Tư tưởng của Hồ Chí Minh về ngoại giao và sự vận dụng ở Việt Nam

Nội dung chủ yếu trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam

với các nước lớn là sợi chỉ đỏ định hướng hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và

Nhà nước Việt Nam trong quá trình đấu tranh cách mạng cũng như trong thời kỳ đổi mới. Nhờ đó,

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ đổi

mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh; nhờ đó, Việt Nam đã

mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thúc đẩy nhanh quá

trình phát triển đất nước.

pdf 9 trang kimcuc 20320
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng của Hồ Chí Minh về ngoại giao và sự vận dụng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về ngoại giao và sự vận dụng ở Việt Nam

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về ngoại giao và sự vận dụng ở Việt Nam
 33 
Tư tưởng của Hồ Chí Minh 
về ngoại giao và sự vận dụng ở Việt Nam 
Vũ Thị Hoà1 
1 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường. 
Email: vuhoa777@gmail.com 
Nhận ngày 10 tháng 10 năm 2018. Chấp nhận đăng ngày 9 tháng 1 năm 2019. 
Tóm tắt: Nội dung chủ yếu trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam 
với các nước lớn là sợi chỉ đỏ định hướng hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và 
Nhà nước Việt Nam trong quá trình đấu tranh cách mạng cũng như trong thời kỳ đổi mới. Nhờ đó, 
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ đổi 
mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh; nhờ đó, Việt Nam đã 
mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thúc đẩy nhanh quá 
trình phát triển đất nước. 
Từ khóa: Ngoại giao, Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Phân loại ngành: Chính trị học 
Abstract: The main content in Ho Chi Minh's thought on diplomatic relations between Vietnam 
and powers in the world is the lodestar that guides the activities of external relations of the 
Communist Party and the State of Vietnam both in the process of revolutionary struggle and the 
renovation period. As a result, the country has reaped many great achievements in socio-economic 
development. In the renovation period, the Communist Party of Vietnam has creatively applied Ho 
Chi Minh Thought, thanks to which the country has expanded its foreign relations, maintaining 
independence, sovereignty and territorial integrity, and accelerating its development process. 
Keywords: Diplomacy, Ho Chi Minh, the Communist Party of Vietnam. 
Subject classification: Politics 
1. Mở đầu 
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, có 
tư tưởng về quan hệ ngoại giao giữa Việt 
Nam với các nước lớn. Tư tưởng này đã 
góp phần tích cực vào việc mở ra các mối 
quan hệ hoà bình, hữu hảo giữa Việt Nam 
và các nước trên thế giới; qua đó Việt Nam 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
34 
đã tranh thủ được sự ủng hộ của dư luận 
tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh 
của nhân dân Việt Nam và độc lập, chủ 
quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tư 
tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh, trong 
đó có tư tưởng về quan hệ giữa Việt Nam 
với các nước lớn, tiếp tục là kim chỉ nam 
cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam hiện 
nay. Bài viết này góp phần làm rõ thêm tư 
tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ ngoại 
giao giữa Việt Nam với các nước lớn và sự 
vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam 
trong thời kỳ đổi mới. 
2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan 
hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các 
nước lớn 
Thứ nhất, Việt Nam cần độc lập, tự chủ, tự 
cường trong quan hệ với các nước lớn, theo 
Hồ Chí Minh, trong quan hệ với các nước 
lớn, Việt Nam cần phải độc lập, tự chủ, tự 
cường. Hồ Chí Minh từng nói: “Không có 
gì quý hơn độc lập, tự do” [7, t.4, tr.131]. 
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực 
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân 
dân Việt Nam đã thể hiện quyết tâm sẵn 
sàng hy sinh để thực hiện mục tiêu và khát 
vọng của toàn dân tộc, đó là: độc lập, tự do, 
hòa bình và thống nhất đất nước. Trong tư 
tưởng ngoại giao của Người, độc lập, tự do 
chính là mục tiêu không thể thay đổi. Do 
đó, khi thiết lập quan hệ ngoại giao với các 
nước lớn, Hồ Chí Minh luôn giữ vững lập 
trường độc lập, tự do. Người cho rằng: “Có tự 
lập mới độc lập, có tự cường mới tự do” [7, 
t.5, tr.553]; “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều 
khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không 
có sự can thiệp ở ngoài vào” [7, t.5, tr.162]; 
“Muốn người ta giúp cho, thì trước mình 
phải tự giúp lấy mình đã” [7, t.2, tr.320]. 
Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam cần độc 
lập, tự chủ, tự cường trong quan hệ ngoại 
giao với các nước lớn. Điều đó không có 
nghĩa rằng, chúng ta tự cô lập, tách rời dân 
tộc với thế giới. Độc lập, tự chủ, tự cường 
phải gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, 
phải tập hợp lực lượng để phát huy sức 
mạnh tổng hợp. Khi trả lời phỏng vấn của 
các nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: 
“Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, 
ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái 
chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng 
có to tiếng mới lớn” [7, t.4, tr.147]. 
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, 
nhằm ngăn chặn chính sách “Hoa quân 
nhập Việt” của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí 
Minh sang Trung Quốc và tham gia tổ chức 
Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội để 
tìm kiếm đồng minh kháng Nhật, cứu nước. 
Đây là những hoạt động khởi đầu trong mối 
quan hệ Việt - Trung thời kỳ bấy giờ, là 
quyết định táo bạo, thể hiện chiến lược hợp 
tác và đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. 
Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên 
ngôn độc lập, trong đó Người khẳng định: 
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và 
độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do 
và độc lập” [7, t.4, tr.3]. Thông qua Tuyên 
ngôn độc lập, Người cũng muốn tuyên bố 
với thế giới về đường lối đối ngoại độc lập, 
tự chủ của Việt Nam. 
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp 
xâm lược, Hồ Chí Minh tiếp tục nêu cao 
quan điểm độc lập, tự chủ tự cường trong 
quan hệ quốc tế. Cũng trong thời gian này, 
Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết, tranh thủ 
sự ủng hộ, giúp đỡ về cả vật chất và tinh 
thần của hai nước lớn trong khối xã hội chủ 
nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc. Ngày 
18/1/1950, Hồ Chí Minh trực tiếp đến thăm 
và làm việc tại Trung Quốc. Tại đây, hai 
nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp 
Vũ Thị Hòa 
 35 
đại sứ. Ngày 30/1/1950, Liên Xô và các 
nước dân chủ nhân dân lần lượt công nhận 
và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt 
Nam. Sau khi Liên Xô và Trung Quốc xảy 
ra bất đồng, Hồ Chí Minh đã thực hiện 
nhiều hoạt động đoàn kết quốc tế nhằm duy 
trì quan hệ với cả hai nước này. Hồ Chí 
Minh đã khéo léo xử lý những bất đồng 
trong quan hệ với các nước lớn, giữ vững 
tình đoàn kết hữu nghị với các nước lớn xã 
hội chủ nghĩa. Đó là thành công quan trọng 
của Hồ Chí Minh trong hoạt động ngoại 
giao với các nước lớn. 
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, 
Hồ Chí Minh tiếp tục chủ trương thực hiện 
chiến lược ngoại giao độc lập, tự chủ, tự 
cường và đoàn kết với các nước xã hội chủ 
nghĩa, nhất là với Liên Xô và Trung Quốc. 
Thông qua đó, nền độc lập, tự do của dân 
tộc Việt Nam được giữ vững, quan hệ đối 
ngoại của Việt Nam không ngừng mở rộng. 
Đồng thời, trên cơ sở nhất quán mục tiêu 
đối ngoại độc lập, tự chủ, sẵn sàng mở rộng 
quan hệ với tất cả các nước, đặc biệt là với 
các nước lớn, Hồ Chí Minh đã khai thác 
triệt để mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với các 
đồng minh của Mỹ, giữa phái chủ chiến với 
phái chủ hòa và các tập đoàn có lợi ích khác 
nhau trong giới cầm quyền Mỹ; tranh thủ 
được sự ủng hộ của nhân dân Mỹ và các lực 
lượng tiến bộ khác để xây dựng một mặt 
trận nhân dân thế giới đoàn kết và ủng hộ 
Việt Nam chống Mỹ xâm lược. 
Thứ hai, Việt Nam cần có quan hệ về hoà 
bình và hợp tác với các nước lớn. Trong 
ngoại giao với các nước lớn, Hồ Chí Minh 
luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, thiện 
chí, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước 
với phương châm “thêm bạn, bớt thù”. 
Trước năm 1945, Hồ Chí Minh có nhiều 
hoạt động quốc tế để tìm kiếm đồng minh 
cho cách mạng Việt Nam. Người đã khéo 
léo tận dụng mâu thuẫn trong quan hệ Mỹ - 
Anh - Pháp về vấn đề thuộc địa ở Đông 
Dương để tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ. 
