Tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Tư tưởng canh tân là một trào lưu nổi bật ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX

đầu thế kỷ XX. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển từ những điều kiện và

yêu cầu của lịch sử - xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Bài viết trình bày khái quát điều kiện lịch sử - xã hội cũng như những nội dung

cơ bản của tư tưởng canh tân như kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục, quân

sự và ngoại giao giai đoạn này.

Từ khóa: canh tân, kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao

Nhận bài ngày: 5/10/2019; đưa vào biên tập: 10/10/2019; phản biện: 28/10/2019;

duyệt đăng: 10/2/2020

pdf 10 trang kimcuc 9840
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
56 
TƯ TƯỞNG CANH TÂN Ở VIỆT NAM 
CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 
 TRẦN THỊ HOA* 
Tư tưởng canh tân là một trào lưu nổi bật ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX 
đầu thế kỷ XX. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển từ những điều kiện và 
yêu cầu của lịch sử - xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 
Bài viết trình bày khái quát điều kiện lịch sử - xã hội cũng như những nội dung 
cơ bản của tư tưởng canh tân như kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục, quân 
sự và ngoại giao giai đoạn này. 
Từ khóa: canh tân, kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao 
Nhận bài ngày: 5/10/2019; đưa vào biên tập: 10/10/2019; phản biện: 28/10/2019; 
duyệt đăng: 10/2/2020 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, canh 
tân đã trở thành xu hướng tất yếu 
nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan 
của lịch sử dân tộc Việt Nam trước sự 
xâm lược và thống trị của thực dân 
Pháp. Đại diện tiêu biểu của xu hướng 
canh tân thời kỳ này là những trí thức 
nho học cấp tiến như Đặng Huy Trứ, 
Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, 
Phạm Phú Thứ, Phan Bội Châu, Phan 
Châu Trinh. Nội dung của tư tưởng 
canh tân giai đoạn này khá phong phú, 
toàn diện và tương đối hệ thống, đề 
cập đến nhiều vấn đề khác nhau như 
kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục 
Mặc dù tư tưởng canh tân tồn tại trong 
xã hội Việt Nam thời gian ngắn và còn 
những hạn chế do điều kiện lịch sử - 
xã hội và quan điểm, lập trường giai 
cấp chế định, nhưng đã góp phần giải 
quyết những yêu cầu bức thiết mà lịch 
sử đặt ra cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 
ở Việt Nam. 
2. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ ĐIỀU 
KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VIỆT NAM 
CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 
2.1. Bối cảnh thế giới 
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai 
đoạn có nhiều sự kiện mang tính thời 
đại, có ảnh hưởng rất lớn đối với quá 
trình phát triển của lịch sử xã hội loài 
người và có tác động mạnh mẽ đến 
đời sống xã hội Việt Nam. Chủ nghĩa 
tư bản đã tiến hành xâm lược và áp 
dụng phương thức sản xuất tư bản 
chủ nghĩa vào các nước phương 
Đông, trong đó có Việt Nam, làm biến 
đổi sâu sắc các mặt của đời sống xã 
hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã 
hội của các dân tộc thuộc địa. Các 
nước Nhật Bản, Thái Lan và Trung 
Quốc đã tiến hành canh tân đất nước, 
tạo ra sự phát triển mạnh mẽ về kinh 
* 
Trường Đại học Trần Đại Nghĩa. 
