Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau và ý nghĩa đối với việc giáo dục thanh niên Việt Nam hiện nay

Một trong những di sản quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) để lại là

tư tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, một vấn đề “rất quan

trọng và rất cần thiết”. Bài viết đi sâu phân tích vai trò và mục đích, nội dung và

phương pháp bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau trong tư tưởng Hồ Chí

Minh. Những quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề bồi dưỡng

thế hệ cách mạng cho đời sau đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa lý luận và thực

tiễn.

pdf 10 trang kimcuc 19400
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau và ý nghĩa đối với việc giáo dục thanh niên Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau và ý nghĩa đối với việc giáo dục thanh niên Việt Nam hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau và ý nghĩa đối với việc giáo dục thanh niên Việt Nam hiện nay
1 
CHUYÊN MỤC 
TRIẾT HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC - XÃ HỘI HỌC 
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BỒI DƢỠNG THẾ HỆ 
CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI 
VIỆC GIÁO DỤC THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 
 NGUYỄN THỊ ĐAN THỤY* 
Một trong những di sản quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) để lại là 
tư tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, một vấn đề “rất quan 
trọng và rất cần thiết”. Bài viết đi sâu phân tích vai trò và mục đích, nội dung và 
phương pháp bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh. Những quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa lý luận và thực 
tiễn. 
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục, thanh niên Việt Nam 
Nhận bài ngày: 21/8/2019; đưa vào biên tập: 11/9/2019; phản biện: 4/12/2019; 
duyệt đăng: 12/2/2020 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong bối cảnh lịch sử xã hội Việt 
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, 
với yêu cầu đánh đuổi thực dân Pháp, 
xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, 
giải phóng dân tộc; bằng sự kế thừa 
những giá trị truyền thống và tinh hoa 
văn hóa nhân loại, đặc biệt là sự tiếp 
thu tinh thần nhân văn của chủ nghĩa 
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - 
một hệ thống lý luận “toàn diện và sâu 
sắc về những vấn đề cơ bản của cách 
mạng Việt Nam” đã hình thành và 
phát triển, trong đó có vấn đề bồi 
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. 
Tư tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách 
mạng cho đời sau của Hồ Chí Minh là 
một trong những di sản có ý nghĩa lý 
luận và ý nghĩa thực tiễn đối với sự 
nghiệp cách mạng Việt Nam, đặc biệt 
là đối với việc giáo dục thanh niên 
hiện nay. Tư tưởng về bồi dưỡng thế 
hệ cách mạng cho đời sau của Hồ Chí 
Minh không chỉ là cơ sở lý luận, kim 
* 
Trường Đại học Cần Thơ. 
 NGUYỄN THỊ ĐAN THỤY – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ 
2 
chỉ nam cho việc xây dựng triết lý, sứ 
mệnh giáo dục, mà còn là cơ sở 
phương pháp luận cho việc xác định 
mục đích, nội dung, phương pháp giáo 
dục thanh niên Việt Nam hiện nay. 
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN 
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 
VỀ BỒI DƢỠNG THẾ HỆ CÁCH 
MẠNG CHO ĐỜI SAU 
Trong cuộc đời, sự nghiệp và tư 
tưởng của mình, Hồ Chí Minh luôn 
đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ và 
ý nghĩa của việc bồi dưỡng thế hệ 
cách mạng cho đời sau. Thế hệ cách 
mạng đời sau trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh đó chính là thế hệ thanh niên và 
thiếu niên, nhi đồng. Bồi dưỡng thế hệ 
cách mạng cho đời sau trong tư 
tưởng Hồ Chí Minh thực chất là bồi 
dưỡng thế hệ trẻ (thanh niên, thiếu 
niên, nhi đồng). Đặng Xuân Kỳ (1985: 
11-12) trong Chủ tịch Hồ Chí Minh và 
vấn đề bồi dưỡng các thế hệ cách 
mạng xác định: “Trong các thế hệ, thế 
hệ thanh niên và thiếu niên nhi đồng là 
đặc biệt quan trọng. Khi Bác Hồ nói 
„phải bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho 
đời sau‟, „vì lợi ích trăm năm thì phải 
trồng người‟, chủ yếu là nói về hai thế 
hệ này”. 