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, 
Hồ Chí Minh tiếp tục thực hiện chiến lược 
ngoại giao hòa bình (lúc đầu, hòa với 
Tưởng Giới Thạch để chống Pháp, sau đó là 
hòa với Pháp để đấu tranh buộc Tưởng Giới 
Thạch rút quân về nước). Khi Pháp xâm 
lược Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn mong 
muốn xây dựng quan hệ hữu nghị, hòa bình 
với Pháp trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng 
độc lập, chủ quyền của nhau. Người đã 
nhiều lần nhân nhượng Pháp, kể từ Hiệp 
định Sơ bộ (6/3/1946) đến Tạm ước 
(19/4/1946), để giữ gìn nền hòa bình mong 
manh. Đối với nhân dân Pháp, Người bộc 
bạch: “Cả đời mình, tôi đã đấu tranh chống 
lại thực dân Pháp, nhưng mà tôi luôn yêu 
quý và khâm phục nhân dân Pháp. Đây là 
một dân tộc vĩ đại, thông minh và rộng 
lượng. Họ là những người đầu tiên đưa ra 
những nguyên tắc cao cả về tự do, bình 
đẳng và bác ái. Nhân dân Việt Nam đã và 
đang tiếp tục đấu tranh để thực hiện những 
nguyên tắc đó” [7, t.4, tr.361]. Người luôn 
mong muốn cộng tác với dân tộc Pháp như 
anh em vì nền hòa bình, tự do, bác ái. 
Với Mỹ, Hồ Chí Minh luôn cố gắng thiết 
lập quan hệ hữu nghị Việt - Mỹ, tìm mọi 
cách xây dựng môi trường hòa bình. Song, 
trước tình hình Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu 
xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ 
trương tiến hành cuộc kháng chiến chống 
Mỹ, cứu nước, bảo vệ hòa bình, thống nhất 
non sông. Người khẳng định: “Mỹ âm mưu 
gây chiến, cho nên chúng ta phải kiên quyết 
chống Mỹ để giữ gìn hòa bình” [7, t.10, 
tr.92]. Trong thư gửi những người đứng đầu 
70 nước, Hồ Chí Minh đã trình bày chi tiết 
tình hình chiến tranh ở Việt Nam và khẳng 
định lập trường trước sau như một với 
Chính phủ Mỹ. Người viết: “Nếu Chính 
phủ Mỹ thật muốn giải quyết hoà bình, thì 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
36 
họ phải công nhận lập trường 4 điểm của 
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng 
hoà và chứng tỏ điều đó bằng việc làm thật 
sự; phải chấm dứt vĩnh viễn và vô điều kiện 
việc ném bom và mọi hành động chiến 
tranh khác chống lại nước Việt Nam Dân 
chủ Cộng hoà” [7, t.15, tr.34]. Năm 1967, 
khi tương quan lực lượng trên chiến trường 
Đông Dương có lợi cho Việt Nam, Hồ Chí 
Minh đã chủ động tạo cục diện “vừa đánh, 
vừa đàm” với Mỹ, mở đầu cuộc đàm phán 
Paris, chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa 
bình ở Việt Nam. 
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng có 
sự phân biệt rõ bạn và thù của cách mạng 
Việt Nam. Trong Thư gửi nhân dân Mỹ 
(1/1961), Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhân 
dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù 
không oán. Nhân dân Việt Nam kính trọng 
các bạn là một dân tộc đầu tiên đã phất cờ 
chống chủ nghĩa thực dân (1775-1783) và 
chúng tôi mong muốn có quan hệ hữu nghị 
với các bạn” [7, t.13, tr.307]. Với tấm lòng 
nhân ái, khoan dung, Hồ Chí Minh đã tranh 
thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ khắp thế 
giới, bao gồm cả nhân dân Pháp và Mỹ 
trong cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do 
và hòa bình. 