TRẦN THỊ HOA – TƯ TƯỞNG CANH TÂN Ở VIỆT NAM 
57 
tế - xã hội, làm thay đổi căn bản chế 
độ chính trị. Bên cạnh đó, phong trào 
dân chủ tư sản ở Đông Âu (). Thực 
tiễn ấy đặt câu hỏi cho dân tộc Việt 
Nam là phải bằng con đường cách 
mạng nào để bảo vệ độc lập cho dân 
tộc và phát triển đất nước. Câu hỏi 
này đã đưa đến sự hình thành những 
tư tưởng canh tân ở Việt Nam cuối 
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội Việt 
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự 
xâm lược, thống trị và khai thác thuộc 
địa của thực dân Pháp đã làm cho xã 
hội Việt Nam có nhiều thay đổi cả về 
cấu trúc kinh tế và xã hội. Về kinh tế, 
dưới tác động của phương thức sản 
xuất tư bản chủ nghĩa do thực dân 
Pháp áp đặt, nền kinh tế Việt Nam có 
sự chuyển biến từ nền kinh tế phong 
kiến lạc hậu, khép kín sang nền kinh 
tế thuộc địa - tư bản chủ nghĩa. Song, 
tính chất và trình độ phát triển của nền 
kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam 
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX còn yếu 
ớt và chậm chạp: “một thứ tư bản chủ 
nghĩa thuộc địa, phụ thuộc hoàn toàn 
vào chính quốc” (Nguyễn Văn Hòa, 
2006: 10). Về chính trị - xã hội, để 
phục vụ đắc lực cho công cuộc “bảo 
hộ” và “khai hóa văn minh”, thực dân 
Pháp thiết lập một chế độ chuyên chế 
về chính trị mang tính chất thực dân 
với bộ máy cai trị và tay sai để đàn áp 
và bóc lột nhân dân Việt Nam. Về 
vănhóa, giáo dục, dưới chiêu bài “khai 
hóa”, thực dân Pháp thực hiện chính 
sách “ngu dân” về giáo dục, “nô dịch” 
về văn hóa và “đầu độc” về tư tưởng 
đối với toàn thể dân tộc Việt Nam để 
dễ dàng cai trị. Về cơ cấu giai cấp, 
chương trình khai thác thuộc địa của 
thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt 
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 
tồn tại đan xen giữa những giai cấp cũ 
(địa chủ phong kiến, nông dân) với 
những giai cấp mới (tư sản, tiểu tư 
sản và công nhân). Song, giai cấp 
nông dân vẫn là lực lượng đông đảo 
chiếm hơn 90% dân số. Xã hội Việt 
Nam nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản đó 
là mâu thuẫn giữa nông dân và giai 
cấp địa chủ - phong kiến (mâu thuẫn 
vốn có của xã hội phong kiến); mâu 
thuẫn mới xuất hiện là mâu thuẫn 
giữa dân tộc Việt Nam với thực dân 
Pháp. Trong đó, mâu thuẫn cơ bản 
nhất là giữa dân tộc Việt Nam với 
thực dân Pháp xâm lược. Trong bối 
cảnh ấy, dân tộc Việt Nam đứng trước 
hai nhiệm vụ: một là, tiến hành canh 
tân đất nước về mọi mặt; hai là, đánh 
đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành 
độc lập cho dân tộc. Trong đó, chống 
đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm 
vụ hàng đầu: “đất nước và dân tộc 
Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ 
lịch sử rất trọng đại, rất khẩn cấp: một 
là nhiệm vụ duy tân, nghĩa là từ bỏ sự 
đình trệ phong kiến Châu Á để phát 
triển theo hướng tư bản chủ nghĩa 
như Âu Mỹ; hai là bảo vệ nền độc lập 
dân tộc chống thực dân xâm lược; hai 
nhiệm vụ có liên quan mật thiết với 
nhau” (Trần Văn Giàu, tập 1, 1993: 
54). Trước yêu cầu cấp thiết của lịch 
sử, các nhà tư tưởng như Đặng Huy 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
58 
Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ 
Trạch, Phạm Phú Thứ, Phan Bội 
Châu, Phan Châu Trinh với tư tưởng 
canh tân đất nước về mọi mặt kinh tế, 
chính trị, văn hóa, giáo dục với mục 
đích làm cho đất nước phú cường, để 
đủ sức chống lại sự xâm lược của 
thực dân Pháp giành lại độc lập cho 
dân tộc. 
Bối cảnh thế giới và Việt Nam cuối thế 
kỷ XIX đầu thế kỷ XX là tiền đề khách 
quan hình thành nên tư tưởng canh 
tân ở Việt Nam. 
3. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA 
TƯ TƯỞNG CANH TÂN Ở VIỆT 
NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ 
KỶ XX 
Thứ nhất, canh tân về kinh tế 
Ở phương diện này, các nhà canh tân 
mà tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, 
Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, 
Phạm Phú Thứ, Phan Bội Châu, Phan 
Châu Trinh đã khẳng định vai trò quan 
trọng của kinh tế trong chống ngoại 
xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, xây 
dựng và phát triển đất nước. Từ đó, 
họ đưa ra nhiều biện pháp để phát 
triển kinh tế như phát triển nông 
nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, 
mở mang thương nghiệp, cổ động 
hàng nội hóa, áp dụng khoa học kỹ 
thuật của các nước phương Tây 
Nguyễn Trường Tộ đã đề ra những 
biện pháp cụ thể để tiến hành khai 
thác các nguồn tài nguyên khoáng sản 
như: thứ nhất, cho các hội nước ngoài 
tự khai thác rồi ta thu lợi một phần và 
ông gọi đó là: “bán thời hạn cho họ” 
(Trương Bá Cần, 2002: 332); thứ hai, 
liên doanh với nước ngoài, “hai bên 
làm chung và khoán thuê mướn công 
nhân, nếu thương lượng ổn thỏa, thì 
làm cũng không có gì đáng ngại” 
(Trương Bá Cần, 2002: 332); thứ ba, 
nếu ta tự làm lấy thì “phái người đi 
học tập gấp làm từ dễ đến khó 
tuy như thế khó thu lợi lớn ngay, 
nhưng có điều hay là người mình tự 
làm lấy khỏi sinh nghi ngại” (Trương 
Bá Cần, 2002: 332). Đặng Huy Trứ 
nhấn mạnh vai trò của sản xuất và 
kinh doanh trong việc làm ra của cải: 
“khai phá đất hoang vu, cỏ rậm không 
thể nói có thừa tâm sức, vượt sóng 
gió tôi đâu tiếc tóc da. Khai thác mỏ 
muối, mỏ sắt thì dù là thần đồng cũng 
tiến cử Quản Trọng, khẩn ruộng vườn 
thì ngài xứng đáng là tiểu Phàn Tu. 
