Tư tưởng của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con người - tự nhiên

 Bài viết phân tích tư tưởng của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con

người - tự nhiên. Trong mối quan hệ đó, con người nằm trong lòng tự nhiên,

nhưng con người lại cải tạo và chinh phục tự nhiên. Xã hội càng phát triển thì

sự cải tạo chinh phục tự nhiên bởi con người càng mạnh mẽ. Tuy nhiên, con

người không được phá vỡ sự cân bằng động của hệ thống con người - tự nhiên.

Nếu phá vỡ sự cân bằng động của hệ thống này thì con người phải gánh chịu

những hậu quả tai hại khó lường.

pdf 7 trang kimcuc 3740
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con người - tự nhiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con người - tự nhiên

Tư tưởng của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con người - tự nhiên
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 50
TƯ TƯỞNG CỦA PH.ĂNGGHEN 
VỀ MỐI QUAN HỆ CON NGƯỜI - TỰ NHIÊN 
NGUYỄN HÙNG HẬU* 
Tóm tắt: Bài viết phân tích tư tưởng của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con 
người - tự nhiên. Trong mối quan hệ đó, con người nằm trong lòng tự nhiên, 
nhưng con người lại cải tạo và chinh phục tự nhiên. Xã hội càng phát triển thì 
sự cải tạo chinh phục tự nhiên bởi con người càng mạnh mẽ. Tuy nhiên, con 
người không được phá vỡ sự cân bằng động của hệ thống con người - tự nhiên. 
Nếu phá vỡ sự cân bằng động của hệ thống này thì con người phải gánh chịu 
những hậu quả tai hại khó lường. 
Từ khóa: Tư tưởng của Ph.Ăngghen, mối quan hệ con người - tự nhiên, cân 
bằng động, khủng hoảng sinh thái. 
Ph.Ăngghen (1820-1895) là nhà lý 
luận chính trị, một triết gia và nhà khoa 
học Đức thế kỷ XIX. Ngoài những công 
trình ông viết chung với C.Mác, ông đã 
viết nhiều tác phẩm khoa học có giá trị 
như: "Nguồn gốc của gia đình, của chế 
độ tư hữu và của nhà nước", "Biện 
chứng của tự nhiên"... Ông có những tư 
tưởng thiên tài về mối quan hệ con 
người - tự nhiên. Những tư tưởng này 
cho đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự. 
Trong Biện chứng của tự nhiên, 
Ph.Ăngghen đã đưa ra những ví dụ điển 
hình về những hậu quả nghiêm trọng 
của khủng hoảng sinh thái. Chẳng hạn 
như, khi người ta phá rừng để lấy đất 
trồng trọt ở Mêxôpôtami, Hy Lạp, Tiểu 
Á và một số nơi khác, họ không nghĩ 
rằng làm như vậy đã phá hủy các trung 
tâm chứa nước, gây ra các hiện tượng lũ 
lụt với sức công phá không thể tưởng 
tượng nổi. Những người miền núi Italia 
khi phá hoại các đám rừng tùng đã 
không nghĩ rằng, việc làm đó sẽ phá 
hoại việc chăn nuôi trên núi cao, làm 
cho các suối nước trên núi bị khô cạn, 
làm cho nước lũ của các khe suối đó lại 
tuôn xuống càng dữ dội hơn nữa.* 
Theo Ph.Ăngghen, rất có thể nhiều 
nền văn minh, trong đó có nền văn minh 
Maya, bị diệt vong là do nguyên nhân 
mất cân bằng sinh thái, mất cân bằng 
giữa con người và tự nhiên. Tư tưởng 
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành 
chính quốc gia Hồ Chí Minh. 
Tư tưởng của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con người - tự nhiên 
 51
của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con 
người - tự nhiên ngày càng được thực 
tiễn chứng minh; nhất là ngày nay, nạn ô 
nhiễm môi trường, sự cạn kiệt các 
nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự khủng 
hoảng sinh thái trên phạm vi toàn cầu 
đang đe dọa loài người trên trái đất. 
Xã hội là một bộ phận đặc biệt của 