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành 
công, Hồ Chí Minh đã khẳng định với toàn 
thế giới: “Chính sách ngoại giao của Chính 
phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với 
tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ 
gìn hoà bình” [7, t.5, tr.39]. Trong mọi 
trường hợp, Hồ Chí Minh luôn đặt tư tưởng 
hòa bình là tư tưởng chủ đạo, chiến tranh 
chỉ là biện pháp cuối cùng để giữ gìn độc 
lập dân tộc. Với Pháp, Người mong muốn 
hợp tác hòa bình với dân tộc Pháp, thậm chí 
sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao với 
Chính phủ Pháp sau khi chiến tranh kết 
thúc. Hồ Chí Minh cũng mong muốn có 
quan hệ hữu nghị với Mỹ. Người cho rằng, 
để giữ gìn độc lập dân tộc và hòa bình của 
nhân loại, cần phải tăng cường quan hệ 
quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, coi hòa 
bình là tiêu chí đầu tiên trong mọi cuộc đàm 
phán, giải quyết xung đột với các nước lớn. 
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính phủ Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan 
hệ ngoại giao với chính phủ nước nào tôn 
trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ 
và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, 
để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp 
dân chủ thế giới” [7, t.13, tr.307]. Hồ Chí 
Minh luôn tìm mọi cách để giữ gìn môi 
trường hòa bình, sẵn sàng đàm phán, 
thương lượng với Pháp, Mỹ để giải quyết 
vấn đề chiến tranh. Người tin rằng đàm 
phán trong hòa bình là “vũ khí sắc bén” để 
hoàn thành mục tiêu độc lập, tự do; sử dụng 
tư tưởng hòa bình, khoan dung với kẻ thù 
để kết thúc chiến tranh, hạn chế tổn thất cho 
các bên là điều cần thiết trong ngoại giao. 
Thứ ba, Việt Nam cần kết hợp sức mạnh 
dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh 
dân tộc bắt nguồn từ các yếu tố vật chất, 
tinh thần, truyền thống và hiện đại, sức 
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đây 
là những nhân tố đặc biệt quan trọng trong 
ngoại giao với các nước lớn, quyết định 
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy 
nhiên, không phải bao giờ yếu tố ngoại lực 
và nội lực cũng được nhận thức một cách 
đầy đủ. Sự sùng ngoại hoặc bài ngoại quá 
mức cũng dẫn đến sự trì trệ trong quá trình 
phát triển. 
Trong quá khứ, sự sùng ngoại cuối thời 
Trần, sự bài ngoại cuối thời Nguyễn đã 
từng làm đất nước và dân tộc rơi vào tình 
trạng suy yếu và thất bại trước sự xâm lược 
của ngoại bang. Phát huy sức mạnh nội lực 
trước hết là phát huy sức mạnh của tập thể, 
Vũ Thị Hòa 
 37 
cộng đồng. Sức mạnh của khối đại đoàn kết 
dân tộc Việt Nam là nguồn lực nội sinh 
quan trọng; nó luôn được coi là sợi chỉ đỏ 
xuyên suốt đường lối, chiến lược của Đảng 
trong chiến tranh cũng như trong đổi mới, 
xây dựng và bảo vệ đất nước. Sức mạnh 
thời đại là những yếu tố “ngoại lực”; có tác 
dụng hỗ trợ, bổ sung cho “nội lực”; là điều 
kiện không thể thiếu trong chiến lược đối 
ngoại của Việt Nam. Hồ Chí Minh cho 
rằng, cần phải đưa phong trào giải phóng 
dân tộc Việt Nam đi theo quỹ đạo cách 
mạng vô sản, đưa dân tộc Việt Nam hội 
nhập với trào lưu chung của thời đại. Mục 
tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là độc 
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải phóng 
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã 
hội, giải phóng con người. Cuộc đấu tranh 
của nhân dân ta không tách rời mà gắn liền 
với cuộc đấu tranh của nhân dân các nước 
trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, 
dân chủ và tiến bộ xã hội. Kết hợp sức 
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã trở 
thành quy luật của cách mạng Việt Nam, 
góp phần làm cho Việt Nam trở thành nước 
độc lập, thống nhất, xã hội chủ nghĩa. Ngày 
nay, sức mạnh thời đại còn bao hàm cả hòa 
bình (nhân tố đảm bảo cho các mối quan 
hệ quốc tế đi vào chiều sâu và ổn định). 
Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại khi 
kết hợp sẽ tạo ra nguồn lực to lớn, góp 
phần đưa cách mạng vượt qua khó khăn, 
thách thức. 
Trên đây là ba nội dung chủ yếu trong tư 
tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ ngoại 
giao giữa Việt Nam với các nước lớn. Với 
tư tưởng đó, Hồ Chí Minh đã tranh thủ sự 
ủng hộ của nhân dân các nước trong khối xã 
hội chủ nghĩa, nhân dân Pháp, Mỹ, những 
người yêu chuộng hòa bình trên toàn thế 
giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của 
Việt Nam. 