Tuy nhiên, làm chín việc tích lũy kiêm 
thêm việc buôn bán lãi gấp ba, họa 
chăng khéo chục năm mới diệt được 
giặc chăng?” (Đặng Hưng Dzoanh, 
Bùi Văn Côn và Phạm Tuấn Khanh, 
1990: 394). Nguyễn Lộ Trạch dựa vào 
điều kiện thực tế nước ta thích hợp 
cho việc sản xuất nông nghiệp, chủ 
trương làm đồn điền và mở rộng 
thông thương trên cơ sở tự lực, tự 
cường: “phái một thượng tướng dẫn 
vài vạn quân, chọn nơi đất phì nhiêu 
khai khẩn canh tác, nhất định có thành 
quả” (Mai Cao Chương và Đoàn Lê 
Giang, 1995: 113). Phạm Phú Thứ 
chủ trương khuyến nông: “vấn đề 
doanh điền khuyến nông, đó là công 
việc cần kíp. Trong đó công việc nông 
điền thủy lợi, có phương pháp gì hay, 
TRẦN THỊ HOA – TƯ TƯỞNG CANH TÂN Ở VIỆT NAM 
59 
thông thương, tăng gia tài sản, có kế 
sách gì tốt, xin cho trù biện” (Phạm 
Ngô Minh, Chương Thâu, Nguyễn Kim 
Nhị, Phạm Phú Viết và Trần Phước 
Tuấn, tập 2, 2014: 32). Phan Bội Châu 
chủ trương “hô hào quốc dân” mở 
mang thương điếm, lập ngân hàng: 
“Lấy tiền của mình đã tích trữ để hô 
hào quốc dân hoặc mở thương điếm 
hoặc lập ngân hàng, liên hiệp nhiều 
người góp vốn làm công lợi” (Phan 
Bội Châu, 2015: 119). Từ đó, ông đề 
cao vai trò của thương nghiệp và xem 
việc mở mang thương nghiệp, cổ 
động hàng nội hóa là một trong những 
biện pháp làm cho dân giàu: 
“Người đông, đất rộng, dân bần 
Một đường buôn bán muôn phần phú 
nhiêu” (Phan Bội Châu, tập 2, 1990: 
248). 
Cũng giống như Phan Bội Châu, Phan 
Châu Trinh cho rằng muốn phát triển 
kinh tế thì phải chú trọng phát triển 
thương nghiệp, kinh doanh, lập các 
hiệu buôn, đẩy mạnh các ngành sản 
xuất công thương nghiệp, khuyến 
khích người dân học nghề, chung vốn 
làm ăn, mở rộng giao lưu kinh tế với 
các nước khác: 
“Vậy nên của lưu thông dào dã, 
Nghề bán buôn khắp cả đông tây. 
Lợi quyền nắm hết vào tay, 
Làm cho giàu có càng ngày càng hơn” 
(Phan Châu Trinh, tập 1, 2005: 350). 
Có thể nói, tư tưởng canh tân trong 
lĩnh vực kinh tế tương đối hệ thống, 
đề cập đến nhiều vấn đề, đáp ứng 
được yêu cầu phát triển kinh tế ở Việt 
Nam giai đoạn này. 
