huy nguồn lực con người. Nếu khinh dân, coi thường việc sử dụng và phát huy nguồn lực con người sẽ là một sai lầm rất to, rất có hại, có thể dẫn đến thất bại. Về phương diện phát huy nguồn lực 79 con người, Hồ Chí Minh đã nêu lên một số quan điểm như sau: - Đảng phải tổ chức và vận động dân chúng. Theo Hồ Chí minh cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hay hai người, muốn cách mạng thành công trước hết Đảng phải vận động, tổ chức dân chúng, làm cho dân chúng giác ngộ về cách mạng. Người chỉ rõ, để làm cách mạng thắng lợi, điều kiện hàng đầu là phải có Đảng của giai cấp công nhân, của cả dân tộc lãnh đạo, “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”[1]. Vì vậy, “Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp những công nhân, nông dân, lao động trí óc, thật hăng hái, thật giác ngộ cách mạng’[5]. Trong chiến đấu, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ du kích cũng phải biết vận động tổ chức dân chúng. Người nói: “Nếu tập kích đánh tan được quân giặc, và nếu quân cứu viện của giặc không thể đến được thì bộ đội du kích có thể lưu lại chỗ tập kích ít lâu để tuyên truyền, tổ chức dân chúng”[2]. Nói về nông dân, những người tay không rồi, Hồ Chí Minh nhìn thấy ở họ có một sức mạnh vô cùng to lớn nếu họ được giác ngộ cách mạng và được tổ chức lại thành một khối thống nhất. Người nói: “Nông dân giác ngộ hăng hái thì kháng chiến mới mau thắng lợi, kiến quốc mới chóng thành công, nông dân mới được giải phóng”[5]. Người luôn tin tưởng “ta có hàng triệu chiến sĩ nông dân, khi đã giác ngộ thì họ là những chiến sĩ quyết chiến quyết thắng”[6]. Trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, mục đích của việc vận động, tổ chức dân chúng là làm cho dân chúng giác ngộ cách mạng là việc làm trước. Người nói: “Tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy tôn giáo và văn hoá làm cho dân ngu, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm cho dân nghe đến 2 chữ cách mệnh thì sợ rùng mình. Vậy cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ”[6]. Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về tính chất phức tạp, khó khăn của thời kỳ này. Người yêu cầu Đảng phải làm cho dân chúng gác ngộ cao về chủ nghĩa xã hội vì “Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được dưới sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”. Có thể nói muốn phát huy nguồn lực trong dân chúng cụ thể là nguồn lực nhân dân, đầu tiên và trước hết Đảng phải biết vận động và tổ chức dân chúng theo mục tiêu chung của dân tộc. - Biết dùng người để phát huy nguồn lực con người Suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã xác lập những quan điểm cơ bản về thuật dùng người nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực con người với tinh thần thực sự cách mạng và khoa học. Từ xưa đến nay, các bật vĩ nhân, những người làm nên nghiệp lớn đều có chung một tư tưởng: “biết mình, biết người”. Biết chính là yếu tố quyết định thành công “biết người mới dùng đúng người”. Nhưng muốn biết người trước hết phải tự biết mình. Hồ Chí Minh cho rằng con người ta nếu không tự biết mình thì khó biết người khác, muốn biết đúng sự phải trái ở người ta thì trước hết phải biết đúng sự phải trái ở mình. Người nói: “Biết người cố nhiên là khó. Tự biết mình cũng không phải là dễ”[5]. Từ nhận định sâu sắc đó Người đã chỉ ra một số căn bệnh làm cho người lãnh đạo không tự biết mình. Đó là tự cao, tự đại, ưa người khác nịnh mình, đem một cái khuôn khổ chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Để sửa chữa những bệnh ấy Người khuyên cán bộ phải bỏ “kính có màu” mới có thể hiểu đúng cán bộ, hiểu đúng nhân tài nghĩa là khi xem xét nhân tài không nên chỉ nhìn bề ngoài, không thể chỉ xét một lúc, một khía cạnh, một thời điểm, một thời gian ngắn hoặc chỉ thấy hiện tại, mà cần có thời gian dài, có một quá trình, vì mọi việc đều 80 có sự chuyển biến, con người cũng có sự thay đổi về nhiều mặt, cho nên nhận xét con người không thể cố định, bất biến mà phải trong quá trình vận động, biến đổi. Hồ Chí Minh nói “trong thế giới cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa Quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi người không phải luôn giống nhau”[2]. Mặt khác, Hồ Chí Minh cho rằng trong tất cả các yêu tố thì “nhân hoà” là quan trọng nhất nên mục tiêu của dùng người là đạt tới “Nhân hòa”. Dùng người thực chất là phát huy mọi tiềm năng của con người nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp cho khối đại đoàn kết dân tộc giải quyết những nhiệm vụ cách mạng. Hồ Chí Minh chủ trương, phát huy nguồn lực con người trên nền tảng dùng những người tài. Người tài hay nhân tài, theo Hồ Chí Minh, được hiểu theo nghĩa rộng rãi nhất: “tài to, tài nhỏ”, “người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi của Tổ quốc, nhân dân”, “người hiền tài”, “hiền năng”, “người