Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với nhân dân và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
khẳng định việc liên hệ, gắn bó mật thiết giữa
Đảng với quần chúng nhân dân là nguồn gốc
chủ yếu để tạo nên sức mạnh, là một trong
những nguyên nhân giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng và làm nên những thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Người đã từng dạy
rằng: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm
được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm
cũng không nên” [5. tr. 293]. Cho nên “Giữ
chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn
lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền
tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng
ta thắng lợi.” [5, tr. 286] Thực tiễn cách mạng
Việt Nam 82 năm qua cũng đã chứng minh
điều đó. Không có sức mạnh của “Ý Đảng,
lòng dân” chúng ta không thể có được Cách
mạng Tháng 8/1945 thành công, đại thắng
Mùa xuân 1975 và ngày hôm nay chúng ta
vững vàng trên con đường xây dựng CNXH.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với nhân dân và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay
55 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐÓ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Vũ Thị Thu Huyền* TÓM TẮT Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người đã chỉ rõ: Không có quần chúng thì không có lực lượng. Không có Đảng thì không có người lãnh đạo, hướng dẫn, chỉ đường. Vì vậy, phải củng cố mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất nước với thuận lợi và khó khăn đang đặt ra hiện nay thì việc phát huy mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa lớn lao. Từ khóa: Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân HO CHI MINH’S IDEOLOGY ON THE COMMUNIST PARTY AND THE MASSES’ RELATIONSHIP AND ITS SIGNIFICANCE TO THE COUNTRY INNOVATION TASK IN VIETNAM NOWADAYS ABSTRACT Being the founder and the trainer of the Communist Party, Ho Chi Minh was always interested in constructing the relationship between the Party and the masses. He pointed out: without the masses, the force would not exist. Without the Communist Party, there would be no leader, no guide. Therefore, it is a must to consolidate the relationship between the Party and the masses. In the country innovation task with the favorable and difficulties, promoting the Party and the masses’ relationship, which is based on Ho Chi Minh’s ideology, becomes more and more significant. Keywords: The communist party and the masses’ relationship * GV. Trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh 1. Đặt vấn đề Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định việc liên hệ, gắn bó mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân là nguồn gốc chủ yếu để tạo nên sức mạnh, là một trong những nguyên nhân giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người đã từng dạy rằng: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên” [5. tr. 293]. Cho nên “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng ta thắng lợi.” [5, tr. 286] Thực tiễn cách mạng Việt Nam 82 năm qua cũng đã chứng minh điều đó. Không có sức mạnh của “Ý Đảng, lòng dân” chúng ta không thể có được Cách Tư tưởng Hồ Chí Minh . . . 56 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät mạng Tháng 8/1945 thành công, đại thắng Mùa xuân 1975 và ngày hôm nay chúng ta vững vàng trên con đường xây dựng CNXH. Ngày nay trong công cuộc đổi mới, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng vẫn được Đảng và nhân dân ta tiếp tục củng cố và phát huy trên hành trình hướng tới tương lai. Gần 30 năm đổi mới, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng, nhân dân ta đã làm nên một đất nước Việt Nam ngày càng có vị thế trên trường quốc tế. Tuy nhiên, tác động của nền kinh tế thị trường cùng với những diễn biến khó lường, phức tạp trên thế giới, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bên ngoài đối với cách mạng nước ta và đặc biệt là tình trạng suy thoái đạo đức, quan liêu mệnh lệnh, xa rời quần chúng của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã khiến họ trượt dài trên con đường xa rời quần chúng, phản bội lại lợi ích của dân, của Đảng. Tất cả điều đó là nguyên nhân làm giảm sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta. Trong điều kiện ấy, trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu để hiểu biết, nắm vững và vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân là điều hết sức cần thiết, vừa nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh của Đảng với nhân dân, vừa góp phần làm tránh được những nguy cơ trong Đảng. 2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà là sự phản ánh nhu cầu