Thứ hai, canh tân về chính trị - xã 
hội 
Bên cạnh tư tưởng canh tân về kinh tế, 
tư tưởng canh tân về chính trị - xã hội 
của các nhà canh tân cũng đã đề cập 
và bước đầu giải quyết được một số 
vấn đề đặt ra lúc bấy giờ. Nguyễn 
Trường Tộ chủ trương thiết lập và 
củng cố tư tưởng chính danh, định 
phận trong xã hội theo thứ tự đẳng 
cấp nhằm duy trì chế độ quân chủ tập 
quyền hiện thời, với quyền lực tuyệt 
đối thuộc về nhà vua: “Vua có bổn 
phận của vua, quan có bổn phận của 
quan, dân có bổn phận của dân. Danh 
phận mỗi người đều có cái quý trọng 
riêng mỗi bổn phận có một cái cao 
quý riêng, không được có cái ý tưởng 
được voi đòi tiên” (Trương Bá Cần, 
2002: 176). Do đó, ông chỉ đưa ra một 
số biện pháp cải cách bộ máy hành 
chính như hợp tỉnh, huyện để tinh 
giản biên chế, giản lược thủ tục giấy 
tờ; bổ sung, đào tạo lại đội ngũ quan 
lại có thực tài; lập thêm bộ Nông 
nghiệp, bộ Ngoại giao Đặng Huy 
Trứ cũng chủ trương trung vua, do đó 
ông không đề cập đến vấn đề thay đổi 
thể chế chính trị. Tuy nhiên, ông lại 
đưa ra quan điểm lấy dân làm gốc và 
đề cao vai trò của nhân dân “Khí 
mạch của nước là lấy dân làm gốc”, 
“Dân ta vốn đủ sức xoay trời lại” 
(Đặng Hưng Dzoanh, Bùi Văn Côn và 
Phạm Tuấn Khanh, 1990: 284). Còn 
Nguyễn Lộ Trạch cho rằng về chính trị 
phải kịp thời sửa sang “chính - giáo” 
(chính trị - giáo dục): “Sự còn mất của 
quốc gia là do chính trị - giáo dục, chứ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
60 
không phải do mạnh - yếu, lớn - nhỏ 
(b). Chính trị giáo dục được sửa sang 
cất cử thì dầu nhỏ yếu cũng chưa thể 
mất được” (Mai Cao Chương và Đoàn 
Lê Giang, 1995: 138). Từ đó, ông 
nhấn mạnh về vai trò của người cầm 
quyền trong việc đề ra những chủ 
trương, đường lối đúng đắn và phù 
hợp để bảo vệ, xây dựng và phát triển 
đất nước. 
Phan Bội Châu chủ trương xây dựng 
một mô hình nhà nước Việt Nam kiểu 
mới, trong đó nhân dân là người nắm 
giữ vận mệnh đất nước: “Sau khi đã 
duy tân rồi, thì dân trí sẽ mở mang, 
dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ 
phát đạt; vận mệnh nước ta do nhân 
dân nắm giữ. Giữa đô thành nước ta 
đặt một tòa Nghị viện. Bao nhiêu việc 
chính trị đều do công chúng quyết 
định Phàm nhân dân nước ta, 
không cứ sang hèn, giàu nghèo, lớn 
bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử” 
(Phan Bội Châu, tập 2, 2000: 179). 
Phan Bội Châu cho rằng một nước có 
ba điều quan trọng là nhân dân, đất 
đai, và chủ quyền, trong đó nhân dân 
đứng ở vị trí thứ nhất: “được gọi là 
một nước thì phải có nhân dân, có 
đất đai, có chủ quyền. Thiếu một 
trong ba cái đó đều không đủ tư cách 
làm một nước. Trong ba cái đó thì 
nhân dân là quan trọng nhất” (Phan 
Bội Châu, tập 3, 1990: 68). Trong tư 
tưởng của mình, Phan Bội Châu 
không chỉ đề cập đến vị trí, vai trò của 
nhân dân mà ông còn đưa ra quan 
điểm nhân dân có quyền và nghĩa vụ 
giám sát các hoạt động của nhà nước 
thông qua nghị viện theo quy định của 
Hiến pháp: “hình pháp, chính lệnh, 
thuế khóa, tiêu dùng đều do nghị viện 
quyết định, mà nghị viện thì đều do 
nhân dân tổ chức nên” (Phan Bội 
Châu, tập 3, 1990: 387). 
Phan Châu Trinh chủ trương xây 
dựng mô hình nhà nước được tổ chức 
và điều hành theo nguyên tắc cơ bản 
là “tam quyền phân lập”. Trong đó, lập 
pháp giao cho Nghị viện, Hành pháp 
đứng đầu là Giám quốc do Nghị viện 
bầu ra còn tư pháp giao cho các cơ 
quan xét xử độc lập. Viện tư pháp 
cùng hai viện kia: “có quyền độc lập 
như nhau” (Nguyễn Văn Dương, 1995: 
817). Ngoài ra, để đảm bảo chế độ 
dân chủ, ông cho rằng cần thiết phải 
có nhiều đảng phái chính trị nhưng 
trên nguyên tắc: “giao quyền cho cái 
đảng nào chiếm số nhiều trong hai 
viện ấy thì mới được tổ chức Quốc vụ 
viện” (Nguyễn Văn Dương, 1995: 
817). 
Tư tưởng canh tân về chính trị - xã hội 
thời kỳ này cho thấy các nhà canh tân 
như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy 
Trứ, Nguyễn Lộ Trạch và Phạm Phú 
Thứ chủ trương cải cách trong khuôn 
khổ của chế độ phong kiến; còn các 
nhà canh tân đầu thế kỷ XX như Phan 
Bội Châu và Phan Châu Trinh đã 
đứng trên lập trường của ý thức hệ 
dân chủ tư sản, chủ trương xóa bỏ 
chế độ quân chủ phong kiến, xây 
dựng chế độ dân chủ tư sản. Mặc dù 
thời kỳ này Việt Nam đang thuộc Pháp 
với chế độ dân chủ tư sản và thực 
dân. 
