Tư tưởng đẳng cấp, địa vị, tâm lý hiếu danh của đạo đức phong kiến và ảnh hưởng của nó trong đội ngũ cán bộ ở nước ta hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm
các nguyên tắc quản lý hoặc lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý để lấy cắp của công, ăn hối
lộ, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức lối sống có chiều hướng gia tăng, nhất là cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, quản lý nhà nước”. “Các hiện tượng. suy thoái về đạo đức
và lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, sách nhiễu, ức hiếp
nhân dân. tiếp tục phát triển, gây hậu quả nghiêm trọng”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” cũng đã thẳng thắn chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa
vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc.”.
Nhận định trên cho thấy tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện
nay ở nước ta không chỉ còn là hiện tượng mà đã thở thành vấn đề nghiêm trọng, phức tạp và đáng
báo động.
Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân như: hạn chế, yếu kém, bất cập trong quản lý; môi trường
xã hội thiếu dân chủ, thiếu công khai, minh bạch; do yếu kém về tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán
bộ, đảng viên; những hạn chế, yếu kém về công tác xây dựng Đảng. Bên cạnh đó còn phải kể đến
là sự ảnh hưởng của tư tưởng đẳng cấp quyền lực, tâm lý hiếu danh của đạo đức phong kiến để lại.
Vì vậy, việc làm rõ những ảnh hưởng của tư tưởng đẳng cấp, địa vị và tâm lý hiếu danh trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay, giúp chúng ta thấy được những hạn chế của nó, để có
những biện pháp khắc phục.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng đẳng cấp, địa vị, tâm lý hiếu danh của đạo đức phong kiến và ảnh hưởng của nó trong đội ngũ cán bộ ở nước ta hiện nay
KHCN 1 (30) - 2014 58 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Tài liệu tham khảo 1. Phạm Hương Giang (2013), Đa dạng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn, Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Thái Nguyên, tập 112, số 12/1. 2. Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh (1997), Cơ sở cảnh quan học của việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường lãnh thổ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 3. Trương Quang Hải và nnk (2010), Đánh giá cảnh quan cho mục đích phát triển nông lâm nghiệp và du lịch tại khu vực có núi đá vôi tỉnh Ninh Bình, Tuyển tập các báo cáo khoa học Hội nghị địa lý toàn quốc lần thứ V, Hà Nội. 4. Nguyễn Cao Huần (2005), Đánh giá cảnh quan (theo hướng tiếp cận kinh tế sinh thái), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 5. Vũ Tự Lập (1976), Cảnh quan miền Bắc Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. SUMMARY BAC KAN’S LANDSCAPE ASSESSmENT FOR PURPOSE THREE TYPES OF FOREST DEVELOPmENT Pham Huong Giang1, Nguyen Anh Hoang2 1Thai Nguyen University of Education, 2Hung Vuong University Landscape assessment for the purpose of developing three types of forest in Bac Kan province that has highly synthesizing research, to comprehensively assessment the province’s natural conditions for forestry development. On the basis studied landscape characteristics of Bac Kan province, we conducted select and hierarchy assessment criteria for three types of forest in the province, formative assessment and tabulated separately assessment for each type, thereby determining score distance and classificating adaptation level for all types. This is an important premise to Bac Kan province can make the proper orientation for the forestry. Keywords: Forest, landscape assessment, criteria, adaptation. TƯ TƯỞNG ĐẲNG CẤP, ĐỊA VỊ, TÂM LÝ HIẾU DANH CỦA ĐẠO ĐỨC PHONG KIẾN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Phạm Thị Thu Hương Lưu Thế Vinh Trường Đại học Hùng Vương Tóm TắT Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "cán bộ là gốc của mọi công việc". Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đạo đức phong kiến, đặc biệt là tư tưởng đẳng cấp, địa vị và tâm lý hiếu danh đã làm một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái biến chất. Vì vậy, việc đấu tranh loại trừ những tàn dư của tư tưởng đó trong xã hội mới, nhất là trong đội ngũ cán bộ, lãnh đạo ở nước ta là vấn đề mang tính thời sự cấp thiết. Từ khoá: Đạo đức phong kiến; tư tưởng đẳng cấp, địa vị; tâm lý hiếu danh. KHCN 1 (30) - 2014 59 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG 1. mỞ ĐẦU Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm các nguyên tắc quản lý hoặc lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý để lấy cắp của công, ăn hối lộ, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức lối sống có chiều hướng gia tăng, nhất là cán bộ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, quản lý nhà nước”. “Các hiện tượng... suy thoái về đạo đức và lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, sách nhiễu, ức hiếp nhân dân... tiếp tục phát triển, gây hậu quả nghiêm trọng”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” cũng đã thẳng thắn chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”. Nhận định trên cho thấy tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay ở nước ta không chỉ còn là hiện tượng mà đã thở thành vấn đề nghiêm trọng, phức tạp và đáng báo động. Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân như: hạn chế, yếu kém, bất cập trong quản lý; môi trường xã hội thiếu dân chủ, thiếu công khai, minh bạch; do yếu kém về tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên; những hạn chế, yếu kém về công tác xây dựng Đảng... Bên cạnh đó còn phải kể đến là sự ảnh hưởng của tư tưởng đẳng cấp quyền lực, tâm lý hiếu danh của đạo đức phong kiến để lại. Vì vậy, việc làm rõ những ảnh hưởng của tư tưởng đẳng cấp, địa vị và tâm lý hiếu danh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay, giúp chúng ta thấy được những hạn chế của nó, để có những biện pháp khắc phục. 2. NỘI DUNG 2.1. Biểu hiện của tư tưởng đẳng cấp, địa vị và tâm lý hiếu danh trong đạo đức phong kiến Trong thời kỳ phong kiến, xã hội Việt Nam được tổ chức như một gia đình mở rộng theo chế độ gia trưởng: Đứng đầu gia đình là gia trưởng; đứng đầu các chi họ là chi tộc trưởng; đứng đầu các họ là trưởng tộc, trưởng họ. Cả họ có một từ đường để thờ cúng tổ tiên; mỗi họ đều có tộc trưởng. Trong họ được chia ra thành các chi, mỗi chi có chi tộc trưởng. Các thành viên trong gia đình đều lệ thuộc vào gia trưởng và tuân theo thứ bậc của mình trong dòng họ. Trong tộc, trong họ, cũng như trong gia đình đều được kết cấu theo thứ bậc chặt chẽ trên dưới đã được định sẵn theo thứ tự các chi. Do cách sắp xếp như vậy nên trong họ, khái niệm trên - dưới không quan hệ gì đến tuổi tác, học vấn hay bất cứ cái gì khác ngoài thứ bậc trong họ. Quyền uy, chức năng trong họ không những được thể hiện trong các dịp lễ, giỗ tổ tiên, trong việc giải quyết các mối quan hệ lợi ích trong họ, mà nó còn trở thành mối dây liên kết, ràng buộc trong đời sống ngoài xã hội. Những cuộc đấu tranh giành giật lợi ích, quyền lực hay danh