của cách mạng Việt Nam. Những biến động của thế giới và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cùng với việc kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống dân tộc, sự dung hợp những tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, cá nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân lao động trong cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là điều kiện lịch sử xã hội và tiền đề lý luận quan trọng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Chính những giá trị tư tưởng được chắt lọc, đã là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới nhận thức và hành động của Hồ Chí Minh nói chung và cách nhìn nhận của Người về quần chúng nhân dân, về Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân nói riêng. Với Hồ Chí Minh, nhân dân là gốc của nước, là cội nguồn của cách mạng; cách mạng là sự nghiệp của nhân dân; dân là chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhờ đó, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh giữ một vai trò to lớn trong mọi công cuộc cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ nhân dân, vì nhân dân, Hồ Chí Minh đã đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo quan điểm về Đảng của học thuyết mác – xít để dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và, từ đó hình thành mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân như một điều tất yếu. Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân là một tất yếu khách quan, là sự thống nhất và tác động qua lại biện chứng của 57 Tư tưởng Hồ Chí Minh . . . hai thực thể Đảng và quần chúng nhân dân. Trong mối quan hệ này thì Đảng là một thực thể chính trị, quần chúng nhân dân là một thực thể xã hội, không đồng nhất. Giữa hai thực thể đó vừa có sự thống nhất, vừa có sự tác động qua lại lẫn nhau. 2.1. Sự thống nhất của mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân được thể hiện: Thứ nhất, mục tiêu của Đảng và của dân tộc, của nhân dân ta là thống nhất. Sự gắn bó giữa Đảng với quần chúng nhân dân có cơ sở sâu xa ở sự thống nhất về mục tiêu. Đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khát khao ngàn đời của dân tộc ta là độc lập dân tộc và chỉ thực hiện được độc lập dân tộc thì mới có điều kiện để thực hiện ấm no, hạnh phúc và công bằng. Trải qua hàng ngàn năm bị xâm lược, đô hộ, thống trị của bọn phong kiến, đế quốc ngoại bang, khát vọng của dân tộc ta là độc lập, là thoát khỏi cảnh nô lệ của kẻ thù ngoài nước. Nhưng, chỉ đến khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo thì khát vọng độc lập của dân tộc mới thực hiện được. Với sự dẫn đường và tiên phong của Đảng, nhiệm vụ giải phóng dân tộc do nhân dân tiến hành đã hoàn toàn thắng lợi. Trên con đường đi đó, lý tưởng về một đất nước hoà bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh đã trở thành mục tiêu chung mà Đảng và nhân dân cùng phấn đấu thực hiện. Nhận thức được sức mạnh to lớn và vai trò của nhân dân, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã không ngừng đấu tranh cho nền độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Toàn bộ nghị lực của Đảng, toàn bộ sự phấn đấu, hy sinh của các thế hệ đảng viên đều hướng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong những khúc quanh co của lịch sử, Đảng ta luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trách nhiệm to lớn đối với nhân dân, đối với vận mệnh của dân tộc. Trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng luôn ý thức rằng, chăm lo nhu cầu, lợi ích của nhân dân nhất là nhân dân lao động, là mục tiêu, động lực to lớn của cách mạng nước ta. Đảng thực hiên mục tiêu lý tưởng của mình cũng chính là thực hiện mục tiêu lý tưởng của nhân dân, của dân tộc, của Tổ quốc nên nó có cơ sở khách quan bền vững. Vì thế mà nhân dân gắn bó với Đảng, cùng với Đảng, thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng làm cách mạng Thứ hai, lợi ích của Đảng, của quần chúng nhân dân và của cả dân tộc là một, là thống nhất. Không chỉ thống nhất về mục tiêu, mà Đảng với quần chúng nhân dân còn có sự thống nhất về lợi ích. Đảng ta là người đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tư tưởng của mình về sự thống nhất lợi ích giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người viết: “lợi ích của dân tộc, gồm có lợi ích của Đảng”, “... lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc”, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt văn hóa, chính trị của nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng tức là Đảng được giải phóng” [3, tr. 250]. Vì vậy, ngay từ khi mới ra đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo dân tộc chiến đấu, chấp nhận sự hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. 