2.1. Vai trò của bồi dƣỡng thế hệ 
cách mạng cho đời sau 
Theo Hồ Chí Minh, “các cháu thiếu 
niên, nhi đồng là măng non của Tổ 
quốc”, “Thanh niên là người chủ tương 
lai của nước nhà” (Hồ Chí Minh, tập 5, 
2011: 216), “Một năm khởi đầu từ 
mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi 
trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” 
(Hồ Chí Minh, tập 4, 2011: 194). Với 
Hồ Chí Minh, tiền đồ của dân tộc và 
tương lai của thế hệ trẻ gắn liền với 
nhau không thể tách rời. Vì vậy, trong 
Thư gửi các bạn thanh niên vào năm 
1947 Người nhắn nhủ: “Thanh niên 
muốn làm người chủ tương lai cho 
xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn 
luyện tinh thần và lực lượng của mình, 
phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương 
lai đó” (Hồ Chí Minh, tập 5, 2011: 216). 
Đồng thời, Hồ Chí Minh cho rằng cần 
phải giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ 
Việt Nam mới có thể biến tiềm năng 
vốn có của thế hệ trẻ trở thành hiện 
thực và rèn luyện họ tiến tới mục tiêu 
tốt đẹp của cuộc sống. Trước lúc đi xa, 
trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã căn 
dặn toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, 
rằng: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng 
cho đời sau là một việc rất quan trọng 
và rất cần thiết” (Hồ Chí Minh, tập 15, 
2011: 612). Luận điểm mang tính 
chân lý sâu sắc này là sự tiếp tục phát 
triển tư tưởng Người đã từng dạy 
trước đó “Vì lợi ích mười năm thì phải 
trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải 
trồng người” (Hồ Chí Minh, tập 11, 
2011: 528). Có thể khái quát, vai trò 
của việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng 
cho đời sau trong tư tưởng Hồ Chí 
Minh thể hiện rõ nét trên các vấn đề 
cơ bản sau: 
Trước tiên, bồi dưỡng thế hệ cách 
mạng cho đời sau đóng vai trò quan 
trọng đối với sự hình thành, phát triển 
nhân cách và năng lực cho thế hệ trẻ. 
Hồ Chí Minh cho rằng, để giải phóng 
dân tộc và thống nhất đất nước, xây 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
3 
dựng chủ nghĩa xã hội, để thực hiện lý 
tưởng cộng sản chủ nghĩa thì cần 
phải đào tạo cán bộ, bồi dưỡng các 
thế hệ cách mạng cho đời sau. Điều 
đó có nghĩa là việc bồi dưỡng phải 
làm cho thế hệ cách mạng sau tự bộc 
lộ và phát triển những khả năng của 
họ, trở thành người có ích cho xã hội, 
không chỉ góp phần giải phóng dân 
tộc thoát khỏi cảnh tăm tối, lạc hậu mà 
còn giữ vững nền độc lập và đưa đất 
nước tiến lên. Hồ Chí Minh khẳng 
định: “Giáo dục nhằm đào tạo những 
người kế tục sự nghiệp cách mạng to 
lớn của Đảng và nhân dân ta” (Hồ Chí 
Minh, tập 15, 2011: 508). 
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời 
sau, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, còn 
là vấn đề quan trọng quyết định sự 
thành công của sự nghiệp cách mạng, 
ảnh hưởng đến sự tồn vong, hưng 
thịnh của quốc gia dân tộc. Vì thế, Hồ 
Chí Minh nói: “Một dân tộc dốt là một 
dân tộc yếu” (Hồ Chí Minh, tập 4, 
2011: 7). Cũng chính vì thế, trong Thư 
gửi các học sinh nhân ngày khai 
trường đầu tiên của nước Việt Nam 
Dân chủ Cộng hòa vào tháng 9 năm 
1945, Hồ Chí Minh nhắn nhủ: “Non 
sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp 
hay không, dân tộc Việt Nam có bước 
tới đài vinh quang để sánh vai với các 
cường quốc năm châu được hay 
không, chính là nhờ một phần lớn ở 
công học tập của các em” (Hồ Chí 
Minh, tập 4, 2011: 35). 