TRẦN THỊ HOA – TƯ TƯỞNG CANH TÂN Ở VIỆT NAM 
61 
Thứ ba, canh tân về văn hóa và 
giáo dục 
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, các 
nhà tư tưởng canh tân khẳng định vai 
trò và tính cấp thiết của việc cải cách 
giáo dục. Nguyễn Trường Tộ xác định: 
“việc chỉnh đốn học thuật là cái gốc 
lớn của quốc gia” (Trương Bá Cần, 
2002: 277) và đặt nó trong Tám việc 
cần làm gấp. Ở ngay đầu bài Về việc 
học thực dụng (Di thảo số 18, 
1/9/1866), Nguyễn Trường Tộ đã 
khẳng định: “Học tập bồi dưỡng nhân 
tài tức là con đường đưa đến giàu 
mạnh” (Trương Bá Cần, 2002: 221). 
Phan Bội Châu cũng khẳng định vai 
trò quan trọng của giáo dục trong việc 
làm cho đất nước giàu mạnh: “Phàm 
người trong một nước mà giàu mạnh 
được có thể cùng thế giới tranh đua, 
giành sự sống còn, tất phải lấy giáo 
dục làm cơ sở” (Phan Bội Châu, tập 5, 
1990: 279). Phan Châu Trinh xem 
giáo dục là phương tiện để giải phóng 
dân tộc: “không mở mang dân trí, 
không để dân giàu thì không có con 
đường nào để đạt được mục đích tự 
trị” (Nguyễn Q. Thắng, 1992: 145). 
Trên cơ sở đó, các nhà canh tân đã 
đưa ra nhiều biện pháp để phát triển 
giáo dục. Nguyễn Trường Tộ đề 
xướng việc học thuật theo hướng 
thực dụng: “Cần phải tìm cái học thực 
dụng” (Trương Bá Cần, 2002: 251). 
Phạm Phú Thứ chú trọng đào tạo 
người tài và cũng khẳng định tầm 
quan trọng của việc học thực dụng: 
“Xin ban hành sách vở nước nhà để 
tìm kiếm thực học” (Phạm Ngô Minh, 
Chương Thâu, Nguyễn Kim Nhị, 
Phạm Phú Viết và Trần Phước Tuấn, 
tập 2, 2014: 32). Còn Đặng Huy Trứ 
cho rằng, cần phải đào tạo những con 
người có những hiểu biết sâu rộng 
trên nhiều lĩnh vực: “Lập cục dạy nghề, 
tuyển thiếu niên thông minh, rước 
người mời phương Tây đến dạy ngôn 
ngữ, văn tự, toán pháp, đồ họa để làm 
cơ sở cho việc chế tạo cơ khí đóng 
tàu thuyền” (Phạm Ngô Minh, Chương 
Thâu, Nguyễn Kim Nhị, Phạm Phú 
Viết và Trần Phước Tuấn, tập 2, 2014: 
436). Nguyễn Lộ Trạch nhấn mạnh vai 
trò của việc học tập khoa học kỹ thuật 
phương Tây: “nhiệm vụ cấp bách hiện 
nay, cố nhiên không thể chậm trễ việc 
học kỹ thuật được” (Mai Cao Chương 
và Đoàn Lê Giang, 1995: 133). Phan 
Bội Châu chủ trương phát triển các 
trường dạy nghề: “Các trường học 
bách công đầy khắp nước, thợ tìm mỏ, 
thợ nấu vàng, thợ đúc súng, thợ chế 
tạo máy móc, thợ sản xuất hàng hóa 
để buôn bán, thợ tôi rèn dụng cụ để 
cày cấy; thợ vẽ khéo, thợ may giỏi, 
cho đến trăm vật gì cũng có thợ cả” 
(Phan Bội Châu, tập 2, 2000: 188). 
Đồng thời, phải có chính sách khuyến 
khích việc học tập ở nước ngoài: “cấp 
học bổng xuất dương du học thật hậu 
để giúp đào tạo người tài cho đất 
nước thành công” (Phan Bội Châu, 
tập 1, 2000: 99). Đối với Phan Châu 
Trinh để mở mang dân trí, ông chủ 
trương “khai dân trí”, tiến hành lối học 
thực dụng như học chữ quốc ngữ, 
học các môn khoa học kỹ thuật, khoa 
học tự nhiên “cách vật trí tri”: 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
62 
 “Công thương, kỹ nghệ chuyên khoa, 
Trí tri, cách vật cho ta theo cùng” 
(Phan Châu Trinh, tập 1, 2005: 271). 