58 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Khi tiếng súng kẻ thù phương Tây xâm lược nước ta, nhân dân ta lâm vào cảnh nước mất, nhà tan. Thì khi ấy “độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày” là khẩu hiệu tranh đấu của Đảng trong chặng đường đầu của cách mạng, đã hàm chứa mục đích sống còn và tiên quyết của Đảng là vì dân tộc và nhân dân. Trên quan điểm giai cấp công nhân, ngoài mục đích vì dân tộc, vì nhân dân, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng không có mục đích tự thân. Đấu tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động là mục đích hoạt động, là lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng. Thứ ba, Đảng với quần chúng nhân dân cùng chung một cội nguồn Quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân là mối quan hệ hai chiều trong một chỉnh thể thống nhất. Ở đó, Đảng với quần chúng nhân dân cùng chung một cội nguồn. Theo Hồ Chí Minh, Đảng không phải từ trên trời sa xuống mà từ quần chúng nhân dân mà ra. Đảng cũng ở trong xã hội. Người nói: “Đoàn thể từ trung ương tới xã đều do dân tổ chức nên” [3, tr. 299]. “Đoàn thể mình mạnh hay yếu là ở dân”. Sở dĩ có Đảng anh hùng vì có nhân dân anh hùng. Đảng từ quần chúng nhân dân mà ra, nhờ có quần chúng nhân dân mà có Đảng, Đảng phải dựa vào quần chúng nhân dân để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình; quần chúng nhân dân nhờ có sự dẫn dắt của Đảng, nhờ có Đảng lãnh đạo thì mới có hướng đi đúng đắn và cách mạng mới giành được thắng lợi. Đảng với quần chúng nhân dân là hai thành tố cơ bản gắn bó hữu cơ, là điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng. Giữa Đảng với quần chúng nhân dân phải có sự nương tựa vào nhau. Lịch sử đã chứng minh chỉ có quần chúng nhân dân mới là lực lượng trực tiếp làm cách mạng và chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo thì quần chúng nhân dân mới tiến hành cách mạng thành công. Hồ Chí Minh đã ví, Đảng với quần chúng nhân dân như “người chèo” và “người lái” trên con thuyền cách mạng. Nếu chỉ có người chèo không có người lái cũng không được. Cho nên người chèo và người lái phải đoàn kết với nhau. Người chèo ở đây là lực lượng, sức mạnh của quần chúng nhân dân. Người cầm lái là Đảng, là Chính phủ, là Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. 2.2. Sự tác động qua lại giữa Đảng và quần chúng nhân dân Bên cạnh sự thống nhất, hai thực thể Đảng và quần chúng nhân dân còn có những khác biệt. Hai chủ thể này có sự tác động qua lại nhau. Điều đó được thể hiện rõ ở vai trò của Đảng đối với quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Trước hết, chúng ta xem xét vai trò của Đảng đối với quần chúng nhân dân: Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, Đảng là chủ thể lãnh đạo, còn quần chúng nhân dân là đối tượng lãnh đạo. Đảng có vai trò lãnh đạo quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh. Chúng ta biết rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng, sức mạnh vĩ đại của quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy và trở thành lực lượng vật chất khi có sự lãnh đạo của Đảng. Sự nghiệp cách mạng cũng chỉ có thể thành công được khi có Đảng dẫn dắt. Lịch sử các phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam ta đã chứng minh, con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp bao giờ cũng đòi hỏi phải có một hệ tư tưởng khoa học tiên tiến thay thế cho hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời lạc hậu. Song, hệ tư tưởng ấy phải có một tổ chức tiên phong cách mạng tập 59 Tư tưởng Hồ Chí Minh . . . hợp quần chúng nhân dân đông đảo, biến hệ tư tưởng khoa học đó thành hiện thực. Hồ Chí Minh coi “công nông là gốc của cách mạng”, song công nông và dân chúng nói chung phải giác ngộ, và muốn được giác ngộ, đi từ tự phát đến tự giác, thì phải được trang bị bởi hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Do đó, phải có Đảng cách mạng - Đảng Cộng sản. Khi Đảng Cộng sản lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc thành công, giành được chính quyền, thì không thể dừng lại ở đó. Mà, Đảng phải tiếp tục lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, vai trò và trách nhiệm lãnh đạo không thuộc về ai khác ngoài Đảng Cộng sản. Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân ta tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chủ nghĩa xã hội là con đường đi lên, là mục tiêu phấn đấu mà Đảng và nhân dân ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã dứt khoát lựa chọn. Như vậy, cả trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đều thể hiện rất rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân. Ở đó, Đảng là nhân tố thúc đẩy, phát huy, và nhân lên sức mạnh của quần chúng, làm tăng hiệu quả hoạt động của quần chúng, còn bản thân sự nghiệp hoạt động cách mạng là của quần chúng và do quần chúng quyết định. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân, sự tác động qua lại không chỉ là: Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn là Đảng dựa vào dân, gắn với dân thì mới có sức mạnh, mới làm nên thắng lợi trong cách mạng. Điều này, nói lên vai trò to lớn của quần chúng nhân dân đối với Đảng, vai trò đó được thể hiện ở những luận điểm sau: Thứ nhất, quần chúng nhân dân là cội nguồn và sức mạnh của Đảng. Trong điều kiện đặc thù của nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Giai cấp công nhân Việt Nam, dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, có thể nói mối quan hệ máu thịt giữa Dân với Đảng là một trong những nhân tố cơ bản dẫn đến sự ra đời của Đảng. Hơn nữa, Đảng tồn tại và phát triển được là nhờ dựa vào dân, lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng đồng thời là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng, Dân như nước cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là người che chở, đùm bọc cho Đảng trước mọi đàn áp, khủng bố của quân thù, trước mọi tấn công của chủ nghĩa đế quốc. Nhờ dựa vào quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, sức mạnh của Đảng ta đã trở thành vô địch. Đảng đã tổ chức và lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nguy hiểm, giành nhiều thắng lợi vẻ vang trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và thành tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới. Đúng như Người đã nói: “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”. [3, tr.295] Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản, có sức mạnh to lớn để thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của 60 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Đảng; những sáng kiến, nguyện vọng của quần chúng nhân dân là cơ sở, là nguồn gốc, là những gợi ý để Đảng xây dựng, hoàn thiện và điều chỉnh đường lối chính sách. Chúng ta biết rằng, tư tưởng tự bản thân nó không làm biến đổi được thực tiễn xã hội. Tư tưởng chỉ có giá trị khi nó dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử, mà điều đó chỉ có thể xảy ra khi nhân dân đồng lòng, nhiệt tình và quyết tâm hành động. Điều đó cũng có nghĩa là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng ta chỉ có ý nghĩa khi nó đi vào cuộc sống của nhân dân, được chủ thể quần chúng nhân dân thực hiện. Tuy nhiên, Đảng muốn đề ra được những chủ trương, chính sách đúng đắn thì phải bắt nguồn từ lợi ích của quần chúng nhân dân, cán bộ đảng viên có hòa mình trong quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, tìm hiểu những tâm tư nguyện vọng của quần chúng và quần chúng có tin yêu Đảng, đóng góp xây dựng Đảng thì mới giúp cho Đảng định ra những chủ trương, chính sách, đường lối hợp với thực tế và yêu cầu nguyện vọng của nhân dân. Khi những sáng kiến, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân nâng lên thành đường lối, chính sách thì chính nhân dân lại là lực lượng thực hiện để chuyển những ý tưởng đó vào đời sống thực tiễn, tìm những phương pháp, biện pháp để thực hiện có hiệu quả cao nhất. Nhân dân sẽ tham gia trong vai trò là chủ thể trực tiếp của các quá trình hoạt động thực tiễn, sẽ là người phản biện các chủ trương chính sách của Đảng, phát hiện, kiểm tra tính đúng đắn và sự phù hợp đối với đường lối của Đảng. Và, thông qua việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, nhân dân lại có điều kiện cung cấp những tư tưởng, những dữ kiện mới nảy sinh từ thực tiễn để Đảng hoàn thiện đường lối, chính sách. Nhân dân còn là người giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Bằng sự phản ánh của mình, nhân dân thực hiện chức năng phê bình đối với Đảng, trên cơ sở đó Đảng “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức”. [3, tr.297]. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở Đảng ta cần phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải bàn bạc, thảo luận với nhân dân những vấn đề “quốc kế dân sinh”. Người cho rằng: “Việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc và giải thích cho dân chúng”. [3, tr. 294-295] Thứ ba, quần chúng nhân dân cùng Đảng tham gia chống tệ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn khác trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng đã thành công, Đảng ta đương nhiên trở thành Đảng cầm quyền vì Đảng đã lãnh đạo cách mạng trong điều kiện có chính quyền và lãnh đạo chính quyền nhân dân một cách trực tiếp, toàn diện. Tuy nhiên, trong điều kiện của một Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã cảnh báo những căn bệnh dễ phát sinh trong Đảng. Và, thực tế đã có rất nhiều thói hư, tật xấu nảy sinh