vọng giữa các dòng họ, làng xã thường được xem xét theo quan niệm thắng - thua, mạnh - yếu, trên cơ sở chế độ đẳng cấp, thân tộc chứ không phải là phải - trái, đúng - sai. Kết quả là các quan hệ xã hội đều được thu xếp thông qua các mối quan hệ tình cảm, nể nang, theo trách nhiệm của thân tộc, huyết thống, dòng họ, làng xã, nên thường rơi vào tình trạng nặng tình, nhẹ lý, “phép vua thua lệ làng”, cục bộ, bè phái. KHCN 1 (30) - 2014 60 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Trong chế độ phong kiến Việt Nam, giới quan lại gắn liền với nhà nước, họ là tầng lớp giàu có nhất, có địa vị cao nhất và có thế lực nhất trong xã hội. Làm quan không những có quyền thế, được mọi người kính nể, mà còn có nhiều ruộng, nhiều tiền hơn các tầng lớp khác. Địa chủ hay thương nhân dù có nhiều ruộng, lắm tiền vẫn ở vị trí thấp hơn so với người làm quan, làm quan là làm phụ mẫu của dân. Trong xã hội phong kiến địa vị luôn gắn liền với đặc quyền, đặc lợi, vì vậy, nó trở thành sức hấp dẫn chủ yếu của quan trường phong kiến. Nó trở thành động lực khuyến khích tất cả những ai có khả năng, điều kiện đều hướng cuộc đời của mình vào con đường quan lộ, thăng quan, tiến chức. Người chưa có chức quyền thì lo tìm mọi cách để có được chức quan nhỏ, người đã có chức quyền thì tìm mọi cách để lên chức cao hơn. Bởi chức vụ càng cao, bổng lộc và các điều kiện tham ô, tham nhũng càng lớn; chẳng những “vinh thân phì gia”, mà còn “cả họ được nhờ”. Kẻ làm quan sống không phải bằng lương, mà chủ yếu bằng bổng lộc của triều đình hay nhà nước và từ sự biếu xén của dân. Họ thường lợi dụng quyền hành để áp bức nhân dân, tìm mọi mánh khoé để cướp bóc tài sản của nhân dân: Mỗi lần chia lại công điền, thu bổ trên thuế, xây dựng công trình công cộng... là dịp để họ làm giàu bằng tham ô; Họ lợi dụng chủ trương của nhà nước như bắt phu, tuyển lính hay đứng đầu cương vị xét xử những vụ tranh chấp, phạm pháp... để ăn hối lộ. Chế độ phong kiến phân biệt con người theo đẳng cấp, địa vị. Giá trị con người cũng được đánh giá bằng địa vị, quyền thế. Chế độ đẳng cấp, trọng quan trong chế độ phong kiến đã sinh ra và làm phát triển tư tưởng hám quyền lực, tâm lý hiếu danh trong xã hội. Tư tưởng này coi địa vị, chức vụ là những vị trí có đặc quyền, đặc lợi, địa vị, chức vụ càng cao, càng quan trọng thì càng có nhiều lợi ích. Người có tâm lý hiếu danh coi địa vị là phương tiện kiếm sống, chú trọng việc tranh giành địa vị mà không quan tâm đến chất lượng, hiệu quả công việc. Người dân muốn không bị khinh rẻ, chèn ép thì phải cố gắng học tập thi đỗ làm quan, hoặc bỏ tiền túi ra mua một chức quan, hoặc kết thân với nhà quan. Còn quan lại thì dùng trăm ngàn thủ đoạn để kết bè, kéo cánh, gạt bỏ lẫn nhau, tranh chức, tranh quyền hòng có được chức vụ và địa vị ngày càng cao hơn. Đầu óc địa vị thường gắn liền với tâm lý hiếu danh. Tuy nhiên, những người có đầu óc địa vị cũng không chỉ đơn giản là vì hiếu danh, mà chủ yếu là vì những đặc quyền, đặc lợi mà cái danh đó mang lại. Tư tưởng đẳng cấp quyền lực, đầu óc địa vị, tâm lý hiếu danh đã thống trị trong xã hội Việt Nam hàng ngàn năm, nó tồn tại dai dẳng và gây ảnh hưởng không nhỏ đối với xã hội và làm suy thoái đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ ở nước ta hiện nay. 2.2. Một số ảnh hưởng của tư tưởng đẳng cấp địa vị và tâm lý hiếu danh với đội ngũ cán bộ hiện nay Chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Nhà nước pháp quyền đang trong quá trình xây dựng; xã hội dân chủ đang dần được hoàn thiện. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường còn sơ khai, nhiều tiêu cực; sự trỗi dậy chủ nghĩa cá nhân vụ lợi đã kích thích tâm lý hưởng thụ, làm giàu bằng mọi giá... Vì vậy, tư tưởng đẳng cấp, địa vị và tâm lý hiếu danh vẫn còn có những ảnh hưởng tiêu cực. Tư tưởng lấy địa vị, quyền uy xã hội trấn áp kẻ dưới, bắt người khác phải phục tùng mình, xuất phát từ thói gia trưởng phong kiến ở gia đình được đem đến cơ quan, công sở. Hình thành một lối làm việc mang tính áp đặt, cứng nhắc, tư tưởng bảo thủ, ngại thay đổi, không dám chấp nhận cái mới, làm mất đi sự linh hoạt, năng động, tính sáng tạo và sự chủ động trong quá trình làm việc. Một KHCN 1 (30) - 2014 61 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG phong cách làm việc xa lạ, không phù hợp với phong cách dân chủ, bình đẳng trong thời kỳ mới. Tâm lý “một người làm quan cả họ được nhờ” làm cho quan hệ giữa thủ trưởng với nhân viên không đơn thuần là đồng chí, đồng nghiệp, mà như anh với em, như cha chú với con cháu, hình thành tư tưởng dựa dẫm, nể nang, kéo bè, kéo cánh, giải quyết công việc thiên về tình cảm, theo quan hệ “con ông cháu cha”. Điều này thể hiện rõ nét trong hoạt động tuyển dụng, bố trí và sử dụng lao động, theo kiểu “nhất hậu duệ, nhì quan hệ, tam tiền tệ, tứ trí tuệ”, hay xu hướng gia đình hóa ở một số ngành, lĩnh vực trong xã hội hiện nay. Trong xã hội ngày càng nhiều sức ép, con người luôn bị cuốn theo lối sống thực dụng, vì lợi ích kinh tế, đề cao quá mức lợi ích cá nhân, khiến những người có địa vị, chức quyền lợi dụng vị trí, quyền lực của mình để mưu đồ lợi ích riêng. Nếu như trước đây hiện tượng này chỉ là hiện tượng cá biệt, thì trong giai đoạn hiện nay tình trạng tiêu cực này trở nên nghiêm trọng và phổ biến. Tâm lý háo danh, đẳng cấp, địa vị đã ảnh hưởng đến không chỉ cán bộ, đảng viên, làm cho người cán bộ không thực sự còn là “người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến cả thế hệ trẻ ngay từ khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường, dẫn đến một bộ phận thanh thiếu niên đi theo lối sống thực dụng, thích hưởng thụ, muốn làm quan, làm bàn giấy để ăn trắng mặc trơn và coi thường lao động chân tay, thích làm thầy hơn làm thợ, tìm mọi cách để chạy điểm, mua bằng. Trong xã hội, quan hệ cấp trên với cấp dưới, quan hệ với bên trong, bên ngoài... đều chứa đựng những khả năng có thể chuyển đổi thành lợi ích kinh tế. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi làm nảy sinh đầu óc địa vị, hiếu danh. Thực tế cho thấy, một số người chạy theo địa vị, quyền lực không chỉ vì thích tiếng tăm, hưởng chế độ chính sách ưu đãi của nhà nước, mà chủ yếu là lợi dụng chức vụ, để lạm quyền, lộng quyền, tìm cách luồn lách, trục lợi. Hiện tượng chạy chọt, nịnh hót, bán rẻ đạo đức, nhân phẩm, kèn cựa, sát phạt lẫn nhau, đánh mất lương tâm để chạy chức, chạy quyền, thăng quan phát tài ngày càng có xu hướng gia tăng. Tâm lý này tạo ra phong cách làm việc xa rời quần chúng, kiêu ngạo với cấp dưới, nhưng lại nịnh nọt, xun xoe, lấy lòng cấp trên, tìm mọi cách để kết thân với lãnh đạo. Hiện nay, việc lợi dụng chức vụ để trục lợi, tham nhũng xuất hiện từ thấp đến cao, từ đơn lẻ, cá thể đến số đông tập thể, phe phái, tập đoàn, và vì thế mà trở thành phổ biến. Càng ở cấp cao, vị trí có khả năng sinh lợi nhiều thì mức độ tham nhũng càng lớn. Mọi giao dịch, thỏa thuận đều được tiền tệ hóa, tạo ra luật chơi bất thành văn, những quy định ngầm để tham nhũng. Có tham nhũng nhỏ trong việc sách nhiễu, cố ý gây phiền hà cho người dân, trì hoãn, dây dưa trong giải quyết công việc, cố ý làm phức tạp hóa những