2.2. Mục đích của việc bồi dƣỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau 
Mục đích của việc bồi dưỡng thế hệ 
cách mạng cho đời sau là đào tạo 
những con người vừa có tài vừa có 
đức để “cống hiến ngày càng nhiều 
cho Tổ quốc, cho nhân dân” (Hồ Chí 
Minh, tập 14, 2011: 619), phải “phát 
triển hoàn toàn những năng lực sẵn 
có của các em” (Hồ Chí Minh, tập 4, 
2011: 34), để mỗi người đều trở thành 
“những công dân và cán bộ tốt, những 
người chủ tương lai tốt của nước nhà” 
(Hồ Chí Minh, tập 10, 2011: 185), và 
là “những người công dân hữu ích 
cho nước Việt Nam”, chứ không phải 
để làm quan như trong xã hội cũ. Bồi 
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau 
là nhằm bồi dưỡng những thế hệ kế 
tục, phát triển toàn diện, có tri thức, có 
lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao 
đẹp, có phẩm chất đạo đức cách 
mạng - trung với nước, hiếu với dân, 
yêu thương con người, cần kiệm liêm 
chính, chí công vô tư, có tinh thần 
quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh 
khẳng định: “Để giáo dục thanh niên 
ta rèn luyện một chí khí kiên quyết, 
quật cường, một tinh thần quả cảm 
xung phong, tin tưởng vào tương lai 
của Tổ quốc, vào lực lượng của nhân 
dân, hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích 
chung của dân tộc, ra sức đấu tranh 
để củng cố hòa bình, thực hiện thống 
nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ 
trong toàn nước Việt Nam ta” (Hồ Chí 
Minh, tập 9, 2011: 135). Bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau được 
ví như việc trồng cây, vun trồng một 
thế hệ tương lai, không đơn giản chỉ 
là giáo dục và đào tạo mà cần phải 
quan tâm, chăm sóc, vun sới mới có 
kết quả như mong đợi. Với những 
 NGUYỄN THỊ ĐAN THỤY – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ 
4 
mục đích cao cả như thế, bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau, theo 
Hồ Chí Minh, là một việc “rất quan 
trọng” và “rất cần thiết” trong công 
cuộc xây dựng đất nước. 
2.3. Nội dung cần bồi dƣỡng cho 
thế hệ cách mạng cho đời sau 
Từ việc khẳng định vai trò của thế hệ 
trẻ và mục đích của việc bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí 
Minh cho rằng: “Trong việc giáo dục 
và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: 
đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội 
chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động 
và sản xuất” (Hồ Chí Minh, tập 12, 
2011: 647). Trong Di chúc, Người 
nhắc nhở phải đào tạo thế hệ cách 
mạng cho đời sau trở “thành những 
người thừa kế xây dựng xã hội chủ 
nghĩa vừa „hồng‟ vừa „chuyên‟” (Hồ 
Chí Minh, tập 15, 2011: 612), vì Hồ 
Chí Minh cho rằng: “Muốn xây dựng 
chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có 
những con người xã hội chủ nghĩa” 
(Hồ Chí Minh, tập 13, 2011: 66). Đây 
cũng là chiến lược, là quy luật của 
cách mạng Việt Nam. 
Trong việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ 
trẻ, Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “dưới chế 
độ thực dân phong kiến, mục đích đi 
học là cốt được mảnh bằng để làm 
ông thông, ông phán; rằng mục đích 
giáo dục nô lệ của thực dân phong 
kiến chỉ để đào tạo ra những trí thức 
nô lệ để hầu hạ chúng...” (Hồ Chí 
Minh, tập 9, 2011: 178). Quan điểm 
của Hồ Chí Minh là bồi dưỡng, giáo 
dục cho mọi người, trong đó có thế hệ 
trẻ hướng tới phát triển hoàn thiện 
con người, học để biết, để làm việc, 
để làm người, không học để lấy bằng 
cấp [...]. Và cần xây dựng tư tưởng 
dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục 
vụ nhân dân” (Hồ Chí Minh, tập 10, 
2011: 185). 