Ngoài việc thực học, Phan Châu Trinh 
còn rất coi trọng việc học “thực 
nghiệp”. Ông thấy rằng cần phải có sự 
kết hợp giữa giảng dạy lý thuyết với 
các hoạt động kinh doanh, nông 
nghiệp, thủ công nghiệp, khai mỏ 
Bên cạnh đó, các nhà canh tân còn 
đưa ra nhiều biện pháp để nâng cao 
trình độ văn hóa của người dân như 
lập nhà in, tự do xuất bản báo chí, 
sửa đổi phong tục tập quán Phan 
Bội Châu cho rằng tự do ngôn luận, tự 
do xuất bản báo chí, hội họp là một 
yêu cầu bức thiết trong phong trào 
dân chủ thời bấy giờ: “Cửa tự do rộng 
mở, báo chí tràn đường, tân thư đầy 
ngõ, đơn từ kiện cáo, bút lưỡi hùng 
đàm, luận bàn đủ việc nội trị ngoại 
giao” (Phan Bội Châu, tập 2, 1990: 
257). Còn Phan Châu Trinh cho rằng 
việc tiếp thu văn hóa cần có sự chọn 
lọc, tránh làm mất đi bản sắc văn hóa 
truyền thống của dân tộc, chẳng hạn 
như việc học tiếng Pháp: “Sử dụng 
ngôn ngữ của nước khác đã lạm dụng 
sức mạnh của họ thì họ sẽ bắt các 
anh phải quỳ gối cúi đầu dưới cái ách 
của họ. Xưa người ta bắt chúng ta 
học chữ Nho thì nay người ta bắt 
chúng ta học chữ Pháp!” (Phan Châu 
Trinh, tập 3, 2005: 191). Ông chủ 
trương tiếp thu có chọn lọc trên cơ sở 
giữ gìn những giá trị truyền thống của 
ông cha để lại: “Phàm đã là dân tộc 
sinh toàn trên hoàn vũ, đã có một cái 
lịch sử của dân tộc mình nghĩa là giữ 
gìn lấy những đức tính tốt mấy trăm 
ngàn năm cha ông để lại, khiến cho 
nước nào, dân tộc nào đối với mình 
cũng đem lòng kính trọng” (Phan 
Châu Trinh, tập 3, 2005: 243). 
Nhìn chung, các nhà canh tân Việt 
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 
đều khẳng định tầm quan trọng, tính 
cấp thiết của việc canh tân về văn hóa, 
giáo dục và đã đưa ra được nhiều 
biện pháp góp phần nâng cao trình độ 
dân trí cho nhân dân. 
Thứ tư, canh tân về quân sự và 
ngoại giao 
Trong hoàn cảnh Việt Nam cuối thế kỷ 
XIX đầu thế kỷ XX, các nhà canh tân 
nhận thấy rõ sự yếu kém của quân đội 
nước ta trước sức mạnh về vũ khí của 
Pháp. Do đó, họ cho rằng nhiệm vụ 
cần kíp trước mắt là phải gấp rút 
chỉnh tu võ bị, đầu tư trang thiết bị 
quân sự, chế tạo vũ khí Trong bài 
Tế cấp bát điều (1867) có tám điều 
cần làm gấp thì điều thứ nhất Nguyễn 
Trường Tộ đề cập là: “xin gấp rút sửa 
đổi việc võ bị” (Trương Bá Cần, 2002: 
266). Nhận thức rõ tầm quan trọng 
của binh lực, Nguyễn Trường Tộ đã 
đề xuất nhiều ý kiến về việc xây dựng 
chính sách quân sự như: soạn binh 
thư, binh pháp mới, coi trọng người 
lính, có kế hoạch đào tạo cán bộ chỉ 
huy Nguyễn Lộ Trạch cho rằng 
quân ta tuy đông nhưng không mạnh 
nên vấn đề trước tiên là phải xây 
dựng lại quân đội bằng cách chọn 
quân binh một cách nghiêm ngặt: “thà 
có một người mà dùng được một 
người còn hơn có mười người mà 
TRẦN THỊ HOA – TƯ TƯỞNG CANH TÂN Ở VIỆT NAM 
63 
không dùng được một” (Mai Cao 
Chương và Đoàn Lê Giang, 1995: 
118). Đồng quan điểm với Nguyễn 
Trường Tộ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ 
Trạch, Phạm Phú Thứ cũng khẳng 
định vai trò tiên quyết của binh bị như 
sau: “Cái yếu quyết làm cho quốc gia 
được mạnh mẽ không gì lớn bằng đầy 
đủ binh bị” (Phạm Ngô Minh, Chương 
Thâu, Nguyễn Kim Nhị, Phạm Phú 
Viết và Trần Phước Tuấn, tập 2, 2014: 
31). Xuất phát từ quan điểm trên, 
Phạm Phú Thứ đã đưa ra nhiều giải 
pháp cụ thể nhằm củng cố và tăng 
cường sức mạnh quân đội như coi 
trọng người lính, tăng lương bổng cho 
người quan võ và lính: “ thêm bổng 
lộc dưỡng nuôi để khuyến khích kẻ sĩ, 
chuyên trách tướng để làm mạnh binh. 