việc đơn giản, lợi dụng những quy định rườm rà của thủ tục hành chính để hành dân, mục đích là buộc người dân muốn được việc thì phải sử dụng “công nghệ bôi trơn”, “làm luật”. Có tham nhũng lớn trong những giao dịch tìm kiếm việc làm, thuyên chuyển, cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Có tham nhũng cực lớn trong các hoạt động đấu thầu đất đai, dự án, tài chính ngân hàng, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng... Hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy danh, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy dự án cho đến chạy trường, chạy lớp... diễn ra ngày càng phổ biến. 2.3. Một số biện pháp khắc phục Để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đẳng cấp, địa vị và tâm lý hiếu danh trong đội ngũ cán bộ hiện nay, cần quan tâm làm tốt một số vấn đề sau: KHCN 1 (30) - 2014 62 KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Thứ nhất, Cần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo đức, lợi dụng chức quyền mưu đồ lợi ích riêng, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ. Thứ hai, Cần có cơ chế quản lý cán bộ chặt chẽ, phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm chế độ thường xuyên tự phê bình và phê bình trong Đảng, liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân. Thực hiện công khai, minh bạch trong kê khai tài sản của các cá nhân và hoạt động của cơ quan nhà nước. Thứ ba, Cần có chế tài mạnh để buộc tất cả mọi cán bộ, đảng viên phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Có những quy định pháp lý sao cho không từ chức thì buộc phải từ chức và phải chịu xử lý ngay cả khi không còn giữ chức vụ hoặc đã nghỉ chế độ. Thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm, phải đồng thời với bỏ phiếu bất tín nhiệm để miễn nhiệm, bãi nhiệm đúng lúc cần thiết. Cuối cùng, Công khai tuyển chọn, tranh cử nhân sự lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, đặc biệt là cấp cao, để không thể dùng tiền, dùng quan hệ mà chạy chức, chạy quyền. 3. KẾT LUẬN Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, về phẩm chất đạo đức, lối sống dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, đảng viên diễn ra nghiêm trọng làm cho nhân dân bất bình, làm giảm lòng tin đối với Đảng, Nhà nước. Vì vậy, việc khắc phục những ảnh hưởng của tư tưởng đẳng cấp, địa vị trong đội ngũ cán bộ hiện nay có thể xem là một giải pháp tích cực. Tuy vậy, cũng cần thấy đây là một vấn đề phức tạp, không thể là trách nhiệm của một người, mà là trách nhiệm của tất cả mọi người, mọi tầng lớp nhân dân. Tài liệu tham khảo 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) tại Đại hội VII, NXB Sự thật, Hà Nội, tr12. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 44-45. 3. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. SUMMARY IDEOLOGY ABOUT CASTE, POSITION AND PSYCHOLOGY ABOUT CURIOUS REPUTATION OF ETHICS FEUDAL AND ITS. INFLUENCE IN STAFFS TODAY Pham Thi Thu Huong, Luu The Vinh Hung Vuong University Ho Chi Minh said: “officer is the root of work”. However, the effections of feudal ethics, especial are ideology about caste, position and psychology about curious reputation, that make a part of officers and leaguers degraded, degenerated. Therefore, struggling to eliminate remnants of that idea in the new society, especially in officers, leaders in our country are the matter of urgency. Keywords: Feudal ethics; Ideology about caste, position; Psychology about curious reputation
File đính kèm:
- tu_tuong_dang_cap_dia_vi_tam_ly_hieu_danh_cua_dao_duc_phong.pdf