hay, người giỏi” nhưng có chung mục đích “vì quyền lợi của Tổ quốc, lợi ích của đồng bào”. Người yêu cầu, dùng người phải dùng cho đúng và dùng cho khéo. Dùng đúng mà không khéo thì kết quả sẽ bị hạn chế ngược lại khéo mà không đúng thì nhất định sẽ hỏng việc, có khi còn hỏng cả “người”. Đúng là yêu cầu cơ bản đầu tiên, vì có đúng thì sẽ thể hiện khéo, chọn đúng người là thực chất của việc dùng người, là một khoa học. Khéo phải đảm bảo dẫn đến cái đúng, cái khách quan, khéo là một nghệ thuật. Trong cái đúng không thể không có cái khéo và khéo dùng người phải hướng tới đúng, lấy đúng làm tiền đề, làm nguyên tắc. Đây là biện chứng của thuật dùng người. Vậy làm thế nào để dùng đúng người và khéo dùng người? Theo Hồ Chí Minh, muốn dùng người cho đúng, cho khéo trước hết phải hiểu đúng, đánh giá đúng con người. Muốn hiểu đúng, đánh giá đúng thì phải thực hành thường xuyên xem xét cán bộ. Phải xem một cách toàn diện: Không chỉ ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không thể xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cảnh lịch sử, toàn cả công việc của họ, hoặc chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xem xét cách sinh hoạt của họ. Phải biết ưu điểm của họ mà cũng phải biết khuyết điểm của họ. Muốn hiểu đúng, đánh giá đúng con người, cán bộlãnh đạo còn phải mạnh dạn giao việc cho họ, tin tưởng, yêu mến họ. Quá trình đánh giá đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật rõ ràng rồi kết luận Có như thế mới thấy được tài, tài mới được sử dụng. Người cất nhắc: “phải tùy tài mà dùng người”, “phải biết sử dụng đúng người đúng việc”, “phải biết dụng nhân như dụng mộc”, dùng người không nên làm như “giã gạo”, khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá lại nhắc lên vì một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba bốn lần như thế là hỏng cả đời. Dùng người là quan trọng, vì thế Hồ Chí Minh nêu ra các yêu cầu đối với tổ chức Đảng và người lãnh đạo trong khi đánh giá cán bộ: “phải tỉnh táo, sáng suốt, để phân biệt được đúng sai, thật giả, người tốt, kẻ xấu”. Lãnh đạo phải lam sao để cán bộ” có gan nói, có gan đề xuất ý kiến, có gan phụ trách, có gan làm”, để cho các cấp cơ sở “có quyền tự do quyết định” và quần chúng có “ý kiến dân chủ từ dưới lên”. Trên cơ sở hiểu đúng, đánh giá đúng và khéo dùng thì khâu lựa chọn, bố trí, cất nhắc, phân phối, là khâu chủ yếu nhất của việc dùng người, dùng cán bộ. - Cán bộ lãnh đạo phải biết trọng dụng, đãi ngộ nhân tài Trong những năm đầu vô cùng khó khăn của chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh viết một loạt bài “Về việc tiếp chuyện các đại biểu”; “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”; “Thiếu óc tổ chức - một 81 khuyết điểm lớn trong các Ủy ban nhân dân”; “Nhân tài và kiến quốc” đặc biệt là bài “Tìm người tài đức” với những lời lẽ rất chân thành, kính trọng để chiêu hiền đãi sĩ: “Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài đức”. Trong bài “Toàn dân kháng chiến”đăng trên báo cứu quốc ngày 11/5/1945, Người cũng nói: “Các thanh niên nên cố gắng học tập các kỹ thuật để trở thành những tay chuyên môn nhân tài ứng dụng”. “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”[3]. Đảng phải nuôi dạy cán bộ, “như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”. Trọng dụng nhân tài cho đất nước, Hồ Chí Minh không chỉ trọng dung nhân tài trong Đảng mà còn trọng dụng những nhân tài ngoài Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước”[4]. Với tinh thần đoàn kết chân thành, không thiên kiến, không phân biệt phái, Hồ Chí Minh đã quy tụ nhiều tài đức, nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước có tên tuổi như: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Phan Anh, Phạm Quang Lễ, Trần Hữu Tước cùng chung vai gánh vác việc chung. Để kêu gọi người tài giỏi ngoài Đảng phục vụ cho cách mạng, theo Người trước hết, phải có lòng vị tha, độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi; phải có thái độ vui vẻ thân mật; phải thương yêu cán bộ. Đối với những cán bộ có sai lầm thì phải phê bình cho đúng, cho khéo. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh trọng dụng nhân tài đi liền với đãi ngộ vì đãi ngộ đúng người, đúng việc là mắt khâu quan trọng để phát huy tài năng của họ. Từ những ngày đầu của cách mạng, trong “Mười chính sách của Việt Minh”, Người nói nhiều đến chính sách đãi ngộ đối với nông dân, công nhân, viên chức. Chính sách đối với nông dân thì: “Bao nhiêu thuế ruộng, thuế thân, Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền”; đối với công nhân: “Công nhân làm lụng gian nan, Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ”; đối với viên chức: “Nào là những kẻ chức viên, Cải lương đãi ngộ cho yên tấm lòng”[2]. Đãi ngộ đối với nông dân, công nhân, viên chức là việc cần thiết nhưng phải hợp lí, tránh tình trạng suy bì đãi ngộ. Trong khi thực hiện chính sách đãi ngộ có hiện tượng suy bì, đòi đãi ngộ thêm, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nguyên nhân là “Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh”[7]. Người yêu cầu: “Phải chống chủ nghĩa cá nhân so bì đãi ngộ: lương thấp, cao”, phải cần kiệm xây dựng đất nước[9]. Tóm lại, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài theo quan niệm của Hồ Chí Minh là biện pháp cơ bản nhằm phát huy tài năng, trí tuệ con người phục vu cho kháng chiến và kiến quốc thắng lợi. - Phải kết hợp giữa các thế hệ cán bộ già và cán bộ trẻ, phải có sự kế thừa giữa các thế hệ. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi tất yếu phải bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng những người kế tục xứng đáng những người đi trước. Đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: Đảng cần phải chăm lo giáo đục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó không chỉ là lòng yêu quý mà còn giao trách nhiệm cho thế hệ trẻ: Từ nhi đồng, thiếu niên đến đoàn viên. Vì vậy, Hồ Chí Minh rất quan 82 tâm và yêu cầu các tổ chức Đảng, chính quyền phải chú ý giải quyết tốt việc chọn người vì “chọn người, thay người cũng là một vấn đề quan trọng trong việc lãnh đạo” [4]. Hồ Chí Minh đánh giá cán bộ già là vốn quý của Đảng, có nhiều công lao, kinh nghiệm, nhưng có một số biểu hiện dừng lại, công thần, “sống lâu lên lão làng”, “tị nạnh” Đối với lớp trẻ, hăng hái, có kiến thức, tiến bộ nhanh, nhưng thường thiếu kinh nghiệm, ít được rèn luyện, thử thách Vì vậy, Đảng phải khéo kết hợp cán bộ trẻ với cán bộ già. Hồ Chí Minh phê phán lớp cán bộ già “coi thường cán bộ trẻ”, sợ “măng mọc quá tre”, “trứng khôn hơn vịt”. Nếu có chọn lớp kế cận lại thích đưa con cháu mình vào. Trong “Bài nói chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm”ngày 19 - 12 - 1961, hay “Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện”ngày 18 - 1 - 1967, Hồ Chí Minh nói nhiều về vấn đề này. Người lưu ý rằng: Tất cả cán bộ, đảng viên của Đảng phải vì Đảng, vì dân mà hăng hái phấn đấu. Nếu thế hệ trẻ không hơn thế hệ già thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ già, các tổ chức Đảng phải quan tâm dìu dắt thế hệ trẻ, bất kỳ ai, có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu cách mạng là phải dùng, phải đào tạo thanh niên cho họ làm việc hơn mình, không nên đố kị, đồng chí già phải có thái độ độ lượng coi đó không chỉ là yêu cầu, trách nhiệm, nhiệm vụ, mà đó cũng là một tiêu chuẩn đạo đức cộng sản chủ nghĩa. 3. Với tầm nhìn vượt thời gian, Hồ Chí Minh sớm xem nguồn lực con người là nguồn của mọi nguồn lực. Trong mọi suy nghĩ và hành động, Người luôn hướng đến con người, quan tâm, chăm lo cho con người, tìm cách để phát huy mọi tiềm năng của con người nhất là tiềm năng trí tuệ của con người ở mức cao nhất để làm lợi cho con người. Trong suốt cuộc đời, Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là “làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, đông bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,ai cũng được học hành”. Trong những điều mong muốn cuối cùng của Người cũng không gì khác hơn là mong muốn những điều tốt đẹp cho nhân dân. Trong Di chúc Người đã viết “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[12]. Nói đến nguồn lực con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nói đến nguồn lực trong nhân dân, sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh thể lực, trí lực, lòng yêu nước của những con người cụ thể đang ngày đêm chiến đấu bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Nguồn lực đó là sức mạnh vô đối, nơi khơi nguồn cho mọi nguồn lực. Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta cũng xác định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Hiện nay, để đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững, những quan niệm của Hồ Chí Minh về phát huy nguồn lực con người là tài sản quý báu Đảng ta cần được vận dụng nhằm tìm kiếm biện pháp, cách làm phù hợp trong việc đào tạo và phát huy nguồn lực con người. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội. 2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội. 3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội. 4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội. 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội. 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội. 83 7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội. 10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, Hà Nội. 11. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb CTQG, Hà Nội. 12. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, Hà Nội. Ngày nhận bài: 23/11/2014 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015
File đính kèm:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_phat_huy_nguon_luc_con_nguoi.pdf