Người luôn nhắc nhở thế hệ trẻ, phải 
cố gắng học tập kỹ thuật, văn hóa, 
chính trị... Nếu không học văn hóa, 
không có trình độ văn hóa thì không 
học được kỹ thuật, không học được 
kỹ thuật thì không theo kịp được nhu 
cầu về kinh tế nước nhà. Theo tư 
tưởng Hồ Chí Minh bồi dưỡng thế hệ 
cách mạng cho đời sau cần phải chú 
ý học cả lý luận chính trị, “học tập cái 
tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi 
người và đối với bản thân mình; là 
học tập những chân lý phổ biến của 
chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng 
một cách sáng tạo vào hoàn cảnh 
thực tế của nước ta” (Hồ Chí Minh, 
tập 11, 2011: 611). Và “trên nền tảng 
giáo dục chính trị và lãnh đạo tư 
tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao 
chất lượng văn hóa và chuyên môn 
nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề 
do cách mạng nước ta đề ra và trong 
một thời gian không xa, đạt được 
những đỉnh cao của khoa học và kỹ 
thuật” (Hồ Chí Minh, tập 15, 2011: 
507). 
Tính toàn diện về nội dung bồi dưỡng, 
giáo dục thế hệ trẻ trong tư tưởng Hồ 
Chí Minh thể hiện ở chỗ, nền giáo 
dục phải hướng tới giáo dục con 
người cả về đức, trí, thể, mỹ; trong 
đó, giáo dục đạo đức cách mạng phải 
được đặt lên hàng đầu. Người nhấn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
5 
mạnh: “Cũng như sông thì có nguồn 
mới có nước, không có nguồn thì 
sông cạn. Cây phải có gốc, không có 
gốc thì cây héo, người cách mạng 
phải có đạo đức, không có đạo đức dù 
tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo 
được nhân dân” (Hồ Chí Minh, tập 5, 
2011: 292).
Cho nên trong nội dung 
giáo dục cho thế hệ trẻ, cần phải đặc 
biệt quan tâm giáo dục đạo đức cách 
mạng. Người nói: “Dạy cũng như học 
phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. 
Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái 
gốc, rất là quan trọng” (Hồ Chí Minh, 
tập 14, 2011: 400). Trong đó, Hồ Chí 
Minh đặc biệt chú trọng giáo dục 
những phẩm chất đạo đức như “cần, 
kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời 
sống mới” (Hồ Chí Minh, tập 6, 2011: 
117), nền tảng cho việc xây dựng con 
người mới. 
Tất cả những điều đó cho thấy, tư 
tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách 
mạng cho đời sau của Hồ Chí Minh 
thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc, vì nó 
luôn xuất phát từ thế hệ trẻ và luôn 
hướng thế hệ trẻ tới những giá trị xã 
hội tốt đẹp và lý tưởng cao đẹp, biết 
làm chủ và sáng tạo, có văn hóa để 
xứng đáng làm người. Trong Di chúc, 
Hồ Chí Minh viết: “Đoàn viên và thanh 
niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều 
hăng hái xung phong, không ngại khó 
khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải 
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng 
cho họ, đào tạo họ thành những 
người thừa kế xây dựng xã hội chủ 
nghĩa vừa „hồng‟ vừa „chuyên‟” (Hồ 
Chí Minh, tập 15, 2011: 612). 
2.4. Phƣơng pháp bồi dƣỡng thế hệ 
cách mạng cho đời sau 
Để việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng 
cho đời sau đạt được chất lượng và 
hiệu quả cao thì cần có những 
phương pháp bồi dưỡng phù hợp và 
phải sử dụng kết hợp nhiều phương 
pháp vừa mang tính dân tộc, khoa học, 
đại chúng, vừa thiết thực, sinh động 
và linh hoạt; không chỉ bó hẹp trong 
nhà trường, mà phải là sự kết hợp 
chặt chẽ với gia đình và xã hội. Bên 
cạnh đó, để việc chăm lo bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau có hiệu 
quả thiết thực, cần phải tùy theo mỗi 
đối tượng, mỗi cấp học mà có những 
phương pháp giáo dục khoa học, phù 
hợp, để họ có thể tự nâng cao trình độ 
của mình. 
Trước hết là phương pháp nêu gương. 