giới tự nhiên, là hình thức tổ chức cao 
nhất trong giới tự nhiên. Con người là 
kết quả của sự tiến hóa lâu dài của thế 
giới vật chất, “một cơ thể phức tạp nhất 
mà giới tự nhiên sản sinh ra được”. Như 
vậy, con người là một bộ phận đặc biệt, 
hạt nhân của xã hội; đến lượt mình, xã 
hội lại là một bộ phận đặc biệt của giới 
tự nhiên; dĩ nhiên, con người cũng là 
một bộ phận của giới tự nhiên, không 
thể đối lập con người với giới tự nhiên. 
Trong tác phẩm Biện chứng của tự 
nhiên, Ph.Ăngghen cho rằng con người 
với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc của 
nó đều thuộc về giới tự nhiên, con người 
nằm trong lòng giới tự nhiên. Con người 
nằm trong lòng giới tự nhiên cũng có 
nghĩa là con người nằm trong lòng mẹ, 
nhưng con người không phải nằm im bất 
động, mà con người phải cải tạo, chinh 
phục giới tự nhiên, tức phải cải tạo, 
chinh phục mẹ. 
Về mối quan hệ con người và tự 
nhiên trong lịch sử đã có hai hướng giải 
quyết. Thứ nhất là hướng của phương 
Đông. Hướng này chủ trương sống hài 
hòa, hòa đồng với thiên nhiên, “thuận 
thiên”, không chống đối lại thiên nhiên, 
sống hòa thuận với thiên nhiên, nương 
theo tự nhiên để hưởng trọn cái gọi là 
tuổi “Trời cho”. Đại diện cho xu hướng 
này là Lão tử, Trang tử. Theo các ông 
hòa đồng với vạn vật thì vạn vật không 
làm hại được mình, nhu thắng cương, 
nhược thắng cường, nhu nhược thắng 
cương cường. Lão Tử đưa ra ví dụ, cái 
gì sống cũng mềm, nhu; cái gì chết cũng 
cứng, cương; như vậy, mềm, nhu gắn 
với sống; cứng, cương gắn với chết. 
Nhu nhược ở đây không phải là thiếu ý 
chí, ai bảo sao nghe vậy, mà có nghĩa là 
đừng cưỡng lại qui luật của tự nhiên, 
của tạo hóa, là thuận thiên. Nước bất 
tranh với mọi cái, luôn tìm chỗ thấp để 
ở, nên mọi cái không tranh giành với nó. 
Bất tranh thì không ai tranh với mình. 
Từ đó Lão Tử đưa ra tư tưởng vô vi. Vô 
vi ở đây không có nghĩa là không làm gì 
cả, mà là làm một cách tự nhiên, làm 
như không làm (vô vi nhi vô bất vi). 
Khuynh hướng này tuy có yếu tố hợp lý, 
nhưng lại không thể đưa loài người tiến 
lên phía trước. 
Thứ hai là hướng của phương Tây. 
Hướng này chủ trương “chế thiên”, cải 
tạo tự nhiên, chinh phục giới tự nhiên. 
Khi mới thoát thai từ động vật, con 
người hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào 
tự nhiên, chịu sự tác động mù quáng của 
những lực lượng tự nhiên. Dần dần con 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 52
người học được cách cải biến, điều 
khiển những quá trình tự nhiên trong 
phạm vi ngày càng mở rộng, để phục vụ 
cuộc sống ngày càng cao của họ. Như 
vậy, không chỉ tự nhiên tác động lên con 
người, mà ngược lại, bằng lao động của 
mình, con người chủ động tích cực cải 
tạo giới tự nhiên, bắt giới tự nhiên phục 
vụ cho những mục đích của mình, tức 
con người thống trị giới tự nhiên. 
Khác với L.Phoiơbắc coi con người 
chỉ thuần túy là sản phẩm của hoàn 
cảnh, của giới tự nhiên, Ph.Ăngghen cho 
rằng, con người không chỉ là sản phẩm 
của hoàn cảnh mà còn cải tạo hoàn 
cảnh; con người không thỏa mãn với thế 
giới, mà cải tạo thế giới; con người càng 
cải tạo thế giới nhiều bao nhiêu thì càng 
tiến bộ bấy nhiêu. Như vậy, mức độ của 
sự tiến bộ phụ thuộc vào mức độ của sự 
chinh phục giới tự nhiên của con người. 
Nhưng hướng này có thể dẫn đến tình 
trạng là môi trường tự nhiên bị phá hủy, 
khí hậu diễn biến xấu, tài nguyên cạn 
kiệt. Trong Biện chứng của tự nhiên, 
Ph.Ăngghen cho rằng, con người càng 