3. Vận dụng của Đảng Cộng sản Việt 
Nam trong thời kỳ đổi mới đối với tư 
tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ ngoại 
giao giữa Việt Nam với các nước lớn 
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ 
ngoại giao giữa Việt Nam với các nước lớn 
được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng 
thành công trong quá trình đổi mới. Điều đó 
thể hiện ở những điểm sau. Một là, quán 
triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đại hội 
Đảng VI (12/1986) đã đưa ra chủ trương, 
chính sách đối ngoại đáp ứng yêu cầu của 
tình hình mới. Việt Nam tiếp tục tăng 
cường và hợp tác toàn diện với Liên Xô 
như “hòn đá tảng” trong chính sách đối 
ngoại. Với Mỹ, Việt Nam chủ trương không 
đối đầu và từng bước cải thiện quan hệ giữa 
hai nước. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ 
trương: “Tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết 
vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn 
sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích hòa 
bình, ổn định của Đông Nam Á” [7, t.6, 
tr.331]. Với các nước lớn trong khối tư bản 
chủ nghĩa, Việt Nam kiên trì thực hiện 
chính sách đối ngoại hòa bình và hữu nghị. 
Tích cực ủng hộ chính sách cùng tồn tại hòa 
bình giữa các nước có chế độ chính trị xã 
hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm 
lược và hình thức khủng bố [2, tr.108]. 
Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam 
cũng hướng đến mục tiêu vì lợi ích nhân 
dân hai nước và hoà bình trong khu vực. 
Đại hội Đảng VI khẳng định: “Sẵn sàng 
đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, 
bất cứ cấp nào và bất cứ ở nơi đâu nhằm 
bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, vì 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
38 
lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở 
Đông Nam Á và thế giới” [2, tr.105]. 
Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ban hành 
Nghị quyết số 13 (khóa VI) về nhiệm vụ và 
chính sách đối ngoại của Việt Nam trong 
tình hình mới. Trong đó, nhấn mạnh vấn đề 
điều chỉnh chiến lược đối ngoại: lấy hòa 
bình và phát triển làm chuẩn mực trong mọi 
hoạt động quốc tế; chủ động chuyển sang 
giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức 
cùng tồn tại hòa bình với các nước láng 
giềng, khu vực, kiên quyết mở rộng quan hệ 
quốc tế, quyết tâm tạo chuyển biến cơ bản 
trong quan hệ với các nước lớn [2, tr.107]. 
Những điều chỉnh về mục tiêu chiến 
lược trong quan hệ với các nước lớn của 
Đại hội Đảng VI là sự vận dụng sáng tạo tư 
tưởng Hồ Chí Minh; theo đó, Việt Nam 
kiên trì mục tiêu độc lập, tự chủ, tự cường 
trên tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, 
phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của toàn 
dân tộc, đặt nền tảng cho việc thực thi 
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng 
mở theo phương châm đa dạng hóa, đa 
phương hóa quan hệ đối ngoại, chú trọng 
quan hệ với các nước lớn. 
Hai là, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, 
Đại hội Đảng VII (6/1991) nhấn mạnh, Việt 
Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong 
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, 
độc lập và phát triển. Trên cơ sở đó, Việt 
Nam tiếp tục kiên trì củng cố và mở rộng 
quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, và coi 
đây là yêu cầu chiến lược trong chính sách 
đối ngoại của mình; phát triển quan hệ với 
Liên Xô; thúc đẩy quá trình bình thường 
hóa quan hệ với Mỹ; tiếp tục mở rộng quan 
hệ với các nước lớn tư bản chủ nghĩa theo 
hướng có chọn lọc và tích cực tham gia các 
tổ chức quốc tế và khu vực. 
Tháng 9/1990, diễn ra cuộc gặp gỡ 
không chính thức ở Thành Đô (Trung 
Quốc) đánh dấu bước đầu cải thiện mối 
quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. 
Ngày 5/11/1991, hai bên tuyên bố bình 
thường hóa quan hệ, đây là khởi động quan 
trọng để tái lập quan hệ hữu nghị giữa hai 
nước. Điều đó thể hiện là vận dụng sáng tạo 
phương châm “thêm bạn, bớt thù”, hòa 
bình, hợp tác bình đẳng trong tư tưởng 
ngoại giao Hồ Chí Minh của Việt Nam. 