Bởi lộc không đủ thì hại dân, tướng 
không có quyền thì binh tan rã” (Phạm 
Ngô Minh, Chương Thâu, Nguyễn Kim 
Nhị, Phạm Phú Viết và Trần Phước 
Tuấn, tập 2, 2014: 74). Đồng thời, 
phải mua vũ khí mới, đặt thêm Cục cơ 
giới, tổ chức hội thao, tăng cường tổ 
chức luyện tập bắn súng, đặt lệ 
thưởng phạt để khuyến khích binh lính 
luyện tập. Còn Phan Bội Châu sớm 
nhận thấy vai trò quan trọng của lực 
lượng vũ trang đối với sự tồn vong 
của dân tộc, do đó ông quyết định 
thành lập Quang phục quân. Đặc biệt, 
nhiều quan điểm về xây dựng lực 
lượng vũ trang của ông được thể hiện 
tập trung trong tác phẩm Việt Nam 
Quang phục quân phương lược như: 
“1. Tôn chỉ của bản quân. 2. Nghĩa vụ 
của bản quân. 3. Kỷ luật của bản quân. 
4. Kế hoạch của bản quân” (Phan Bội 
Châu, tập 3, 2000: 366). Cùng với 
hoạt động nghiên cứu, chế tạo vũ khí, 
Phan Bội Châu còn vận động nhân 
dân trong cả nước góp tiền mua khí 
giới, vận động sự giúp đỡ của cá 
nhân và các tổ chức cách mạng Trung 
Quốc, phát hành Quân dụng phiếu và 
Thông dụng ngân phiếu để huy động 
sự giúp đỡ về tài chính của nhiều 
người. 
Bên cạnh đó, vấn đề ngoại giao chủ 
yếu là vấn đề đối phó với cuộc xâm 
lược của Pháp, vốn là mối bận tâm 
lớn của các nhà canh tân giai đoạn 
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sau khi 
phân tích tình hình thế giới và tương 
quan lực lượng giữa ta và địch, 
Nguyễn Trường Tộ khẳng định không 
có con đường nào khác là phải tạm 
thời thỏa hiệp với Pháp để tranh thủ 
thời gian canh tân đất nước, tìm kế 
dài lâu để đánh đuổi Pháp. Do đó, 
Nguyễn Trường Tộ đã đệ trình lên 
triều đình các sách lược ngoại giao: 
Thứ nhất, khai thác triệt để mâu thuẫn 
giữa Pháp và các nước khác; thứ hai, 
khai thác mâu thuẫn trong nội bộ 
người Pháp; thứ ba, khai thác sự đố 
kỵ, ganh ghét nhau giữa các nước lớn. 
Cùng với Nguyễn Trường Tộ, lập 
trường ngoại giao của Phạm Phú Thứ 
tạm thời “hòa” với Pháp chỉ là một 
cách để có thời gian canh tân đất 
nước, mở cửa bang giao với nước 
ngoài, học tập khoa học kỹ thuật của 
phương Tây, củng cố lực lượng và 
tính kế khôi phục đất nước. Đồng thời, 
Phạm Phú Thứ còn cho rằng cần phải 
khai thác mâu thuẫn giữa Pháp và các 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
64 
nước khác mà ở đây là mâu thuẫn lớn 
giữa Pháp và Anh và khai thác mâu 
thuẫn trong nội bộ người Pháp. Còn 
Phan Bội Châu chú trọng xây dựng 
mặt trận đoàn kết quốc tế với mục 
đích tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ 
quốc tế để đánh đuổi thực dân Pháp, 
giành lại độc lập cho dân tộc. Năm 
1908, Phan Bội Châu cùng các chí sĩ 
yêu nước và cách mạng người Trung 
Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ thành lập 
tổ chức Đông Á đồng minh hội, với tôn 
chỉ: “liên hiệp toàn Châu Á, đoàn kết 
với các chí sĩ các nước bị mất, dắt dìu 
các dân tộc cùng nhau bước lên sân 
khấu cách mạng để giáo dục nhân 
dân trong thời gian nước bị mất” 
(Phan Bội Châu, 1957: 119). Bên 
cạnh Đông Á đồng minh hội, ông còn 
đứng ra thành lập hội Chấn Hoa 
hưng Á để liên hiệp những người 
cách mạng Trung Quốc và cách 
mạng Việt Nam, đánh đuổi thực dân 
Pháp giành độc lập dân tộc: “chấn 
chỉnh nước Trung Hoa làm cho Châu 
Á hưng thịnh, đánh đổ kẻ thù trước 
mắt là thực dân Pháp đã xâm lược 
Việt Nam, mà kế hoạch là: bước một, 
viện trợ Việt Nam; bước hai, viện trợ 
Ấn Độ và Miến Điện; bước ba, viện 
trợ Triều Tiên” (Phan Bội Châu, 1957: 
153). 