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc “nêu 
gương”, “làm gương” của mọi tổ chức, 
mọi lực lượng cách mạng và mọi cá 
nhân trong việc giáo dục nói chung và 
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời 
sau nói riêng. Bởi theo Người: “một 
tấm gương sống còn có giá trị hơn 
một trăm bài diễn văn tuyên truyền” 
(Hồ Chí Minh, tập 1, 2011: 284). Do 
đó, phương pháp nêu gương bằng 
những tấm gương người tốt, việc tốt 
cụ thể sinh động là phương pháp có ý 
nghĩa thực tiễn sâu sắc để bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau vươn 
tới những giá trị chân, thiện, mỹ. Hồ 
Chí Minh khẳng định: “Lấy gương 
người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo 
dục lẫn nhau là một trong những cách 
tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng 
 NGUYỄN THỊ ĐAN THỤY – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ 
6 
các tổ chức cách mạng, xây dựng con 
người mới, cuộc sống mới” (Hồ Chí 
Minh, tập 15, 2011: 672). Để phương 
pháp nêu gương đạt hiệu quả cao, Hồ 
Chí Minh đòi hỏi: thứ nhất, phải xây 
dựng, nhân rộng trong thanh niên, 
thiếu niên và nhi đồng các gương điển 
hình người tốt - việc tốt, “Cần lấy ngay 
những gương tốt đó của các cháu và 
những gương người tốt, việc tốt trong 
nhân dân để giáo dục các cháu. 
Không nên nói lý luận suông” (Hồ Chí 
Minh, tập 15, 2011: 670); thứ hai, 
“Phải khéo kết hợp cán bộ già với cán 
bộ trẻ” (Hồ Chí Minh, tập 15, 2011: 
278) để họ bù đắp cho nhau những 
ưu khuyết mang tính đặc thù của tuổi 
tác; thứ ba, nêu gương phải thông 
qua khen ngợi và kết hợp với phát 
động thi đua, khuyến khích, khen 
thưởng, “Các cháu nên thi đua, thi 
đua học tập, thi đua trong mọi việc để 
trở nên những nhi đồng có tổ chức, có 
kỷ luật, có sáng kiến, có lực lượng” 
(Hồ Chí Minh, tập 9, 2011: 498). 
Một trong những phương pháp mà Hồ 
Chí Minh đặc biệt đề cao, đó là 
phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa 
học với hành, giữa lý luận gắn liền với 
thực tiễn trong việc bồi dưỡng thế hệ 
cách mạng cho đời sau. Đây vừa 
được xem là nguyên tắc, phương 
châm vừa là phương pháp bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau. 
Phương pháp này bắt nguồn từ mục 
tiêu giáo dục nhằm đào tạo những 
chiến sĩ kế thừa sự nghiệp cách mạng 
chứ không phải “đào tạo ra những con 
người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói 
thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng 
nhiệm vụ của mình được giao quét 
nhà lại để cho nhà đầy rác” (Hồ Chí 
Minh, tập 15, 2011: 668). Học đi đôi 
với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, 
theo Hồ Chí Minh là điều kiện để thế 
hệ cách mạng sau đem những kiến 
thức đã tiếp thu được vận dụng vào 
trong thực tiễn cuộc sống nhằm phục 
vụ xã hội, cộng đồng; là điều kiện cần 
thiết để rèn luyện, bồi dưỡng lý tưởng, 
giáo dục đạo đức, trách nhiệm và ý 
thức công dân cho thế hệ trẻ. Hồ Chí 
Minh khẳng định: “Học phải suy nghĩ, 
học phải liên hệ với thực tế, phải có 
thí nghiệm và thực hành. Học với 
hành phải kết hợp với nhau” (Hồ Chí 
Minh, tập 14, 2011: 402); “Lý luận phải 
đem ra thực hành. Thực hành phải 
nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như 
cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành 
cũng như cái đích để bắn. Có tên mà 
không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng 
như không có tên. Lý luận cốt để áp 
dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, 
để đem lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng 
vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, 
đồng thời học thì phải hành” (Hồ Chí 
Minh, tập 5, 2011: 275). 