Cũng trong thời gian này, quan hệ Việt 
Nam - Hoa Kỳ đã có những bước tiến triển. 
Tháng 4/1991, Việt Nam và Hoa Kỳ tiến 
hành đàm phán và đưa ra lộ trình bình 
thường hóa quan hệ giữa hai nước. Tháng 
4/1992, Hoa Kỳ nới lỏng lệnh cấm vận với 
Việt Nam; góp phần tạo điều kiện cho Việt 
Nam tham gia vào các tổ chức khu vực, 
quốc tế, từng bước mở rộng quan hệ đối 
ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng 
hóa. Đặc biệt, tháng 7/1995, Hoa Kỳ tuyên 
bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, 
chuyển hướng quan hệ đối ngoại song 
phương từ đối đầu thù địch sang đối thoại 
hợp tác. 
Đại hội Đảng VIII (6/1996) xác định rõ 
hơn phương hướng đối ngoại với các nước 
lớn trong tình hình mới. Đó là: khôi phục 
và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác về 
nhiều mặt với Trung Quốc; từng bước đổi 
mới quan hệ với Liên bang Nga; bình 
thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ; tiếp tục 
duy trì và tạo môi trường hòa bình, ổn định 
trong khu vực và thế giới. Năm 2001, 
Tuyên bố chung về hợp tác chiến lược Liên 
bang Nga và nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam được ký kết. Đây là văn 
bản đánh dấu quá trình hình thành khuôn 
khổ hợp tác chiến lược của hai nước trong 
tình hình mới. 
Đại hội Đảng IX (4/2001) nhấn mạnh: 
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại 
độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa 
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam 
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các 
Vũ Thị Hòa 
 39 
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì 
hòa bình, độc lập và phát triển” [8, tr.18]. 
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục kiên trì 
và giữ vững phương châm đối ngoại hữu 
nghị (mở rộng quan hệ hợp tác với các 
nước trong khu vực và thế giới, chú trọng 
quan hệ với các nước lớn trên cơ sở Việt 
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy). 
Điều này đã tạo cơ hội cho Việt Nam phát 
triển và đưa quan hệ đối ngoại với các nước 
lớn đi vào chiều sâu. 
Đại hội Đảng X (2006) khẳng định rằng, 
nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ 
vững môi trường hòa bình, tạo các điều 
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi 
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp 
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của 
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân 
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội [3, tr.119]. 
Hòa bình trong tư tưởng Hồ Chí Minh với 
các nước lớn chính là hòa bình trong độc 
lập, tự do và thống nhất; hòa bình trên cơ sở 
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn 
lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi. Trên cơ sở 
đó, đối ngoại Việt Nam đã linh hoạt trong 
xử lý các vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong 
quan hệ với các nước lớn, góp phần khai 
thông quan hệ quốc tế, tạo dựng và củng cố 
môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp 
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc 
phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc. 
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: 
“Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự 
chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát 
triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc 
tế” [4, tr.112]. Đây là đường lối đúng đắn 
nhằm giữ vững môi trường hòa bình, thuận 
lợi để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc 
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn 
lãnh thổ; nâng cao vị thế của Việt Nam; góp 
phần tích cực vào công cuộc đấu tranh vì 
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến 
bộ xã hội. 
Đại hội Đảng XII đưa ra nhiệm vụ đối 
ngoại trong những năm tiếp theo. Đó là: 
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại 
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát 
triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong 
quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội 
nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và 
thành viên có trách nhiệm của cộng đồng 
quốc tế” [5, tr.72]. 
Trong quan hệ từng nước lớn, Việt Nam 
đã đưa ra lộ trình hợp tác phù hợp. Với 
Trung Quốc, Việt Nam tiếp tục quan hệ 
láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện theo 
phương châm được lãnh đạo hai nước thông 
qua (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, 
ổn định lâu dài, hướng tới tương lai); học 
tập kinh nghiệm cải cách, mở cửa của 
Trung Quốc; thiết lập và nâng cao hiệu quả 
hợp tác trên mọi lĩnh vực, các vấn đề liên 
quan đến chủ quyền biên giới trên bộ và 
trên biển bằng thương lượng; đàm phán hòa 
bình, tuân thủ luật pháp quốc tế về bảo vệ 
chủ quyền biển, đảo. Với Hoa Kỳ, Việt 
Nam tiếp tục phát triển quan hệ song 
phương, chuẩn bị thiết lập nền tảng cho một 
mối quan hệ lâu dài, chiến lược. Sau 
chuyến thăm Hoa Kỳ đầu tiên của Chủ tịch 
nước Nguyễn Minh Triết (6/2007), các 
doanh nghiệp hàng đầu thế giới của Mỹ đã 
đẩy mạnh buôn bán, đầu tư vào Việt Nam. 