trong Đảng, làm tha hóa Đảng. Người chỉ ra hàng loạt những lỗi lầm nghiêm trọng trong hàng ngũ cán bộ đảng viên, đó là tệ tham ô, lãng phí, quan liêu... Theo Người, đó chính là thứ “giặc nội xâm” vì nó phá hoại ta từ bên trong. Từ đó, Người kêu gọi tất cả bộ máy Đảng và Nhà nước, mọi cán bộ đảng viên phải ra sức chống ba căn bệnh trên, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, Người cũng nhắc nhở “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công” [4, tr.495]. Chính 61 Tư tưởng Hồ Chí Minh . . . vì vậy, để phòng trừ, đấu tranh với tệ tham ô, lãng phí, quan liêu, phương thuốc hữu hiệu nhất là phải phát huy dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Người coi việc quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu là chìa khóa đi đến thắng lợi, bởi trong cuộc đấu tranh chống những kẻ cơ hội chủ nghĩa, những kẻ luôn luôn giấu mặt, tinh vi và có nhiều thủ đoạn, tất yếu phải nhờ vào tai, mắt, trí tuệ của quần chúng nhân dân. Cho nên, vấn đề có tính chất quyết định đến thành công hay thất bại của mặt trận chống tham ô, lãng phí, quan liêu là phải động viên, tập hợp mọi lực lượng, mọi tầng lớp xã hội tham gia vào trận tuyến vô hình nhưng đầy khó khăn và quyết liệt này. 3. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Cần khẳng định rằng, củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực, cấp bách, lại vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài, là điều kiện cơ bản đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, diễn ra trong điều kiện có nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết về Đảng, về dân, về mối quan hệ giữa Đảng với dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng xấu từ cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trên thế giới, đặc biệt là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bên ngoài bằng các thủ đoạn diễn biến hòa bình hết sức tinh vi, phức tạp, và đặc biệt quan trọng hơn nữa là vấn đề suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên... Tất cả điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến mối quan hệ gắn bó, mật thiết giữa Đảng với nhân dân ở Việt Nam hiện nay. Trong điều kiện ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bản thân tư tưởng của Người đã cung cấp cho chúng ta những nguyên lý, những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản để chúng ta tìm lời giải đáp cho những vấn đề của hiện tại. Từ tinh thần ấy, chúng tôi nhận thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân chính là kim chỉ nam định hướng, là cơ sở lý luận quan trọng trong việc hoạch định mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ tư tưởng của Người, Đảng cần đặc biệt coi trọng và phát huy hơn nữa vai trò, sức mạnh của mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện mới. Để có thể giữ vững và tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay thì vấn đề quan trọng là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ nhân dân, phải quán triệt chặt chẽ bốn nguyên tắc chủ yếu sau đây: Một là, Đảng phải thực sự lấy dân làm gốc, phải thực sự phục vụ lợi ích thiết thực của nhân dân. Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực sự dựa vào dân và biết phát huy đầy đủ sức mạnh của quần chúng nhân dân cho sự nghiệp cách mạng. Ba là, Đảng cần phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo động lực đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước. Bốn là, Đảng phải thực sự chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thật 62 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät sự vì dân, để làm cho quần chúng nhân dân tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Đảng, ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng. 4. Kết luận Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã có tư tưởng về Đảng, về quần chúng nhân dân và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân cũng chính là cơ sở để chúng ta vận dụng trong công cuộc đổi mới đất nước. Điều đó vừa giúp cho chúng ta vượt qua những nguy cơ và thách thức của tình hình mới, vừa đảm bảo cho Đảng luôn luôn giữ vững được bản chất giai cấp công nhân, giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình đồng thời phát huy được sức mạnh, mọi tiềm năng sáng tạo và tinh thần làm chủ của nhân dân, hoàn thành được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã dứt khoát lựa chọn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996),Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 5 [4]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 6 [5]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. tập 8
File đính kèm:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_moi_quan_he_giua_dang_voi_nhan_dan_v.pdf