Để bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho 
đời sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường 
xuyên sử dụng và nhấn mạnh phương 
pháp tự giáo dục. Bản thân thế hệ trẻ 
phải ra sức học tập, tu dưỡng mọi nơi, 
mọi lúc và suốt đời. Tự giáo dục là sự 
thể hiện trình độ làm chủ bản thân, 
khả năng kiềm chế, tự điều chỉnh và 
tự xác định bổn phận, trách nhiệm của 
mỗi người trong cuộc sống. Hồ Chí 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
7 
Minh cho rằng thế hệ cách mạng đời 
sau phải có ý thức học tập, say mê 
học tập và coi học tập là nhiệm vụ 
thường xuyên, liên tục cho đến suốt cả 
cuộc đời. Hồ Chí Minh viết: “Học ở 
trường, học ở sách vở, học lẫn nhau 
và học nhân dân” (Hồ Chí Minh, tập 6, 
2011: 361). Theo Hồ Chí Minh, để thế 
hệ trẻ có thể phát huy khả năng tự 
học, tự giáo dục của bản thân thì họ 
phải xác định rõ “về cách học, phải lấy 
tự học làm cốt” (Hồ Chí Minh, tập 5, 
2011: 312). 
Trong phương pháp bồi dưỡng thế hệ 
cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh 
còn chú trọng đến sự kết hợp giữa gia 
đình, nhà trường và xã hội: “Giáo dục 
các em là việc CHUNG của gia đình, 
trường học và xã hội” (Hồ Chí Minh, 
tập 10, 2011: 175); “Giáo dục nhằm 
đào tạo những người kế tục sự 
nghiệp cách mạng to lớn của Đảng 
và nhân dân ta, do đó các ngành, các 
cấp đảng và chính quyền địa phương 
phải thật sự quan tâm hơn nữa đến 
sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà 
trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp 
giáo dục của ta lên những bước phát 
triển mới” (Hồ Chí Minh, tập 15, 
2011: 508). Tuy nhiên, “giáo dục 
trong nhà trường, chỉ là một phần, 
còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội 
và trong gia đình để giúp cho việc 
giáo dục trong nhà trường được tốt 
hơn. Giáo dục trong nhà trường dù 
tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong 
gia đình và ngoài xã hội thì kết quả 
cũng không hoàn toàn” (Hồ Chí Minh, 
tập 10, 2011: 591). 
Từ những luận điểm trên của Hồ Chí 
Minh cho thấy rằng, việc kết hợp giữa 
gia đình, nhà trường và xã hội sẽ tạo 
ra mối quan hệ vững chắc trong quá 
trình bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho 
đời sau. Hồ Chí Minh yêu cầu gia đình, 
nhà trường và xã hội phải kết hợp 
chặt chẽ với nhau để thống nhất ở 
mục tiêu bồi dưỡng, phương pháp bồi 
dưỡng nhằm tác động một chiều tích 
cực lên thế hệ trẻ, tránh trường hợp 
trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Từ 
đó, Người nói: “Giáo dục là sự nghiệp 
của quần chúng. Cần phát huy đầy đủ 
dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng 
quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ 
giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, 
giữa học trò với nhau, giữa nhà 
trường với nhân dân để hoàn thành 
thắng lợi nhiệm vụ đó” (Hồ Chí Minh, 
tập 15, 2011: 508). 
3. Ý NGHĨA CỦA TƢ TƢỞNG HỒ 
CHÍ MINH VỀ BỒI DƢỠNG THẾ HỆ 
CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU ĐỐI 
VỚI VIỆC GIÁO DỤC THANH NIÊN 
VIỆT NAM HIỆN NAY 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng 
thế hệ cách mạng cho đời sau là định 
hướng mang tầm chiến lược cho 
Đảng và nhân dân ta nhằm tạo điều 
kiện cho tuổi trẻ học tập, lao động, 
cống hiến, vui chơi giải trí, phát triển 
thể lực, trí lực để xây dựng và bảo vệ 
Tổ quốc. 
Thanh niên là lực lượng đông đảo 
trong xã hội có vai trò quan trọng 
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. 
Theo số liệu thống kê của Tổng cục 
Thống kê: “Thanh niên Việt Nam đến 
 NGUYỄN THỊ ĐAN THỤY – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ 
8 
năm 2016 là 23.925.800 người chiếm 
25,8% dân số cả nước, trong đó dân 
số nam thanh niên là 12.161.900 
người, chiếm 50,8% dân số thanh 
niên và nữ thanh niên là 11.763.900 
người, chiếm 49,2% dân số thanh 
niên” (Tổng cục Thống kê, 2016). 
Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội 
nhập quốc tế sâu rộng trên mọi lĩnh 
vực của đời sống xã hội, việc bồi 
dưỡng, rèn luyện, giáo dục thế hệ 
thanh niên theo lý tưởng và con 
đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn là 
rất cần thiết. Nhận thức được vai trò 
của thanh niên với tư cách là lực 
lượng nòng cốt của dân tộc và tầm 
quan trọng của công tác giáo dục 
thanh niên đối với sự tồn vong và 
hưng thịnh của quốc gia, dân tộc, 
Đảng và Nhà nước đã có những chủ 
trương, chính sách đẩy mạnh việc 
giáo dục thanh niên về đạo đức, lý 
tưởng, trình độ tri thức, kỹ năng, thể 
chất. Trong nhiều văn kiện, nghị quyết, 
chính sách của Đảng và Nhà nước, 
vấn đề giáo dục thanh niên, luôn được 
xem là vấn đề cốt lõi, có tầm quan 
trọng trong chiến lược giáo dục, xây 
dựng con người Việt Nam mới. Trong 
những chủ trương, đường lối của 
Đảng và chính sách của Nhà nước về 
công tác giáo dục thanh niên đã thể 
hiện các quan điểm chủ đạo của Chủ 
tịch Hồ Chí Minh: (1) “Thanh niên 
được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến 
lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và 
nguồn lực con người. Chăm lo, phát 
triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa 
là động lực bảo đảm cho sự ổn định 
và phát triển bền vững của đất nước.” 
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2008: 41-
42); (2) Giáo dục thanh niên phát triển 
toàn diện, vừa hồng vừa chuyên là 
yêu cầu cần thiết, cấp bách của sự 
nghiệp cách mạng và là “trách nhiệm 
của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh 
đạo của Đảng, vai trò quan trọng của 
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí 
Minh, gia đình, nhà trường và xã hội” 
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2008: 41-
42); (3) Đổi mới căn bản, toàn diện về 
mục tiêu, nội dung và phương pháp 
giáo dục thanh niên theo hướng 
“chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ 
yếu từ trang bị kiến thức sang phát 
triển toàn diện năng lực và phẩm chất 
của người học; học đi đôi với hành, lý 
luận gắn với thực tiễn” (Đảng Cộng 
sản Việt Nam, 2016: 114); (4) Đẩy 
mạnh phát triển giáo dục, xem đó là 
quốc sách hàng đầu trong việc giáo 
dục thanh niên, “Giáo dục và đào tạo 
là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp 
của Đảng, Nhà nước và toàn dân. 
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho 
phát triển, được ưu tiên đi trước trong 
các chương trình, kế hoạch phát triển 
kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt 
Nam, 2013: 119). 
Thực hiện Di chúc và học tập tư 
tưởng của Hồ Chí Minh, tại Hội nghị 
lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung 
ương khóa X khẳng định: “Một trong 
những thành tựu của công cuộc đổi 
mới đất nước là đã xây dựng được 
thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo 
đức, nhân cách, tri thức, sức khỏe, tư 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
9 
duy năng động và hành động sáng tạo; 
tiếp nối truyền thống hào hùng của 
Đảng và dân tộc, nêu cao lòng yêu 
nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc xã hội chủ nghĩa; không ngại khó 
khăn, gian khổ, tình nguyện vì cộng 
đồng; có trách nhiệm với gia đình, xã 
hội; có ý chí vươn lên trong học tập, 
lao động, lập thân, lập nghiệp, làm giàu 
chính đáng, quyết tâm đưa đất nước 
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; mong 
muốn được tin tưởng, được cống hiến 
cho đất nước, có việc làm, thu nhập 
ổn định, đời sống văn hóa tinh thần 
lành mạnh phong phú, môi trường 
sống an toàn. Dù còn nhiều tâm trạng 
khác nhau, song đa số thanh niên 
luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của 
Đảng và phát triển của đất nước” 
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2008: 37). 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu 
đã đạt được, công tác giáo dục thanh 
niên nước ta vẫn còn có những hạn 
chế nhất định như: công tác giáo dục 
thanh niên vẫn chưa được sự quan 
tâm đúng mức của một bộ phận cấp 
ủy Đảng, chính quyền, gia đình và các 
tổ chức chính trị - xã hội; công tác 
đoàn kết, tập hợp thanh niên tham gia 
các đoàn thể xã hội, hoạt động thực 
tiễn để giáo dục còn hạn chế; nguồn 
lực thanh niên được giáo dục vẫn 
chưa đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp 
xây dựng và phát triển đất nước; mục 
tiêu, nội dung và phương pháp giáo 
dục thanh niên thời gian qua còn 
nhiều bất cập. Điều đó đã dẫn đến 
“Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý 
tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm 
đến tình hình đất nước, thiếu ý thức 
chấp hành pháp luật, sống thực dụng, 
xa rời truyền thống văn hóa dân tộc. 