Hiện nay, Hoa Kỳ là một trong những nước 
đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với tổng số 
vốn đăng ký lên đến 9,8 tỷ USD. Năm 
2015, Hoa Kỳ xếp thứ 7 trên tổng số 101 
nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam 
với khoảng 22 tỷ USD, chiếm 45,6 % tổng 
số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam [6, 
tr.153]. Với Nga, Việt Nam và Nga nhất trí 
nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 7 
tỷ USD vào năm 2015 và 10 tỷ USD vào 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 
40 
năm 2020 [9, tr.256]; thực hiện Hiệp định 
thương mại tự do với Liên minh kinh tế Á - 
Âu (đã được ký kết ngày 29/9/2015), mang 
lại sự bùng nổ thương mại Nga - Việt. Với 
Ấn Độ và Nhật Bản, Việt Nam chủ động 
thiết lập quan hệ đối tác ổn định, lâu dài và 
toàn diện, nâng mối quan hệ giữa Việt Nam 
với hai nước này lên tầm “đối tác chiến 
lược”, tạo “thế” và “lực” mới trong quan hệ 
đối ngoại. Cụ thể, ngày 6/7/2007, Việt Nam 
và Ấn Độ chính thức thiết lập quan hệ Đối 
tác chiến lược. Đây là sự kiện đánh dấu 
bước phát triển về chất trong quan hệ song 
phương Việt - Ấn, tạo tiền đề mở đường 
cho sự phát triển sâu rộng quan hệ hai nước 
trong tương lai. Hiện nay, Việt Nam đã có 
quan hệ với tất cả các nước lớn; tham gia 
vào 70 tổ chức khu vực và quốc tế; có quan 
hệ thương mại với 230 thị trường; ký kết 
trên 90 hiệp định thương mại tự do song 
phương; thu hút nhiều nhà đầu tư nước 
ngoài. Từ chỗ còn nhiều cách biệt với thế 
giới, hiện nay Việt Nam đã tham gia hầu 
hết các thiết chế liên kết khu vực và toàn cầu 
(như WTO, ASEAN, ASEM, APEC). 
Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 186 
nước trên thế giới, có quan hệ đối tác chiến 
lược với 15 nước (trong đó 4 nước là Ủy 
viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp 
Quốc); có quan hệ đối tác chiến lược toàn 
diện với 10 nước trên thế giới [9, tr.137]. 
4. Kết luận 
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ 
ngoại giao giữa Việt Nam với các nước lớn 
có ý nghĩa to lớn. Tư tưởng này đã và đang 
là định hướng chính trị cho đường lối đối 
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việt 
Nam đang mở rộng quan hệ quốc tế theo 
hướng đa đạng hóa, đa phương hóa các 
quan hệ, đặc biệt đang coi trọng hợp tác với 
các nước lớn (trên các nguyên tắc: tôn trọng 
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; 
không can thiệp vào công việc nội bộ của 
nhau; hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; xây 
dựng môi trường hòa bình, ổn định). Chính 
sách ngoại giao đúng đắn của Đảng Cộng 
sản Việt Nam hiện nay đã góp phần to lớn 
vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 
Chính sách ngoại giao đúng đắn đó là kết 
quả của sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của 
Hồ Chí Minh về quan hệ ngoại giao giữa 
Việt Nam với các nước lớn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), Tài liệu 
tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu các 
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII 
của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb 
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.2-13, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[8] Đinh Xuân Lý (2004), “Vận dụng tư tưởng Hồ 
Chí Minh về đối ngoại trong thời kỳ đổi mới”, 
Tạp chí Cộng sản, số 711, Hà Nội. 
[9] Bùi Thị Thảo (2016), Sự điều chỉnh chính sách 
đối ngoại của Mỹ và Nga đối với Việt Nam 
thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
Vũ Thị Hòa 
 41 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_ho_chi_minh_ve_ngoai_giao_va_su_van_dung_o_viet.pdf