cách xa con vật bao nhiêu thì con người 
lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình 
một cách có ý thức bấy nhiêu; ảnh 
hưởng của những hậu quả không dự 
kiến trước, của những lực lượng không 
kiểm soát được lại càng ít đi bấy nhiêu, 
do đó kết quả lịch sử lại càng phù hợp 
một cách chính xác hơn bấy nhiêu với 
mục đích đã được xác định trước. Tuy 
nhiên, nếu dùng tiêu chuẩn đó để xét 
lịch sử của loài người, ngay cả lịch sử 
của những dân tộc phát triển nhất của 
thời đại hiện nay, thì vẫn có một sự 
chênh lệch rất lớn giữa những mục đích 
đã định trước và những kết quả đã đạt 
được. Những hậu quả không dự kiến 
trước vẫn còn chiếm ưu thế, những lực 
lượng chưa kiểm soát được vẫn còn 
mạnh hơn nhiều so với những lực lượng 
đã kiểm soát được. Chừng nào hoạt 
động lịch sử chủ yếu nhất của con người 
vẫn còn chịu sự tác động mù quáng của 
những lực lượng chưa kiểm soát được 
thì cái được thực hiện thường lại trái 
ngược hẳn với mục đích ban đầu. 
Ph.Ăngghen cho rằng: "Trong giới tự 
nhiên, không có cái gì xảy ra một cách 
đơn độc cả; hiện tượng này tác động đến 
hiện tượng khác và ngược lại"(1); bởi 
vậy "chúng ta không nên quá tự hào về 
những thắng lợi của chúng ta đối với 
giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần chúng ta 
đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới 
tự nhiên trả thù lại chúng ta"(2). Điều này 
hoàn toàn chính xác, bởi lẽ mối quan hệ 
con người - tự nhiên là một hệ thống cân 
bằng động, con người tác động lên tự 
nhiên, ngược lại, tự nhiên cũng tác động 
lên con người. Nhưng ở chiều thứ hai, 
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, 
tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà 
Nội, tr. 652. 
Tư tưởng của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con người - tự nhiên 
 53
do chỉ nhìn thấy lợi ích trước mắt, nên 
con người thường "không lường trước 
được" và đôi khi lại phá hủy tất cả 
những kết quả ban đầu mà con người đã 
đạt được. Trong lịch sử cũng vậy, mặt 
này phát triển, thì mặt khác co lại, teo 
đi. Sự phát triển của tư duy con người 
cũng không nằm ngoài qui luật đó. Theo 
Ph.Ăngghen, tư duy của người cổ đại là 
biện chứng tự phát, mộc mạc, đơn giản. 
Họ xem xét sự vật hiện tượng trong sự 
vận động, phát triển, biến đổi không 
ngừng, trong sự liên hệ, ràng buộc, tác 
động qua lại lẫn nhau; theo họ không có 
cái gì đứng yên, tồn tại độc lập tuyệt 
đối. Như vậy, họ đã nhìn ra cái tổng thể, 
nhìn ra khu rừng, nhưng còn mờ. Đến 
thế kỷ XVII-XVIII, cơ học phát triển 
mạnh; tư duy phân tích mổ xẻ chiếm thế 
chủ đạo; người ta nhìn tường tận từng 
cây một rất rõ, nhưng lại quên khu rừng; 
thế là họ rơi vào siêu hình, máy móc. 
Ông viết rằng, nếu về chi tiết, người siêu 
hình là đúng hơn so với những người Hy 
Lạp, thì về toàn thể những người Hy 
Lạp lại đúng hơn so với người siêu hình. 
Như vậy, tiến ở phía này nhưng lại lùi ở 
phía khác, theo lý thuyết âm dương thì 
lồi ở chỗ này, lại lõm ở chỗ khác. Đối 
với con người, mạnh ở mặt này thì yếu ở 
mặt khác, “nhân vô thập toàn”. Biện 
chứng của giới tự nhiên và của cuộc 
sống là như vậy. 
Trong quan hệ con người - tự nhiên 
cũng vậy. Người ta càng chinh phục, cải 
tạo được tự nhiên nhiều bao nhiêu thì 
người ta lại bị giới tự nhiên trả thù nhiều 
bấy nhiêu (sự trả thù này có thể không 
ngay lập tức, mà theo kiểu “đời cha ăn 
mặn, đời con khát nước”). Ph.Ăngghen 
viết: "Và những việc đó đã nhắc nhở 