Còn Phan Châu Trinh chủ trương 
thực hiện đường lối ngoại giao dựa 
vào Pháp để nâng cao dân trí, chấn 
dân khí; đồng thời tranh thủ sự ủng 
hộ của dư luận tiến bộ Pháp và gây 
áp lực để đòi hỏi chính phủ Pháp phải 
thực hiện những cải cách về chính trị, 
giáo dục, kinh tế từng bước đòi lại 
quyền lợi cho dân tộc: “Viết lên báo 
chương, trình bày nguyện vọng, kêu 
gọi các lý tưởng nhân đạo của nước 
Pháp dựa vào những người Pháp 
Cộng hòa chân thành” (Phan Châu 
Trinh, tập 3, 2005: 226). 
Như vậy, trong lĩnh vực quân sự và 
ngoại giao, các nhà tư tưởng canh 
tân đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm 
xây dựng quân đội đủ mạnh, và thỏa 
hiệp nhằm mở rộng quan hệ ngoại 
giao, khai thác sức mạnh và sự ủng 
hộ quốc tế để đánh đuổi thực dân 
Pháp. 
4. KẾT LUẬN 
Sự xuất hiện của tư tưởng canh tân 
ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX 
đầu thế kỷ XX là một tất yếu khách 
quan. Nội dung của tư tưởng canh 
tân giai đoạn này rất đa dạng, đề cập 
đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã 
hội. Bên cạnh tư tưởng canh tân về 
chính trị cải lương chưa triệt để như 
mô hình nhà nước kiểu mới của Phan 
Bội Châu, hay mô hình nhà nước 
theo tam quyền phân lập của Phan 
Chu Trinh; hay quan điểm thỏa hiệp 
trong ngoại giao, dựa vào Nhật, Pháp 
để củng cố đất nước, thì chủ trương 
của các nhà canh tân là phát triển 
thương nghiệp, chú trọng thực học, 
thực nghiệp, phát huy dân chủ, nêu 
cao truyền thống văn hóa tốt đẹp và 
tinh thần yêu nước của dân tộc Việt 
Nam  
TRẦN THỊ HOA – TƯ TƯỞNG CANH TÂN Ở VIỆT NAM 
65 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Nguyễn Q. Thắng. 1992. Phan Châu Trinh cuộc đời và tác phẩm 1872 - 1926. Hà 
Nội: Nxb. Văn học. 
2. Nguyễn Văn Dương. 1995. Tuyển tập Phan Châu Trinh. Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng. 
3. Đặng Hưng Dzoanh, Bùi Văn Côn và Phạm Tuấn Khanh. 1990. Đặng Huy Trứ - Con 
người và tác phẩm. TPHCM: Nxb. TPHCM. 
4. Mai Cao Chương và Đoàn Lê Giang. 1995. Nguyễn Lộ Trạch điều trần và thơ văn. Hà 
Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 
5. Nguyễn Văn Hòa. 2006. Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu. Hà Nội: Nxb. 
Chính trị Quốc gia. 
6. Phạm Ngô Minh, Chương Thâu, Nguyễn Kim Nhị, Phạm Phú Viết và Trần Phước Tuấn. 
2014. Phạm Phú Thứ toàn tập. Tập 2. Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng. 
7. Phan Bội Châu. 1957. Phan Bội Châu niên biểu. Bản dịch của Phạm Trọng Điềm và 
Tôn Quang Phiệt. Hà Nội: Nxb. Văn - Sử - Địa. 
8. Phan Bội Châu. 1990. Toàn tập - tập 2, 3, 5. Huế: Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Văn 
hóa ngôn ngữ Đông Tây. 
9. Phan Bội Châu. 2000. Toàn tập - tập 1, 2, 3. Huế: Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Văn 
hóa ngôn ngữ Đông Tây. 
10. Phan Bội Châu. 2015. Việt Nam quốc sử khảo. Chương Thâu dịch và chú thích. Hà Nội: 
Nxb. Văn hóa - Thông tin. 
11. Phan Châu Trinh. 2005. Toàn tập. 3 tập. Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng. 
12. Trần Văn Giàu. 1993. Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách 
mạng tháng Tám. Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch 
sử. Tập 1. Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia. 
13. Trương Bá Cần. 2002. Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo. TPHCM: Nxb. 
TPHCM. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_canh_tan_o_viet_nam_cuoi_the_ky_xix_dau_the_ky_xx.pdf