Học vấn của một bộ phận thanh niên 
nhất là thanh niên nông thôn, thanh 
niên dân tộc thiểu số còn thấp; nhiều 
thanh niên thiếu kiến thức và kỹ năng 
trong hội nhập quốc tế. Tính độc lập, 
chủ động, sáng tạo, năng lực thực 
hành sau đào tạo của thanh niên còn 
yếu, chưa đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tình trạng 
tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh 
niên đang gia tăng và diễn biến ngày 
càng phức tạp. Tỷ lệ thanh niên nhiễm 
HIV/AIDS còn cao” (Đảng Cộng sản 
Việt Nam, 2008: 37-38). 
Để thực hiện điều đó, cần tiến hành 
đồng bộ và đồng thời các giải pháp 
như sau: nâng cao nhận thức về vai 
trò của công tác giáo dục thanh niên; 
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và 
sự quản lý của Nhà nước để phát huy 
vai trò của các tổ chức, các lực lượng 
và toàn xã hội trong công tác giáo 
dục thanh niên; đổi mới căn bản, toàn 
diện về mục tiêu, nội dung và phương 
pháp giáo dục thanh niên; tăng 
cường xây dựng và phát triển đội ngũ 
cán bộ làm công tác giáo dục thanh 
niên; tăng cường phối hợp giữa gia 
đình, nhà trường và xã hội nhằm tạo 
môi trường lành mạnh, tích cực trong 
việc giáo dục thanh niên; giáo dục ý 
thức tự rèn luyện và tự giáo dục cho 
thanh niên. 
4. KẾT LUẬN 
Tư tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách 
mạng cho đời sau của Hồ Chí Minh 
 NGUYỄN THỊ ĐAN THỤY – TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ 
10 
luôn là một bài học thiết thực và sâu 
sắc trong mọi giai đoạn cách mạng, 
đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi 
kinh tế tri thức trở thành mục tiêu 
hướng đến của nhiều nước. Nếu 
chúng ta không bồi dưỡng kịp thời 
một lớp người trẻ tuổi đủ đức đủ tài 
nhằm phát huy cao nhất mọi nguồn 
lực sáng tạo của những chủ nhân 
tương lai vào công cuộc xây dựng chủ 
nghĩa xã hội thì sẽ là một trở lực đối 
với con đường phát triển của dân tộc, 
của đất nước Việt Nam. Do đó, bồi 
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau 
phải trở thành chiến lược lâu dài của 
Đảng và Nhà nước, thể hiện qua 
những chủ trương, biện pháp thiết 
thực, phù hợp, khích lệ được tinh thần 
chủ động tham gia của mọi tầng lớp 
nhân dân vào công việc bồi dưỡng 
thế hệ trẻ. Khi ấy mới thật sự thực 
hành triết lý đạt tới chiều sâu nhân 
văn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng 
cho đời sau là một việc rất quan trọng 
và rất cần thiết” (Hồ Chí Minh, tập 15, 
2011: 612).  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2008. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung 
ương khóa X. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2013. Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung 
ương khóa XI. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng. 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà 
Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
4. Đặng Xuân Kỳ. 1985. Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề bồi dưỡng các thế hệ cách 
mạng. Hà Nội: Nxb. Thanh niên. 
5. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập - tập 1, 4, 5, 6, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15. Hà Nội: Nxb. 
Chính trị Quốc gia. 
6. Tổng cục Thống kê. 2016. Kết quả thống kê lao động thanh niên 2007 - 2016. Hà Nội: 
Nxb. Thống kê. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_ho_chi_minh_ve_boi_duong_the_he_cach_mang_cho_doi_s.pdf