chúng ta từng giờ từng phút rằng chúng 
ta hoàn toàn không thống trị được giới 
tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị 
một dân tộc khác, như một người sống 
bên ngoài giới tự nhiên"(3). Quyền hành 
và sự thống trị của con người đối với tự 
nhiên không phải là vô hạn, tuyệt đối để 
đến nỗi làm phá vỡ hệ thống cân bằng 
động con người - tự nhiên, bởi vì con 
người tuy chinh phục giới tự nhiên 
nhưng vẫn nằm trong lòng tự nhiên, chứ 
không phải như một kẻ sống bên ngoài 
giới tự nhiên, không phải như một kẻ 
xâm lược thống trị một dân tộc khác, bắt 
dân tộc đó làm nô lệ cho mình. Con 
người cải tạo, chinh phục mẹ "tự nhiên", 
nhưng vẫn nằm trong lòng mẹ; bởi vậy, 
con người đừng có cư xử tồi tệ, quá 
đáng với người "mẹ" của mình. 
Khi xã hội càng văn minh, con người 
càng phát triển thì sự tác động (cải tạo, 
biến đổi) của con người đối với tự nhiên 
càng mạnh mẽ. Tuy nhiên, những tác 
động (cải tạo, biến đổi) ấy dù có to lớn 
mạnh mẽ như thế nào đi chăng nữa thì 
(3) Sđd, tr. 655. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 54
cũng không được phép vượt quá giới 
hạn, tức là không được phá vỡ sự cân 
bằng động của hệ thống con người - tự 
nhiên; bởi vì con người không thể tồn 
tại bên ngoài giới tự nhiên. Để tồn tại, 
con người phải dựa vào tự nhiên, dựa 
vào thế giới vật chất, môi trường xung 
quanh. Ph.Ăngghen cho rằng, giới tự 
nhiên là cái cung cấp những vật liệu để 
lao động biến thành của cải. Những ví 
dụ hàng ngày cũng chứng minh cho điều 
đó. Nhiều chim sẻ quá thì chim sẻ sẽ ăn 
hết nhiều thóc lúa ở ngoài đồng. Nhưng 
nếu diệt hết chim sẻ, thì sâu bệnh lại 
phát triển khá nhanh; thiệt hại mùa 
màng do sâu bệnh còn gấp nhiều lần so 
với thiệt hại do chim sẻ. Trong tự nhiên, 
loài này sinh ra có lợi cho loài khác, loài 
khác sinh ra lại có lợi cho loài khác nữa, 
cứ như thế cho đến loài cuối cùng; rất có 
thể loài cuối cùng sinh ra có lợi cho loài 
ban đầu. Vòng tròn khép kín đó là biểu 
hiện của sự cân bằng động của giới tự 
nhiên. Không chỉ đơn giản có một vòng 
tròn. Loài này có thể vừa là nhân tố của 
vòng tròn này, nhưng lại vừa tham gia 
trong một chu trình khác, vòng tròn 
khác. Trong giới tự nhiên có vô số 
những vòng tròn tương đối khép kín, 
luôn vận động trong thế cân bằng, khiến 
cho thế giới luôn biến đổi, thế giới luôn 
diễn ra một cách biện chứng. 
Do vậy, việc chinh phục, cải tạo, biến 
đổi giới tự nhiên phải ở trong khuôn khổ 
cân bằng động của hệ thống con người - 
tự nhiên. Nếu vì tham lam trước mắt mà 
phá vỡ sự cân bằng động của hệ thống 
này thì con người phải trả giá, phải gánh 
chịu những hậu quả tai hại khó lường. 
Có những hậu quả trước mắt mà chúng 
ta có thể thấy ngay, nhưng cũng có 
những hậu quả lâu dài mà trải qua hàng 
nghìn năm mới đánh giá hết được mức 
độ nguy hại của nó. Trong Biện chứng 
của tự nhiên, Ph.Ăngghen cho rằng nếu 
chúng ta đã phải trải qua hàng nghìn 
năm lao động mới có thể, trong một 
chừng mực nào đó, đánh giá trước được 
những hậu quả tự nhiên xa xôi của 
những hành động sản xuất của chúng ta, 
thì chúng ta lại càng phải trải qua nhiều 
khó khăn hơn nữa, mới có thể hiểu biết 
được những hậu quả xã hội của những 
hành động ấy. 
Con người là một tiểu vũ trụ, là một 
yếu tố đặc biệt của tự nhiên. Tự nhiên 
cần sự cân bằng. Quan hệ con người - tự 
nhiên cũng cần sự cân bằng. Bản thân 
con người cũng cần sự cân bằng. Y học 
cổ truyền cho rằng bệnh tật xuất hiện là 
do mất cân bằng mà cụ thể là cân bằng 
âm dương. 
Ph.Ăngghen cho rằng, xã hội tư bản 
do coi lợi nhuận tối đa là mục tiêu cao 
nhất, nên không đếm xỉa gì đến sự cân 
bằng sinh thái, đến môi trường tự nhiên, 
vắt kiệt sữa của người mẹ tự nhiên. Để 
duy trì, giữ vững được hệ thống cân 
Tư tưởng của Ph.Ăngghen về mối quan hệ con người - tự nhiên 
 55
bằng động này, khắc phục sự mất cân 
bằng sinh thái, khôi phục hệ thống cân 
bằng động giữa con người - tự nhiên, 
xây dựng một xã hội, phù hợp với tính 
người hơn, tạo nên một sự phát triển mà 
ngày nay gọi là bền vững, thì tất yếu 
phải thay thế xã hội tư bản bằng một xã 
hội phát triển cao hơn. 
Ở Việt Nam hiện nay, Đảng ta chủ 
trương phát triển nhanh và bền vững, 
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện 
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi 
trường. Đại hội đại biểu toàn quốc lần 
thứ X của Đảng đã chỉ ra một trong 
những vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi 
các quốc gia và các tổ chức quốc tế cần 
phải phối hợp giải quyết. Đó là môi 
trường tự nhiên bị phá hủy; khí hậu diễn 
biến ngày càng xấu, kèm theo những 
thiên tai khủng khiếp; tình trạng khan 
hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài 
nguyên. Đại hội XI cũng đề cập đến một 
trong những vấn đề toàn cầu cấp bách 
có liên quan đến vận mệnh của loài 
người, đó là bảo vệ môi trường và ứng 
phó với những biến đổi khí hậu, nước 
biển dâng cao. Một trong những nội 
dung quan trọng của Hội nghị Trung 
ương 7 khóa XI có liên quan đến vấn đề 
này. Những hiện tượng mà Đảng ta cảnh 
báo trên đều bắt nguồn từ nguyên nhân 
mất cân bằng sinh thái. Về nguyên nhân 
của hiện tượng này và giải pháp khắc 
phục, chúng ta có thể tìm thấy từ những 
tư tưởng của Ph.Ăngghen. Tiếp thu, vận 
dụng một cách sáng tạo tư tưởng của 
Ph.Ăngghen về mối quan hệ con người - 
tự nhiên trong điều kiện cụ thể của Việt 
Nam hiện nay, để bảo vệ môi trường, 
khắc phục khủng hoảng sinh thái, Đại 
hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam 
đưa ra các giải pháp sau: nâng cao nhận 
thức và ý thức trách nhiệm của toàn xã 
hội, trước hết là của cán bộ lãnh đạo các 
cấp về bảo vệ môi trường; khẩn trương 
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ 
môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh 
để ngăn ngừa, xử lý nghiêm các hành vi 
gây ô nhiễm môi trường; ngăn chặn có 
hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng và 
tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi; 
xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm, 
khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi 
trường; đưa nội dung bảo vệ môi trường 
vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 
phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các 
chương trình, dự án đầu tư thực hiện 
nghiêm các quy định về bảo vệ môi 
trường khi triển khai các dự án, công 
trình đầu tư xây dựng mới; quản lý, khai 
thác hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên 
nhiên; chú trọng phát triển kinh tế xanh, 
thân thiện với môi trường; từng bước 
phát triển năng lượng sạch, sản xuất 
sạch, tiêu dùng sạch. 
Những giải pháp trên là tương đối 
đồng bộ, toàn diện, khả thi. Làm tốt các 
giải pháp đó là điều kiện cần để thực 
hiện được mục tiêu phát triển nhanh và 
bền vững. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (71) - 2013 
 56

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_ph_angghen_ve_moi_quan_he_con_nguoi_tu_nhien.pdf